Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

HOÀN THIỆN HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM LÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.48 KB, 25 trang )

HOÀN THIỆN HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM LÀ
NHÂN TỐ CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
A. Bản chất của tiền lương
I. Các quan điểm cơ bản về tiền lương
1. Quan điểm chung về tiền lương
Một trong những đặc điểm của quan hệ sản xuất xã hội là hình thức phân
phối. Mỗi phương thức sản xuất đều có một hình thức phân phối nhất định.
Ăngghen viết: “Vì phân phối là do những lý do thuần túy kinh tế chi phối, cho
nên lợi ích của sản xuất sẽ điều chỉnh việc phân phối và phương thức phân phối
nào làm cho mọi người trong xã hội có thể phát triển toàn diện nhất, có thể duy
trì và biểu hiện năng lực của mình thì phương thức phân phối đó mới kích thích
phát triển nhất”
Phân phối là một trong bốn khâu quan trọng nhất của quá trình sản xuất xã
hội: Sản xuất ---Phân phối ---Trao đổi--- Tiêu dùng. Chủ nghĩa Mac Lênin khẳng
định trong quá trình sản xuất thì sản xuất đóng vai trò quyết định phân phối và các
khâu khác phụ thuộc vào sản xuất và do sản xuất quyết định nhưng có ảnh hưởng
trực tiếp, tích cực trở lại đối với sản xuất. Ănghen viết; “Phân phối không chỉ đơn
thuần là kết quả tiêu cực của sản xuất và trao đổi, đến lượt nó cũng có tác dụng trở
lại sản xuất, trao đổi”
Tổng sản phẩm xã hội do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối
cho tất cả tiêu dùng cá nhân, cho cả tích luỹ tái sản xuất mở rộng và cho tiêu dùng
công cộng. Dưới chủ nghĩa xã hội việc phân phối theo lao động phù hợp với đòi
hỏi đó, toàn bộ sản phẩm xã hội là kết quả của lao động thuộc về người lao động
và được phân phối vì lợi ích của họ
Phân phối theo lao động dưới chủ nghĩa xã hội chủ yếu là tiền lương tiền
thưởng. Tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội về bản chất khác hẳn tiền lương dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa người công nhân sau thời gian làm
việc, hoặc sau khi hoàn thành một khối lượng công việc nào đó, được nhà tư bản
trả một số tiền, đó là tiền lương tư bản chủ nghĩa. Tiền lương tư bản chủ nghĩa


không phải là tiền trả công lao động, không phải là giá cả của lao động.
Tiền lương tư bản chủ nghĩa là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động là giá
cả sức lao động biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động. Đó là bản chất
tiền lương tư bản chủ nghĩa còn trong CNXH tiền lương là một phần giá trị mà xã
hội làm ra trong một giai đoạn và được phân phối cho người lao động căn cứ quĩ
hàng hoá xã hội và công sức đóng góp của từng người
2. Quan điểm mới về tiền lương
Theo quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta, tiền lương trong giai đoạn
mới phải được trả theo đúng giá trị sức lao động. Điều này có nghĩa là
a. Tiền lương phải trả theo đúng cấp bậc công việc
Xuất phát từ quan điểm chung là tiền lương phải được trả theo đúng giá trị
sức lao động của người công nhân chúng ta nhận thấy rằng giá trị sức lao động
của người công nhân bên cạnh việc có thể lượng hoá được thông qua các sản
phẩm mà họ hoàn thành nhưng trong thực tế có rất nhiều công việc không tạo ra
sản phẩm thực tế hoặc do thời gian tạo ra sản phẩm quá lớn và do vậy rất khó
đánh giá, lượng hoá giá trị sức lao động của công nhân theo sản phẩm. Khắc phục
những khó khăn đó người ta đã tìm ra một chỉ tiêu mới nhằm lượng hoá giá trị sức
lao động mà người lao động bỏ ra đó là cấp bậc công việc. Người ta xác định rằng
để tạo ra một sản phẩm hay hoàn thành một bước công việc bất kỳ người công
nhân đều phải thực hiện một hay một số các công việc, thao tác nhất định tác động
lên đối tượng lao động nhằm cải biến nó thành các sản phẩm, bán thành phẩm
phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo. Các thao tác này tuỳ thuộc từng loại
công việc, loại sản phẩm mà đòi hỏi các yêu cầu khác nhau về sức lực cơ bắp hay
về trí lực, khả năng khéo léo trình độ khoa học, kinh nghiệm làm việc... của người
công nhân. Người ta cũng xác định được rằng có thể phân nhóm các loại công
việc khác nhau đó thành các nhóm có cùng yêu cầu về trí, lực để thực hiện và từ
đó xây dựng nên hệ thống cấp bậc công việc, các công việc có cùng cấp bậc công
việc có cùng yêu cầu để thực hiện công việc
Như vậy căn cứ vào cấp bậc công việc mà người công nhân thực hiện
người ta có thể lượng hoá chính xác hơn giá trị sức lao động mà người lao động

