Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.32 KB, 45 trang )

THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
A. Tổng quan về quá trình đổi mới bộ máy quản lý nhà nước về đất đai ở Hà
Nội :
Trước khi luật đất đai ban hành năm 1993, ở Hà Nội trong thời gian này
công tác quản lý đất đai trên địa bàn lãnh thổ do bốn cơ quan đảm nhận đó là: Sở
quản lý Ruộng đất, Sở xây dựng, Kiến trúc sư trưởng thành phố và sở Nhà đất.
Trong suốt thời gian này cũng như tình hình chung của cả nước, quỹ đất của Hà
Nội không được quản lý thống nhất, sử dụng lãng phí, công tác quản lý nhà nước
về đất đai còn gặp nhiều khó khăn, bộ máy quản lý cồng kềnh chồng chéo. Việc lấn
chiếm đất công mượn đất liên doanh liên kết chưa theo nguyên tắc, đất hoang hoá
còn nhiều. Sự biến động đất đai chưa được theo dõi và có hướng giải quyết kịp thời
mà thường bị động chạy theo hậu quả. Vì vậy cũng trong thời gian này, một loạt
các văn bản pháp lý ra đời góp phần chỉ đạo kịp thời công tác quản lý sử dụng đất
theo từng nội dung khía cạnh giúp cho cơ quan chức năng và các cấp trong thành
phố thực hiện ngày một nền nếp và có hiệu quả hơn để cố gắng đáp ứng được công
tác quản lý sử dụng đất đai đặc biệt là yêu cầu cần thiết đối với thành phố Hà Nội.
Sau khi luật đất đai ban hành năm 1993, các quận huyện của Hà Nội có
những biến đổi do việc xác lập lại địa giới hành chính. Năm 1994, thành phố Hà
Nội đã cho thực hiện chỉ thị 364- CT ngày 6/11/1991 của chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng về giải quyết những tranh chấp đất đai liên quan đến điạ giới hành chính các
cấp tỉnh, huyện, xã. Do bộ máy quản lý đất đai trên địa bàn thành phố là phân tán,
không tập trung thống nhất cho nên tháng 4/1995, thành phố Hà Nội thành lập Sở
địa chính dựa trên cơ sở toàn bộ chức năng và nhiệm vụ của sở quản lý Ruộng đất
và đo đạc và chức năng quản lý đất đô thị của Kiến trúc sư trưởng thành phố. Thực
hiện Nghị định số 34CP của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
ngành Địa chính, tập trung nhiệm vụ và thành lập phòng Địa chính các quận huyện,
mỗi xã phường có một cán bộ địa chính chuyên trách giúp UBND các quận huyện
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai và đo đặc bản đồ. Còn Sở Nhà đất
được thành lập vào năm 1988, là cơ quan tham mưu giúp UBND thành phố quản
lý quỹ đất liên quan đến quỹ nhà được giao quản lý, quỹ đất tại các khu nhà ở xây


dựng tập trung. Đến tháng 1 năm 1999, UBND thành phố Hà Nội Thành lập Sở địa
chính nhà đất trên cơ sở sáp nhập Sở Địa chính và sở Nhà đất thực hiện chức năng
quản lý thống nhất toàn bộ đất đai và nhà trên địa bàn thành phố. Việc tổ chức bộ
máy như vậy đã làm giảm bớt những khó khăn thủ tục rườm rà trước kia, tạo điều
kiện cho việc quản lý đất đai có hiệu quả hơn. Công tác quản lý nhà nước về đất đai
trên địa bàn thành phố từng bước được ổn định và thống nhất về một đầu mối quản
lý là Sở địa chính nhà đất. Công tác quản lý đất đai được Sở địa chính nhà đất thực
hiện theo bảy nội dung đã được qui định trong luật đất đai.
B. Thực trạng của công tác quản lý đất đai.
1. Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá đất, phân hạng, lập bản đồ địa chính
Đây là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Trong những năm qua, để tăng cường vai trò quản lý đất đai, để năm chắc toàn bộ
quỹ đất cả về số luợng và chất lượng, công tác này đã được UBND thành phố Hà
Nội chỉ đạo cho các ngành có liên quan đầu tư cả về tài chính cũng như về con
người để công tác này đạt kết quả cao nhất. Cơ quan quản lý đất đai đã thực hiện
quá trình khảo sát đo đạc để tổng hợp diện tích đất tự nhiên và từng loại đất theo
mục đích sử dụng như đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư, đất chuyên
dùng, đất chưa sử dụng
Kết quả của quá trình đó đã giúp cho cơ quan quản lý đánh giá chính xác số
lượng cũng như chất lượng đất và lập bản đồ địa chính trên toàn thành phố, giúp
cho công tác quản lý đất đai một cách chặt chẽ đến từng thửa đất, đến từng chủ sử
dụng đất. Bước đầu ngành Địa chính của thành phố đã áp dụng công nghệ tin học
vào nhiều lĩnh vực như công tác cập nhật bản đồ, bàn giao mốc giới, xây dựng hồ
sơ địa chính và trích lục bản đồ, gắn việc quản lý đất đai với quản lý nhà nước và
đã tiến hành nhiều công trình thí điểm về đo đạc lập sổ địa chính theo phương pháp
quản lý mới ở một số phường xã.
Quá trình đo đạc bản đồ địa chính ở Hà Nội có sự khác nhau qua các giai đoạn.
Giai đoạn trước năm 1954 thực dân Pháp đã tiến hành thành lập 1902 bản đồ địa
chính tỉ lệ 1/200 và 1/500, 910 tờ bản đồ tỉ lệ 1/1000, 942 bản đồ tỉ lệ 1/2000 cho
toàn bộ làng xã khu phố trên địa bàn Hà Nội.

Trong giai đoạn 1955 đến 1975, thành phố Hà Nội không xây dựng bản đồ địa
chính. Công tác quản lý đất đai dựa vào hồ sơ và bản đồ địa chính thời Pháp và
được chỉnh lý vào cuối năm 1959-1960, công tác xây dựng bản đồ địa chính ít được
quan tâm do đất nước vẫn còn chiến tranh.
Giai đoạn 1975 đến 1991, Cục đo đạc bản đồ nhà nước đã giúp Hà Nội thành lập
hệ thống bản đồ tỉ lệ 1/5000 cho bốn quận cũ là Hai Bà Trưng, Đống Đa, Ba Đình,
Hoàn Kiếm, 1/10000 cho bốn huyện cũ là Sóc Sơn, Từ Liêm, Đông Anh, Gia lâm
và hệ thống bản đồ tỉ lệ 1/25000 cho toàn thành phố. Trong giai đoạn này, công tác
đo đạc thành lập bản đồ vẫn chưa được quan tâm đầy đủ. Tuy nhiên do yêu cầu
thống kê, kiểm kê đất đai theo chỉ thị 299/TTg năm 1991 của Thủ tướng chính phủ
thì một số huyện, xã của Hà Nội đã thành lập bản đồ giải thửa nhưng hệ thống bản
đồ này mang tính rời rạc chắp vá, độ chính xác thấp, nội dung của bản đồ không thể
hiện được yêu cầu của công tác quản lý.
Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001, được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Tổng cục
Địa chính, thành phố Hà Nội đã quyết định đo đạc bản đồ và xây dựng hồ sơ địa
chính cho toàn bộ các xã ngoại thành Hà Nội. Do được đầu tư kinh phí và ứng dụng
tiến bộ khoa học kĩ thuật vào công tác đo đạc cho nên Hà Nội đã thành lập xong
bản đồ gốc địa chính cho toàn bộ 118 xã, thị trấn của 5 huyện ngoại thành Hà Nội.
Có 13859ha đất bản đồ tỉ lệ 1/500, 45727ha đất bản đồ tỉ lệ 1/1000, 21412ha đất
bản đồ tỉ lệ 1/2000, 5179ha bản đồ tỉ lệ 1/5000. Toàn bộ khối lượng bản đồ địa
chính các xã ngoại thành được vẽ thành 12 mảnh bản đồ tỉ lệ 1/5000, 286 mảnh bản
đồ tỉ lệ 1/2000, 2442 mảnh bản đồ tỉ lệ 1/1000, 2960 mảnh bản đồ tỉ lệ 1/500. Hệ
thống bản đồ địa chính trên thể hiện một số thông tin địa chính và các yếu tố địa lý
khác liên quan đến đất đai phục vụcho:
- Kiểm kê thống kê đất.
- Giao đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp cho các hộ gia đình cá nhân và tổ
chức đăng kí đất đai, xét duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Đăng kí cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
- Xác nhận hiện trạng và theo dõi biến động đất đai.
Cụ thể tỉ lệ bản đồ được thành lập đến từng xã, phường, thị trấn như sau:

Huyện Sóc Sơn: Đất thổ cư tỉ lệ bản đồ là : 1/1000
Đất thổ canh tỉ lệ bản đồ là : 1/500.
Huyện Đông Anh: Đất thổ cư tỉ lệ bản đồ là : 1/500.
Đất thổ canh tỉ lệ là :1/1000.
Huyện Từ Liêm :Đất thổ cư :1/500.
Đất thổ canh : 1/1000.
Đối với các xã Yên Hoà, Trung Hoà, Xuân phương, Đại Mỗ tỉ lệ bản đồ cả thổ
canh và thổ cư đều là 1/1000.
Đối với phường Quan Hoa, tỉ lệ bản đồ cả thổ canh và thổ cư là 1/200.
Huyện Thanh Trì: Đất thổ cư :1/500.
Đất thổ canh : 1/1000.
Thị trấn Văn Điển : 1/200.
Huyện Gia Lâm: Đất thổ cư: 1/500.
Đất thổ canh : 1/1000.
Đối với các xã Gia Thụy, Hội Xá, Việt Hưng tỉ lệ bản đồ cả thổ canh và thổ cư là
1/1000.
Các xã Ngọc Thụy, Thượng Thanh, Giang Biên có cùng tỉ lệ bản đồ thổ cư là
1/1000, thổ canh là 1/2000.
Ở khu vực nội thành đã thành lập bản đồ ở tất cả bảy quận với tỉ lệ bản đồ được lập
là 1/200.
Hệ thống bản đồ được nêu trên được thành lập bằng phương pháp toàn đạc, một số
xã huyện Thanh trì được thành lập bằng phương pháp ảnh máy bay cho khu vực đất
nông nghiệp. Nội dung bản đồ là hiện trạng đất tại thời điểm đo vẽ. Khối lượng bản
đồ này đã được giao cho các cấp quận huyện để thực hiện công tác kê khai đăng ký
đất.
* Định giá đất: Công tác này về cơ bản vẫn áp dụng NĐ87CP của chính phủ về
khung giá ban hành. Mặt khác để phù hợp với thực tế, UBND thành phố đã ban
hành quyết định 3519/QĐ- UB ngày 12/9/1997 qui định về khung giá các loại đất
trên địa bàn thành phố. Việc định giá đất xác định nghĩa vụ tài chính của các đối
tượng sử dụng đất trong thời gian qua đã tăng cường nguồn thu cho ngân sách của