bỏ ra để thực hiện công việc đó. Vì vậy khi tiến hành trả lương người ta phải căn
cứ vào cấp bậc công việc để trả lương. Cấp bậc công việc cao có nghĩa là nó đòi
hỏi người công nhân phải hao tốn nhiều sức lực cơ bắp, phải có kinh nghiệm hơn..
giá trị sức lao động bỏ ra nhiều hơn để hoàn thành công việc do đó mà họ phải
được trả lương cao hơn công nhân thực hiện công việc có cấp bậc công việc thấp
hơn.
b. Tiền lương cao hay thấp là tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh
của đơn vị
Cũng xuất phát từ quan điểm tiền lương phải được trả theo đúng giá trị sức
lao động. Nếu giá trị sức lao động mà họ bỏ ra cao thì họ phải được hưởng lương
cao. Tuy vậy cần phải nói thêm rằng trong nền kinh tế thị trường lượng lao động
hao phí bỏ ra phải thực sự đem lại hiệu quả, thực sự đem lại giá trị mới hay nói
cách khác thì lao động phải hiệu quả. Lao động bỏ ra phải đạt được hiệu quả thì
mới được trả lương
Giá trị sức lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh là giá trị đầu vào
đặc biệt bởi vì nó không như các giá trị khác ở sản phẩm cuối cùng các giá trị
khác đều bị giảm đi riêng giá trị sức lao động lại được tăng lên ở sản phẩm cuối
cùng hay nói cách khác chính sự gia tăng của giá trị sức lao động tạo nên hiệu quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiền lương là biểu hiện của giá trị sức lao
động và nó nhỏ hơn giá trị thực tế mà việc sử dụng sức lao động đem lại. Chúng ta
quay lại với vấn đề hiệu quả trong hoạt động kinh doanh mà ở đây là sử dụng sức
lao động. Tính hiệu quả ở đây thể hiện qua việc sử dụng hợp lý sức lao động làm
cho lượng giá trị mới mà việc sử dụng sức lao động đem lại tăng đến tối đa có thể
được và vì vậy làm tăng được kết quả của hoạt động SXKD. Có thể dễ dàng nhận
thấy kết quả SXKD là một biểu hiện của tính hiệu quả trong quá trình sử dụng sức
lao động. Giá trị sức lao động bỏ ra của người lao động đem lại kết quả gì có thể
định lượng được và được xã hội chấp nhận được lưu thông trao đổi được sử dụng
để thỏa mãn nhu cầu của con người. Có như vậy sản phẩm tạo ra mới được thanh
toán để trả lương cho công nhân lao động.
Như vậy tiền lương cao hay thấp bên cạnh việc trả theo đúng giá trị sức lao