nhà nước. Tuy vậy giá đất thực tế vẫn cao gấp 4 đến 6 lần so với khung giá do nhà
nước qui định và giá đất trên thị trường là do sự thoả thuận giữa các cá nhân tham
gia mua bán đất đai là chủ yếu. Chính điều này đã gây khó khăn cho nhà nước
trong việc đền bù thiệt hại khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng do giá đền bù quá
thấp so với giá thị trường và người dân không chấp nhận giá đền bù của nhà nước.
Giá đất trong quan hệ mua bán đất đai trên địa bàn Hà Nội thời gian qua chủ yếu do
cung cầu đất chi phối mặt khác khi bán đất thì người bán tự quyết định giá bán mà
không theo khung giá do nhà nước qui định. Chính vì vậy có một số đối tượng đã
tự ý đẩy giá lên cao nhằm mục đích thu được nguồn lợi nhuận to lớn. Cũng trong
thời gian qua trên địa bàn đã xuất hiện những cơn sốt đất, giá đất tăng vọt theo thời
gian làm ảnh hưởng đến thị trường hàng hoá và tiền tệ của Hà Nội.
Việc định giá đất còn khó khăn do chưa có một tổ chức định giá khoa học. Công
tác này rất phức tạp do phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia,
mỗi địa phương. Mà mục tiêu xác định giá đất là để tính thuế chuyển quyền sử
dụng đất, tính giá trị quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất, là cơ sở để
tính tiền đền bù thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất...
Từ đó có thể thấy công tác định giá đất có ý nghĩa quan trọng và rất phức tạp bởi
vậy cần phải tăng cường công tác này để làm cơ sở cho công tác quản lý đất đai
trong giai đoạn hiện nay.
* Phân hạng đất:
Công tác này đã được UBND thành phố Hà Nội triển khai thực hiện kể từ khi
chính phủ ban hành nghị định số 73CP ngày 25/10/1993 qui định chi tiết về phân
hạng đất để tính thuế sử dụng đất nông nghiệp. Theo tinh thần của nghị định này,
UBND 5 huyện ngoại thành Hà Nội là Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì,
Từ Liêm đã chỉ đạo cho UBND xã phường thị trấn tiến hành phân hạng đất nông
nghiệp vừa căn cứ vào tiêu chuẩn hạng đất thực tế, vừa căn cứ vào kết quả sản xuất
nông nghiệp của địa phương. Kết quả của công tác này đã đem lại một nguồn thu
lớn, tăng cường ngân sách của thành phố Hà Nội, từ đó có thể cung cấp thêm nguồn
kinh phí để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về đất đai
2. Thực trạng qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất:

Sự phát triển của nền kinh tế với nhịp độ cao của mỗi quốc gia, mỗi vùng
trước hết có quan hệ chặt chẽ với công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của
quốc gia đó. Việc thực hiện công tác này có ý nghĩa quan trọng nhằm đánh giá về
điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, hiện trạng sử dụng đất, phân bổ quĩ đất để sử
dụng cho từng mục đích một cách hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của thành phố Hà Nội. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Hà Nội giai
đoạn 1991-2000 mới chỉ tập trung giải quyết việc sử dụng đất đai khu vực nội
thành còn khu vực ngoại thành chưa được giải quyết cụ thể để phân chia ra từng
loại đất. Nhằm khắc phục những tồn tại đó, UBND thành phố đã rà soát kiểm tra
chặt chẽ tình hình sử dụng đất trên địa bàn để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
giai đoạn 2001-2010. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của thành phố giai đoạn
này đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số 1447/QĐ- TTg ngày
9/11/2001. Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001-2005) của thành phố đã được thủ
tướng phê duyệt tại quyết định số 1115 /QĐ -TTg ngày 5/11/2002. Hiện nay
UBND thành phố đang chỉ đạo Sở địa chính nhà đất lập kế hoạch và hướng dẫn
UBND các quận, huyện, phường, xã, thị trấn triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đến năm 2010 để cụ thể hoá quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của thành
phố đã được thủ tướng phê duyệt. Thực hiện nghị định 64CP về giao đất nông
nghiệp ổn định lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho
các hộ gia đình cá nhân, 118/118 xã trên địa bàn thành phố đã lập quy hoạch phân
bổ sử dụng đất được ngành Địa chính nhà đất và ngành Quy hoạch kiến trúc thẩm
định, UBND các huyện phê duyệt. Đây là cơ sở pháp lý để UBND các xã và huyện
xây dựng kế hoạch giao đất giãn dân nông thôn đồng thời quản lý chặt chẽ quý đất
công ích của các xã, xây dựng cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn. Hiện nay huyện
Thanh Trì đã lập xong quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010, các ngành có liên
quan của thành phố đang thẩm định để trình UBND thành phố phê duyệt.
Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thời kì 2001-2010 đã được Sở địa
chính nhà đất Hà Nội xây dựng dựa trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế xã hội
của thủ đô giai đoạn 2001-2010, dựa trên hiện trạng sử dụng đất trên toàn thành
phố trong thời gian qua. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội chủ yếu đến năm 2010