động mà họ bỏ ra còn phải tính đến tính hiệu quả của việc sử dụng sức lao động
mà biểu hiện của nó là kết quả hoạt động SXKD, nếu cùng một lượng giá trị sức
lao động bỏ ra nếu tính hiệu quả cao hơn, kết quả SXKD cao hơn thì tất yếu sẽ
được trả lương cao hơn và ngược lại nếu hiệu quả thấp hơn, kết quả SXKD thấp
hơn thì sẽ được trả lương thấp hơn thậm chí tiền lương sẽ giảm tối thiểu bằng 0
nếu như không có tính hiệu quả trong việc sử dụng lao động.
c. Phải gắn chặt tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
Cũng lại xuất phát từ quan điểm tiền lương phải trả theo đúng giá trị sức
lao động. Như ta đã biết giá trị sức lao động được biểu hiện qua các hao phí về cơ
bắp, trí lực trong quá trình hoạt động SXKD. Tiền lương mà người công nhân
nhận được là được trả cho các hao phí đó và như bất kỳ một hoạt động nào nó
phải được dùng để bù đắp lại các hao phí đó. Tiền lương được trả là tiền lương
tiền tệ nếu xét về mặt hiện vật nó chỉ là giấy, kim loại hay bất kỳ một vật thể nào
được xã hội coi là có giá trị trong trao đổi nhưng thực tế cái mà tái tạo ra các hao
phí của người lao động lại là thức ăn, nước uống. Ở mức độ cao hơn đó là các giá
trị tinh thần khác. Vì vậy cần phải có sự chuyển đổi tiền lương từ tiền tệ sang các
yếu tố nhằm tái tạo hao phí lao động. Trong nền kinh tế thị trường muốn trao đổi
cần phải có tiền và khi trao đổi thì yếu tố giá cả là yếu tố quan trọng quyết định
đến hành vi trao đổi. Trên cơ sở đó người ta xây dựng nên hai khái niệm về tiền
lương là tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế trong đó tiền lương danh
nghĩa là lượng tiền tệ mà người lao động nhận được do sự đóng góp sức lao động
của mình vào hoạt động SXKD. Còn tiền lương thực tế là chỉ tiêu nhằm xác định
về mặt hiện vật các giá trị vật chất mà tiền lương danh nghĩa đem lại. Giữa tiền
lương danh nghĩa và tiền lương thực tế có mối quan hệ
TL danh nghĩa
TL thực tế = 
Chỉ số giá
Khi chỉ số giá thay đổi làm cho tiền lương thực tế thay đổi ảnh hưởng đến
cuộc sống của người lao động do vậy cần phải có sự điều chỉnh tiền lương danh
nghĩa khi chỉ số giá thay đổi nhằm ổn định tiền lương thực tế tạo điều kiện cho nó

thực hiện đầy đủ các chức năng vai trò của nó.
d. Doanh nghiệp phải đảm bảo trả lương đúng thời hạn qui định để ổn
định đời sống cho người lao động.
Trong xã hội hiện đại thời gian và tính thời điểm luôn được coi trọng.
Tiền lương của người công nhân sau khi nhận được dùng để chi cho hai nhu
cầu là tiêu dùng và tích lũy. Nhu cầu tiêu dùng là nhu cầu có ý nghĩa quan
trọng và nó là nhu cầu thường trực trong cuộc sống. Trong xã hội hiện đại sản
xuất được chuyên môn hóa cao độ lưu thông trao đổi đóng vai trò quan trọng
và vì vậy tiền tệ có vai trò rất lớn trong xã hội.
Người lao động khi thoả mãn nhu cầu của mình cần phải có tiền để mua
bán, trao đổi. Tiền của người lao động ở đây có thể coi chủ yếu là tiền lương.
Vì vậy do nhu cầu tiêu dùng là nhu cầu thường xuyên nên người lao động cũng
cần tiền liên tục và họ lao động để nhận chúng, để có kế hoạch sử dụng chúng.
Bất kỳ một sự thay đổi trong thời hạn trả lương sẽ làm thay đổi các kế hoạch,
xáo trộn nhu cầu tiêu dùng và vì vậy sẽ làm cho cuộc sống của người lao động
bất định, do vậy doanh nghiệp cần phải trả lương đúng thời hạn, không chỉ để
ổn định đời sống cho người lao động mà còn đảm bảo rằng người lao động sẽ
toàn tâm toàn ý khi lao động trong doanh nghiệp.
e. Doanh nghiệp phải đảm bảo đủ việc làm để ổn định và tiến tới tăng
mức thu nhập cho người lao động. Việc làm không chỉ là nhu cầu của người
lao động mà còn là nhu cầu cả chủ doanh nghiệp. Đối với người lao động có
việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, có nguồn sống... còn đối với doanh
nghiệp có việc làm có nghĩa là có cơ hội để tồn tại và phát triển. Có đủ việc
làm là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng các kế hoạch trong tương lai và xác
định được đích đến của mình. Xuất phát từ các yếu tố đó doanh nghiệp còn
phải đảm bảo đủ việc làm để ổn định và tăng mức lương cho người lao động.
g. Trong một đơn vị phải đảm bảo công bằng hợp lý
Xã hội càng hiện đại, giá trị “mới” tạo ra ngày càng nhiều, thu nhập, đời
sống của người lao động ngày càng cao thì yếu tố tinh thần lại càng giữ vị trí
quan trọng. Khi lao động chuyển từ giản đơn sang lao động phức tạp thì yếu tố

tinh thần có vai trò quyết định đến năng suất lao động, hiệu quả lao động. Vì
vậy vấn đề tạo động lực trong doanh nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng
trong chính sách quản lý doanh nghiệp. Và vấn đề tạo động lực cho lao động
bằng các biện pháp phi vật chất ngày càng quan trọng hơn khi yếu tố vật chất
trở nên kém ý nghĩa.
Một trong số các biện pháp phi vật chất là tạo động lực thông qua việc trả
lương công bằng hợp lý. Công bằng hơn là mục tiêu mà các nhà quản lý luôn
vươn tới, nó là cơ sở để thực hiện tất cả các qui phạm đề ra, có công bằng mới
trả lương theo đúng giá trị sức lao động, có công bằng mới trả lương theo hiệu
quả lao động... và công bằng là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy người lao
động vươn lên trong hoạt động sinh tồn vì họ không chỉ mang lại giá trị vật
chất mà còn được xã hội khẳng định tính hơn trội của họ, thỏa mãn được nhu
cầu tâm lý tự hoàn thiện, khẳng định cái tôi cá nhân một trong những nhu cầu
ở cấp cao nhất của con người.
II. Các chức năng cơ bản của tiền lương
1. Chức năng tái sản xuất sức lao động
Như Các Mác đã nói trước khi làm bất cứ một việc gì từ đơn giản đến phức
tạp thì bất cứ một con người nào cũng phải ăn, mặc hay nói cách khác họ phải
được thỏa mãn các nhu cầu sinh lý tổi thiểu của mình. Muốn sống và phát triển thì
bất kỳ con người nào cũng phải được thỏa mãn các nhu cầu nói trên.
Lao động cũng là hoạt động của con người và lẽ dĩ nhiên để có khả năng
lao động người lao động phải ăn, mặc hay chúng ta có thể nói để có sức lao động
thường xuyên người lao động cần phải được tái sản xuất sức lao động. Để có được
các yếu tố nhằm thỏa mãn các nhu cầu đó trong xã hội hiện nay người lao động
cần phải có hoạt động trao đổi mua bán với một công cụ đặc biệt đó là tiền tệ; có
tiền họ mới có được các yếu tố trên.
Tiền được nói ở đây gồm phần lớn là tiền lương từ lao động của người lao
động hay nói cách khác muốn có được các yếu tố thỏa mãn nhu cầu của mình
người lao động cần có tiền lương. Tiền lương phải đảm nhận việc đem lại cho
người lao động các yếu tố mà họ cần. Tiền lương phải thực hiện chức năng tái sản