là: Đến năm 2010, tổng GDP của Hà Nội tăng 2,4 đến 2,7 lần so với năm 2000, tốc
độ tăng GDP hàng năm đạt 9,5 đến 10%, GDP bình quân đầu người khoảng 2200$.
Cơ cấu kinh tế thủ đô sẽ là : Dịch vụ (55%-60%), công nghiệp mở rộng (42 đến
42,5%), nông nghiệp (1,8 đến 2%). Dân số của thủ đô Hà Nội năm 2010 vào
khoảng 3,2 đến 3,3 triệu người, tỉ lệ tăng dân là 1,05%.
Căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất, qui hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của
thành phố là:
- Đất ở đô thị : Đến năm 2010 sẽ có 2079100 người sống trong các đô thị, tăng
531600 người so với năm 2000, diện tích đất ở đô thị sẽ là 5875 ha, tăng 3003ha
so với năm 2000 để phát triển các khu đô thị mới.
- Đất ở nông thôn : Dân số nông thôn năm 2010 còn 1120900. Đất ở nông thôn
năm 2000 là 8817ha, đến năm 2010 là 7904ha, giảm 913ha so với năm 2000, chủ
yếu là chuyển sang đất đô thị.
- Đất chuyên dùng : Năm 2000 là 20533ha, đến năm 2010 là 29473ha, tăng 8940ha
so với năm 2000 để mở rộng, xây dựng mới các khu công nghiệp, trụ sở cơ quan,
cơ sở y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao, công viên cây xanh, giao thông
thuỷ lợi và các công trình công cộng khác.
- Đất nông nghiệp : Năm 2000 là 43612ha, đến năm 2010 còn lại 33605ha, sử
dụng cho trồng cây hàng năm là 25391ha, cây lâu năm là 4743ha chủ yếu là trồng
cây ăn quả, còn lại là dùng vào các mục đích khác.
- Đất lâm nghiệp : Năm 2000 là 6128ha, năm 2010 là 7703ha, tăng 1575ha so với
năm 2000 chủ yếu do trồng rừng mới ở Sóc Sơn.
- Đất chưa sử dụng và sông suối núi đá: Năm 2000 có diện tích là 10135ha, năm
2010 là 7573ha, giảm 2598ha so với năm 2000 chủ yếu do trồng rừng, đất trồng cỏ
chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản.
Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của Hà Nội được thủ tướng chính phủ phê
duyệt là căn cứ pháp lý quan trọng để UBND thành phố giao đất cho thuê đất,
chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp và đô thị
theo qui định của pháp luật. Kế hoạch sử dụng dất giai đoạn 1996-2000 của thành
phố về cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức cá nhân để phát triển

kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tuy nhiên kết quả thực
hiện kế hoạch sử dụng đất chưa cao. Trong 5 năm 1996-2000 theo kế hoạch được
chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp để xây dựng công nghiệp và
phát triển đô thị tổng cộng là 10118ha nhưng ước tính đến cuối năm 2000 mới chỉ
thực hiện được 4474,2ha đạt 44,2% kế hoạch, trong đó:
Đất ở nông thôn Kế hoạch là 297 ha, thực hiện 52,8ha đạt 17,7%
Đất ở đô thị Kế hoạch là 1291ha thực hiện 291,6ha đạt 22,6%.
Đất xây dựng Kế hoạch là 5737ha thực hiện 2418,6ha đạt 42,2%.
Đất giao thông Kế hoạch là 1134ha thực hiện 662,1ha đạt 58,4%.
Đất thuỷ lợi Kế hoạch là 1147ha thực hiện 769,2ha dạt 67%.
Đất quốc phòng Kế hoạch là 53ha thực hiện 29,5ha đạt 55,6%.
Đất nghĩa địa Kế hoạch là 64ha thực hiện 5,01ha đạt 7,8%.
Đất chuyên dùng khác Kế hoạch là 423ha thực hiện 151,6ha đạt 35,8%
Kết quả này chưa cao vì những nguyên nhân sau:
- Trong giai đoạn này, việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất của thành phố chưa thật
khoa học, chính xác vì các tổ chức đơn vị có nhu cầu sử dụng đất trên địa bàn thành
phố đặc biệt là các cơ quan trung ương không đăng kí kế hoạch sử dụng đất hàng
năm theo qui định. Thành phố lập kế hoạch sử dụng đất trình chính phủ dựa trên cơ
sở báo cáo nhu cầu sử dụng đất bình quân của các năm và chưa tính đến yếu tố khả
thi của dự án mà các chủ đầu tư có nhu cầu sử dụng đất.
- Trước năm 2000 thành phố chưa có qui hoạch sử dụng đất được duyệt nên chưa
có định hướng đầu tư đồng bộ trên toàn địa bàn thành phố, sự phối hợp chưa nhịp
nhàng giữa kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch phát triển đô thị và kế
hoạch đầu tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật với kế hoạch sử dụng đất, thực chất việc
lập kế hoạch đầu tư xây dựng hạ tầng phải đi trước một bước nhưng hiện nay thành
phố mới chuẩn bị ở một số khu vực nên chưa đủ điều kiện cho các dự án phát triển
công nghiệp và phát triển đô thị một cách hiệu quả, đó cũng là nguyên nhân làm
cho việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất không đạt được kết quả cao.
- Trong các năm 1998-1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính tiền
tệ ở khu vực cho nên các dự án có qui mô lớn không thực hiện được hoặc bị chững