xuất sức lao động trí tuệ để lao người lao động nghiên cứu, tích lũy kinh nghiệm,
mua sách báo khoa học... giải trí, thư giãn...
Từ cơ sở là chức năng tái sản xuất sức lao động của tiền lương, người ta đã
xây dựng lên tiền lương tối thiểu. Đây là tiền lương đủ để tái sản xuất sức lao
động cho người lao động khi thực hiện một công việc nào đó. Trong thực tế trên
lương tối thiểu có thể khác nhau tùy yêu cầu tái sản xuất sức lao động của người
lao động như thế nào.
2. Chức năng kích thích lao động
Tiền lương là cơ sở để tái sản xuất sức lao động, để người lao động có một
cuộc sống tốt đẹp hơn, là điều kiện để người lao động tự hoàn thiện mình, khẳng
định mình... Do vậy sức ép của tiền lương đối với người lao động là rất lớn. Họ sẽ
phải cố gắng để có được tiền lương cao vì nó không chỉ đem lại cho họ giá trị vật
chất mà còn đem lại cho họ giá trị tinh thần. Từ quan điểm tiền lương trả đúng
theo giá trị sức lao động và nhận định về hiệu quả của sử dụng sức lao động,
người lao động cần phải đóng góp được nhiều hơn giá trị sức lao động của họ. Họ
phải sử dụng hợp lý thời gian làm việc để đóng góp được nhiều nhất sức lao động
của mình. Họ sẽ phải lao động hăng say, tăng số giờ làm việc thực tế, giảm số giờ
hao phí không cần thiết. Họ phải sử dụng hiệu quả sức lao động của mình, tăng tỉ
lệ sức lao động có ích trên tổng hao phí sức lao động, họ phải giảm được các thao
tác thừa trong quá trình sản xuất, tăng được năng suất lao động, tăng tỉ lệ thành
phẩm đạt chất lượng cao, phát huy sáng kiến nhằm tận dụng công suất máy móc...
nâng cao hiệu quả sử dụng lao động cho doanh nghiệp và những cố gắng nỗ lực
này của họ được ghi nhận, cùng với việc tăng lương kích thích lao động, tiền
thưởng còn tạo cho họ một động lực mạnh mẽ hơn nữa và cứ như vậy tiền lương
đã làm cho kích thích lao động từ thụ động sang việc chủ động nâng cao năng lực
của mình.
3. Chức năng điều phối lao động
Tiền lương được trả theo đúng giá trị của sức lao động nhưng đánh giá về
hiệu quả, chất lượng của giá trị sức lao động lại phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau
như tính cấp thiết, tính thời điểm... Do vậy người ta đã lợi dụng đặc tính này để sử

dụng tiền lương như một công cụ hiệu quả trong điều phối lao động. Lao động ở
đây làm công việc gì là tự quyền quyết định của người lao động trên cơ sở đánh
giá xem xét tiền lương đem lại và sức lao động hao phí bỏ ra. Nếu cùng một công
việc, cùng điều kiện làm việc mà họ được đánh giá là có giá trị sức lao động đóng
góp cao, được tiền lương cao thì họ sẽ chấp nhận công việc đó. Do vậy khi mong
muốn lao động tập trung hay giảm bớt lượng lao động có một công việc, nhà quản
lý sử dụng đến công cụ tiền lương. Muốn tập trung lao động họ chỉ cần đánh giá
cao sức lao động mà người lao động bỏ ra và trả lương cao lên thì tất yếu lao động
sẽ tập trung tại đó và ngược lại muốn giảm bớt lượng lao động quản lý chỉ cần
giảm lương thấp xuống. Đây không phải là sự điều phối lao động bằng các mệnh
lệnh hành chính. Sự điều phối này thực chất là sự tự nguyện của người lao động
và vì vậy hiệu quả của lao động sẽ cao hơn rất nhiều.
4. Chức năng quản lý lao động
Các tác dụng to lớn của tiền lương đối với người lao động đã rõ như vậy sử
dụng công cụ tiền lương trong hoạt động quản lý là điều tất yếu. Tiền lương thể
hiện chức năng quản lý lao động thể hiện qua việc nó được sử dụng nhằm theo
dõi, giám sát người lao động, quản lý gián tiếp người lao động, đánh giá hiệu quả
sử dụng lao động. Nhìn vào tiền lương của người lao động, ta thấy được nguyên
nhân của việc tiền lương cao, thấp là do đâu, do đơn giá cao hay thấp, do người
lao động chăm chỉ hay biếng nhác. Ta thấy được trong cùng một đơn vị thời gian
sự khác nhau về tiền lương giữa hai công nhân cùng làm việc, đưa ra các nhận
định, đánh giá. Khi tiến hành phân tích, chứng minh các nhận định đó đưa ra các
giải pháp nhằm thực hiện đầy đủ các quan điểm về tiền lương là thực chất chúng
ta đã thực hiện hoạt động quản lý.
III. Vai trò kinh tế của tiền lương
1. Đối với người lao động
Đối với người lao động tiền lương với ý nghĩa là thu nhập của họ có vai trò
to lớn đối với hoạt động của họ trong xã hội. Và vì vậy họ luôn luôn có mong
muốn được tiền lương cao hơn, có được thu nhập nhiều hơn. Muốn vậy họ phải
đóng góp nhiều hơn giá trị sức lao động cảu mình vào hoạt động sản xuất kinh

doanh của xã hội. Họ tăng lượng giá trị sức lao động đóng góp vào hoạt động sản
xuất không chỉ bằng việc tăng cường độ hoạt động mà ngày nay họ phải nâng cao
hiệu quả sức lao động, phải chuyển từ lao động giản đơn sang lao động phức tạp.
Vì vậy họ phải không ngừng nâng cao khả năng của mình, cố gắng học hỏi trí
thức khoa học, tích lũy kinh nghiệm và sử dụng những gì họ có một cách sáng tạo
nhất nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Phấn đấu vì một mức tiền lương cao hơn tự thân nó đã làm giảm ảnh
hưởng vật chất của tiền lương khi tiền lương cao và khi kích thích lao động trở
thành cái bên trong của mỗi cá nhân người lao động thì điều đó có nghĩa là người
công nhân đạt được mức độ hoàn thiện rất cao, có khả năng tham gia các hoạt
động cao hơn hoạt động sản xuất như hoạt động quản lý, hoạt động nghiên cứu
khoa học, ranh giới giữa người quản lý và người lao động bị xóa bỏ. Đây là một
mục tiêu lớn mà nếu đạt được thì bản thân người công nhân cũng như doanh
nghiệp hoàn toàn có khả năng phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế.
2. Đối với người sử dụng lao động
Chi phí lao động là chi phí đặc biệt, nó mang lại hiệu quả lớn hơn chi phí
bỏ ra nhưng với danh nghĩa là chi phí, chủ doanh nghiệp đều phải đặt ra yêu cầu
tiết kiệm chi phí lao động nhưng nội dung của tiết kiệm ở đây là không chỉ đơn
thuần là giảm, là bớt mà nội dung chủ yếu của tiết kiệm ở đây là sử dụng hợp lý,
hiệu quả chi phí lao động.
Để sử dụng hợp lý chi phí lao động chủ doanh nghiệp hay người quản lý
phải xây dựng được kế hoạch sử dụng lao động hợp lý, xây dựng nên bộ máy tổ
chức quản lý phù hợp, có được hệ thống các đòn bẩy kinh tế đối với lao động... có
như vậy, người lao động mới hăng say với công việc, nỗ lực thực hiện và mang lại
hiệu quả cao nhất.
Sử dụng chi phí lao động phải có tính kế tiếp, phải có kế hoạch trong tương
lai vì vậy người quản lý phải có được kế hoạch nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực của doanh nghiệp, phải có kế hoạch tuyển mộ, bồi dưỡng, đào tạo lại nguồn
nhân lực.
Như vậy để đạt được hiệu quả trong việc sử dụng sức lao động (tiền lương)