lại bởi vậy không thực hiện được kế hoạch sử dụng đất.
- Việc hướng dẫn của các bộ, ngành trung ương để thực hiện nghị định 52/CP
ngày87/7/1999 của chính phủ về qui chế quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản chưa
kịp thời và còn nhiều bất cập cũng làm chậm tiến độ phê duyệt các dự án đầu tư,
ảnh hưởng đến kết quả sử dụng đất.
Căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001-2010, kế hoạch sử dụng đất
đến năm 2010 như sau:
* Kế hoạch sử dụng đất 5 năm ( 2001-2005).
- Đất ở đô thị: Năm 2000 có diện tích 2872ha đến năm 2005 là 3975ha tăng thêm
1103ha so với năm 2000.
- Đất ở nông thôn: Năm 2000 có diện tích 8817ha đến năm 2005 là 8204ha, giảm
577so với năm 2000.
- Đất chuyên dùng: Năm 2000 có diện tích là 20533ha đến năm 2005 là 25523ha,
tăng thêm 4990ha so với năm 2000.
- Đất nông nghiệp : Năm 2000 có diện tích là 43612ha đến năm 2005 là 38807ha,
giảm 4805ha so với năm 2000.
- Đất lâm nghiệp: Năm 2000 có diện tích là 6128ha đến năm 2005là 7763ha, tăng
thêm 1535ha so với năm 2000.
- Đất chưa sử dụng và sông suối núi đá : Năm 2000 có diện tích là 10135ha, đến
năm 2005 là 7889ha, giảm 2246ha so với năm 2000.
Trên cơ sở những nhiệm vụ cơ bản và nội dung chủ yếu của kế hoạch sử dụng đất
5 năm trên, các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch sử dụng đất 5năm 2001-2005 như
sau:
Chuyển mục đích sử dụng 5156 ha đất các loại để xây dựng các công trình so với
kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm 1996-2000 bằng 126% cụ thể:
- Đất ở nông thôn giảm 557ha chiếm 0,66% trên tổng diện tích sử dụng
- Đất ở đô thị 1103ha chiếm 1,3% trên tổng diện tích đất sử dụng, so với kết quả
thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm 1996-2000 bằng 378%.
- Đất xây dựng 2983ha chiếm tỉ lệ 3,54% trên tổng diện tích đất sử dụng
so với kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000 bằng 123%.

- Đất giao thông 1834ha chiếm tỉ lệ 2,17% trên tổng diện tích đất sử dụng,so với
kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm 1996-2000 bằng 277%.
- Đất thuỷ lợi 162ha chiếm tỉ lệ 0,19% trên tổng diện tích đất sử dụng, so với kết
quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất đất 5 năm 1996-2000 bằng 211%.
- Đất quốc phòng giảm 11 ha chiếm tỉ lệ 0,01% trên tổng diện tích đất sử dụng, so
với kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm 1996-2000 bằng 37%.
- Đất nghĩa địa 26ha chiếm tỉ lệ 0,03% trên tổng diện tích đất sử dụng, so với kết
quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm 1996-2000 bằng 520%.
- Đất chuyên dùng khác 1ha chiếm tỉ lệ 0,001% trên tổng diện tích đất sử dụng, so
với kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm 1996-2000 bằng 0,7%.
Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 10 năm
(2001-2005) (2006-2010)
Đất nông nghiệp 38807ha chiếm 41,7% 33146ha chiếm 36,32%.
Đất lâm nghiệp 7763ha chiếm 8,33% 7703ha chiếm 8,36%.
Đất chuyên dùng 25533ha chiếm 28,17% 29779ha chiếm 32,33%.
Đất ở 12179ha chiếm 13,28% 13784ha chiếm14,97%.
Đất chưa sử dụng 7889ha chiếm 8,52% 7385ha chiếm 8,02%.
+ Kế hoạch sử dụng đất phát triển nhà ở giai đoạn 2001-2005: Chỉ tiêu cơ bản về
phát triển đất xây dựng nhà ở đô thị của kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2001- 2005
của thành phố dự kiến là 1269ha, trong đó diện tích đất ở 7 quân nội thành là 509ha
và 5 huyện ngoại thành là 1060ha.
Với các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên nhằm đạt chỉ tiêu sử
dụng đất đô thị bình quân khoảng 100m
2
một người, chỉ tiêu đất giao thông là 25m
2
một người, chỉ tiêu đất cây xanh công viên, thể dục thể thao là là 18m
2
một người
và chỉ tiêu đất xây dựng các công trình phục vụ lợi ích công cộng là 5m

2
một người.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có gắn kết chặt chẽ với qui hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội, cái này vừa là điều kiện và là động lực của cái kia do vậy
cần phải coi trọng việc xây dựng và tổ chức thực hiện như nhau. Quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất trên phải được thảo luận và công khai, UBND thành phố phải có
biện pháp tăng cường phối hợp giữa kế hoạch phát triển kinh tế, phát triển đô thị,
đầu tư hạ tầng kĩ thuật với kế hoạch sử dụng đất hàng năm để nâng cao tính khả thi,
tính thực tiễn của quy hoạch và hiệu quả sử dụng đất.
3. Công tác ban hành văn bản pháp qui và hướng dẫn thực hiện các văn bản đó.
Luật đất đai năm 1993 qui định các nội dung quản lý nhà nước về đất đai, qui
định khung giá các loại đất, các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, cùng với
hệ thống các văn bản pháp qui, Chính phủ ban hành và được các bộ ngành Trung
ương cụthể hoá bằng các thông tư hướng dẫn trong nhiều lĩnh vực có liên quan đến
quản lý đất đai. Trên cơ sở đó, được sự chỉ đạo của Thành uỷ và Hội đồng nhân
dân, UBND đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, qui định và hướng
dẫn cụ thể việc thực hiện các chính sách quản lý và sử dụng đất đai.
- Thực hiện nghị định 64CP của chính phủ về giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài
và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ gia đình và cá
nhân, UBND thành phố đã ban hành văn bản số 55/CV- UB ngày 13/1/1994 và
quyết định số 1615/QĐ - UB ngày 12/6/1995 hướng dẫn thực hiện nghị định 64CP
trên địa bàn thành phố triển khai việc giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho các
hộ gia đình cá nhân ở các huyện ngoại thành.
+ Ngày 28/9/1998, UBND thành phố có chỉ thị số 10/CT-UB về việc đẩy nhanh
công tác giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn.
- Thực hiện nghị định 60CP của chính phủ, UBND thành phố đã ban hành quyết
định số 3564 ngày 16/9/1997 về thực hiện kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và đất ở tại khu vực đô thị. Để thực hiện cải cách thủ tục hành
chính, tinh giảm thủ tục ở các khâu xét duyệt và đẩy nhanh công tác cấp giấy chứng
nhận, ngày 18/9/1999, UBND thành phố ban hành quyết định số 69/99/QĐ- UB về

việc kê khai đăng kí cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
ở thực hiện nghị định 60CP trên địa bàn thành phố.( Thay thế quyết định số 3564).
- Để triển khai thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại khu vực khu
dân cư nông thôn, ngày 29/8/2001, UBND thành phố ban hành quyết định số
65/01/QĐ - UB qui định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, đất ao và
vườn liền kề khu vực dân cư nông thôn trên địa bàn thành phố.
- Thực hiện nghị định 87CP của chính phủ qui định về khung giá các loại đất,
UBND thành phố đã ban hành quyết định số 2591/ QĐ - UB ngày 8/11/1994 qui
định về khung giá các loai đất trên địa bàn thành phố. Để phù hợp với tình hình
thực tế ngày 12/9/1997, UBND thành phố đã ban hành quyết định số 3519/ QĐ -
UB qui định về khung giá các loại đất trên địa bàn thành phố ( Thay thế quyết định
2591/ quyết định -UB).
- Để tăng cường quản lý đất đai, thực hiện phân cấp quản lý xác định rõ nhiệm vụ
quyền hạn của chính quyền cơ sở, ngày 17/8/1998, UBND thành phố ban hành
quyết định số 23/98/ QĐ -UB về qui định và phân cấp quản lý đất đai đối với
UBND quận huyện, phường,xã, thị trấn, chống lấn chiếm đất đai, xử lý và ngăn
chặn kịp thời các trường hợp xây dựng nhà ở không phép. Ngày 1/3/2002, UBND
thành phố đã có quyết định số 1415/2002/QĐ -UB uỷ quyền cho UBND quận Hai
Bà Trưngvà các huyện ngoại thành, ngày 17/6/2002 có quyết định số 4215/02/ QĐ
- UB uỷ quyền cho quận Tây Hồ thí điểm xét duyệt và cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo nghị định 60CP.
- Nhằm cải cách hành chính công khai, đơn giản trình tự thủ tục giao đất cho
thuê đất, gộp một số khâu và bớt một số công đoạn nhưng vẫn đảm bảo chặt chẽ về
cơ sở pháp lý theo qui định của pháp luật, ngày 18/8/1999, UBND thnàh phố đã
ban hành quyết định số 68/1999 qui định về trình tự thủ tục để được giao đất, cho
thuê đất trên địa bàn thành phố. Ngày 17/8/1998, UBND thành phố đã ban hành
quyết định số 36 qui định về giao đất làm nhà ở giãn dân cho các hộ gia đình tại
khu vực nông thôn, trong đó qui định thành phố chỉ phê duyệt kế hoạch và phân
cấp cho UBND các huyện chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng, thu tiền sử dụng
đất nộp ngân sách nhà nướcvà quyết định giao đất cho các hộ để xây dựng nhà ở