buộc chủ doanh nghiệp, người quản lý phải có sự cố gắng rất lớn, phải nâng cao
trình độ của mình... như vậy nó không chỉ có lợi cho người lao động mà còn có
ích cho sự phát triển của doanh nghiệp mang lại nhiều lợi nhuận cho chủ doanh
nghiệp.
3. Đối với xã hội
Có thể nhận thấy ảnh hưởng của tiền lương đối với nền kinh tế quốc dân là
rất to lớn. Trong kinh tế vĩ mô tiền lương là một bộ phận không thể tách rời trong
việc xây dựng nên các chính sách kinh tế vĩ mô. Tiền lương trong nền kinh tế là
một phần trong giá trị tổng sản phẩm quốc dân và quốc nội (GDP và GNP)
Nó là cơ sở để xây dựng nên các chính sách về đầu tư, lãi suất, thu nhập,
những chính sách lớn đối với bất kỳ nền kinh tế nào.
Ảnh hưởng xã hội của tiền lương cũng rất lớn vì nó tác động trực tiếp đến
cuộc sống của người lao động. Khi có sự bất cập trong chính sách tiền lương sẽ là
một trong các nguyên nhân cơ bản gây ra sự bất ổn trong xã hội và gây cản trở sự
phát triển của xã hội trên nhiều mặt kinh tế, văn hóa...
B. Các hình thức tiền lương đang được áp dụng trong các doanh
nghiệp
Các hình thức tiền lương hợp lý có tác dụng kích thích tăng năng suất lao
động, sử dụng thời gian lao động hợp lý nâng cao chất lượng sản phẩm. Với mục
đích phát huy tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp trong lĩnh vực tiền lương
Nhà nước quy định.
“Xí nghiệp có quyền lựa chọn các hình thức trả lương thực hiện rộng rãi
lương khoán, lương sản phẩm và các hình thức tiền lương trong xí nghiệp, trên cơ
sở quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động và đảm bảo mối quan hệ giữa
nhịp độ tăng tiền lương (thu nhập) bình quân với năng suất của đơn vị”
Tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể khác nhau của quá trình lao động và
các nhiệm vụ kinh tế được giải quyết mà lựa chọn hình thức trả lương. Về nguyên
tắc, tất cả các hình thức trả lương đều quy về hai hình thức chủ yếu là lương sản
phẩm và lương thời gian, có thể được trả kết hợp với các khoản tiền thưởng theo
lương (lương thời gian có thưởng và lương sản phẩm có thưởng). Bằng cách này

trong tiền lương bao hàm các kết quả khác nhau về mặt chất lượng và số lượng mà
nếu chỉ trả lương thời gian hoặc lương sản phẩm đơn thuần không thể thực hiện
được.
I. Hình thức trả lương theo thời gian
Hình thức trả lương theo thời gian là số tiền lương trả cho người lao động
căn cứ vào thời gian làm việc và tiền lương trong một đơn vị thời gian. Như tiền
lương theo thời gian phụ thuộc vào 2 nhân tố ràng buộc là mức độ tiền lương
trong một đơn vị thời gian và thời gian làm việc.
Tùy điều kiện và trình độ quản lý thời gian lao động, hình thức trả lương
theo thời gian có thể áp dụng theo 2 cách trả lương theo thời gian giản đơn và trả
lương theo thời gian có thưởng.

×