giãn dân.
- Để kịp thời ngăn chặn và xử lý các trường hợp để đất hoang hoá không sử
dụng, mua bán trái phép đất nông nghiệp, vi phạm luật đất đai, UBND thành phố đã
ban hành chỉ thị số 15/CT-UB ngày 24/4/2001 về tăng cường quản lý nhà nước về
đất đai, kiên quyết xử lý thu hồi đất đối với các trường hợp vi phạm luật đất đai trên
địa bàn thành phố, chỉ thị số 16/CT-UB ngày 8/4/2002 về tổ chức thực hiện kháng
nghị số 01 ngày 14/1/2002 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về khắc phục và xử
lý vi phạm dất đai trên địa bàn thành phố, chỉ thị số 17/CT-UB ngày 9/4/2002 về
một số biện pháp tăng cường quản lý đất đai, ngăn chặn và xử lý việc mua bán
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp trái pháp luật. Đồng thời
UBND thành phố còn ban hành quyết định số 04/2002 ngày 16/1/2002 về xử lý thu
hồi đất của các tổ chức, hộ gia đình cá nhân vi phạm luật đất đai trên địa bàn.
- Trước những bức xúc của việc chuyển quyền sử dụng đất, ngày 25/11/2002,
UBND thành phố đã ban hành quyết định số 158/ 2002/về thủ tục chuyển đổi,
chuyển nhượng cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
đất, chuyển quyền sở hữu nhà ở trên địa bàn thành phố.
- Để đơn giản hoá các thủ tục hành chính về giao đất đồng thời qui định thời
gian giải quyết cụ thể tránh chồng chéo, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, đẩy nhanh
việc kiểm tra các dự án đầu tư, ngày 18/8/1999, UBND thành phố đã ban hành qui
định về thủ tục để được giao đất cho thuê đất trên địa bàn thành phố( kèm theo
quyết định 68/1999/Qđ- UB).
-Ngày 16/7/1999, UBND thành phố đã ban hành chỉ thị số 21/CT-UB về thực
hiện công tác giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm
nghiệp trên địa bàn thành phố.
- Ngày 22/4/1996, Chính phủ đã ban hành chỉ thị 245/TTg về tổ chức thực hiện
một số việc cấp bách ttrong quản lý sử dụng đất của các tổ chức trong nước được
nhà nước giao đất cho thuê đất.
+Ngày 29/5/1996, UBND thành phố đã ban hành chỉ thị số 09/CT-UB và Kế
hoạch số 10/KH-UB chỉ đạo hướng dẫn thực hiện CT 245TTG của Thủ tướng
Chính phủ.

Các văn bản pháp luật trên đã có tác dụng tích cực đối với công tác quản lý
Nhà nước về đất đai, thể hiện đường lối thống nhất quản lý của nhà nước, làm cho
việc sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố đi vào nề nếp. Tuy vậy hệ thống văn
bản trên còn nhiều bất cập thể hiện ở sự quản lý chồng chéo, mặt khác các văn bản
ban hành nhiều nhưng lại thiếu đồng bộ. Sự thiếu đồng bộ thể hiện ở chỗ:
- Về mặt nội dung:
+ Ngay trong nội dung văn bản: Nghị định 45CP của chính phủ về truy thu các
loại thuế chưa chính xác, thời điểm được xem xét nộp tiền sử dụng đất là đưa vào
sử dụng nhưng theo thông tư 57/TC-TCT thời điểm xem xét là thời điểm người kê
khai sử dụng đất .
+ Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của chính phủ về bảo đảm tiền
vay của các tổ chức tín dụng khi thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Nghị định này
qui định việc xác định giá trị quyền sử dụng đất phải áp dụng giá do UBND tỉnh
qui định. Nhưng điều 12 luật đất đai qui định giá đất do UBND ban hành không áp
dụng để thế chấp.
- Về thời gian ban hành không kịp thời
+ Vấn đề đất quốc phòng an ninh đã được qui định trong luật đất đai năm 1993
nhưng đến 12/2/1996 chính phủ mới ban hành nghị định số 09/CP qui định cụ thể
về chế độ quản lý đất an ninh quốc phòng.
+ Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp giá trị quyền sử
dụng đất đã được luật đất đai qui định nhưng mãi tới ngày 29/3/1999Chính phủ
mới ban hành nghị định số 17/CP qui định cụ thể về vấn đề này.
+ Ngày 24/1/1995, Chính phủ ban hành nghị định số 11CP qui định về quyền và
nghĩa vụ của cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam. Nhưng đến ngày 2/5/1997,
Tổng cục Địa chính mới ban hành thông tư số 679/TT-ĐC hướng dẫn việc thuê đất
thực hiên các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài sự thiếu đồng bộ, các văn bản còn chậm điều chỉnh cho phù hợp với
yêu cầu thực tế bởi vậy đã gây khó khăn cho việc áp dụng văn bản và cho việc
quản lý đất đai hiện nay.
4. Công tác giao đất, cho thuê, thu hồi đất.

Quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo hướng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, nhà nước ta luôn phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực sử dụng đất.
Các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai ngày càng đa dạng phức tạp song
nguyên tắc sở hữu toàn dân về đất đai nhà nước thống nhất quản lý vẫn được tiếp
tục củng cố phát triển. Trong cơ chế thị trường, đất đai chỉ có thể được sử dụng
hiệu quả đem lại thu nhập và lợi nhuận khi đất đai có chủ sử dụng cụ thể. Bởi vậy
nhà nước đã đa dạng hoá các hình thức giao đất, cho thuê đất cho các đối tượng có
nhu cầu sử dụng đất để họ đầu tư sản xuất và họ sẽ tìm mọi cách sử dụng đất đai có
hiệu quả nhất nhằm nâng cao được thu nhập và lợi nhuận. Trong quá trình đó, đất
đai sẽ được lưu chuyển đến người nào sử dụng đất có hiệu qủa hơn vì vậy nó sẽ
kích thích các đối tượng khác nâng cao hiệu quả sử dụng. Điều đó làm cho việc sử
dụng đất nhất là ở khu vực nông thôn không còn ở trong tình trạng manh mún, lạc
hậu, góp phần làm cho đất đai từng bước tham gia vào thị trường bất động ssản ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
a. Công tác giao đất cho thuê đất.
Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương giao đất, cho thuê đất của nhà
nước, trên địa bàn thành phố hà Nội từ năm 1996 đến năm 2001 đã giao và cho
thuê đất sử dụng vào mục đích chuyên dùng và đất ở là 5227,58ha, kế hoạch sử
dụng đất được thủ tướng chính phủ phê duyệt theo các năm như sau:
Năm 1996, giao đất cho thuê đất được 969,9ha, đạt 48,1% kế hoạch.
Năm 1997 giao đất cho thuê đất được 1231,85ha đạt 47,75% kế hoạch.
Năm 1998 giao đất cho thuê đất được480,23ha đạt 19,93% kế hoạch
Năm 1999 giao đất cho thuê đất được 892,27ha đạt 49,5% kế hoạch.
Năm 2000 giao đất cho thuê đất được 741ha đạt55,3% kế hoạch.
Năm 2001 giao đất cho thuê đất được 912,3ha đạt 82,9% kế hoạch.
Qua kết quả giao đất, cho thuê đất trong thồi kì từ 1996 đến 2001, ta thấy tỉ lệ %
đất được giao và cho thuê để phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế xã hội
vẫn còn thấp so với nhu cầu của thành phố. Trước năm 2000, do thành phố Hà Nội
chưa có chính sách thu hút, khuyến khích đầu tư, thủ tục để được thuê đất vẫn còn

nhiều phức tạp bởi vậy đã làm ảnh hưởng đến kết quả của việc giao đất, cho thuê
đất trên địa bàn thành phố. Nhưng sau năm 2000, thực hiện kế hoạch giao và cho
thuê đất đã có sự chuyển biến rõ rệt do thành phố có sự đổi mới trong chính sách
thu hút, khuyến khích đầu tư đúng đắn, làm cho đất đai được đưa vào sử dụng có
hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn thành
phố. Từ năm 2000 đến 2001, tỉ lệ đất được giao theo kế hoạch đạt 55,3% và
89,2%, đây là một con số tương đối cao, nó thể hiện được sự cải tiến trong các thủ
tục để được giao và cho thuê đất.
Cụ thể là trong 5227,58 ha đất thực hịên 1904 dự án phát triển công nghiệp
và đô thị, phát triển kinh tế xã hội, có 1832,6 ha đất cho 494 dự án đầu tư phát triển
sản xuất phi nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ bao gồm:
+ 1016,9ha đất cho 141 dự án có nguồn vốn nước ngoài, trong đó có 13 dự án
100% vốn nước ngoài được thuê diện tích là 52,2ha, 128 dự án liên doanh với
nước ngoài được thuê 964,7ha đất, có 4 dự án đầu tư nước ngoài sử dụng đất để
xây dựng khu công nghiệp tập trung là các khu: Khu công nghiệp Nội Bài ( Sóc
Sơn), khu công nghiệp Hà Nội Đài Tư, khu công nghiệp Sài ĐồngA( huyện Gia
Lâm ), khu công nghiệp Bắc Thăng Long( huyện Đông Anh). Diện tích đất của bốn
khu công nghiệp này là:
Khu công nghiệp Sài Đồng A: 97ha đã sử dụng 30ha.
Khu công nghiệp Hà nội - Đài tư: 40ha đã sử dụng 4ha.
Khu công nghiệp Nội Bài: 100ha đã sử dụng 50 ha.
Khu công nghiệp Bắc Thăng Long: 12ha đã sử dụng 1,3ha.
+ 815,7ha đất được giao để thực hiện các dự án đầu tư phát triển ssản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nước, phát triển ssản xuất kinh doanh dịch vụ
trong đó chủ yếu là các khu công nhiệp vừa và nhỏ, các cụm công nhiệp và làng
nghề truyền thống, các nhà máy nhỏ lẻ, các công trình dịch vụ thương mại.

BIỂU SỐ 6: DIỆN TÍCH ĐẤT CỦA
MỘT SỐ KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
TT Khu công nghiệp Diệntích

(ha)
Số
XN
Ngành nghề sản xuất
1 Khu CN Thượng Đình 76 27 Da giày, hoá chất cơ khí
2 Cầu Bươu 12,4 6 Hoá chất, cơ khí
3 Minh Khai- Vĩnh Tuy 81 29 Dệt, cơ khí, thực phẩm, vật liệu
xây dựng
4 Trương định - Giáp Bát 32 13 Thực phẩm, cơ khí.
5 Văn Điển – Pháp Vân 39 11 Thực phẩm, cơ khí.
6 Cầu Diễn- Mai Dịch 27 9 Cơ khí, chế biến thực phẩm
7 Đông Anh 68 22 Cơ khí, luyện kim,vật liệu xây
dựng.
8 Chèm 14 5 Vật liệu xây dựng, dệt.
9 Đức Giang- Gia lâm 38 21 Cơ khí, hoá chất vật liệu xây dựng.
Tổng 387,4 143
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000.
+ Còn lại 3394,98ha đất được giao để thực hiên các dự án sử dụng vào các mục
đích, 919,7ha đất xây dựng trụ sở của các cơ quan Nhà nước, các công trình công
cộng.
*59,96ha đất ở nông thôn. * 479,94ha đất ở đô thị.
* 754,5ha đất giao thông. * 979,16ha đất thuỷ lợi.
* 45,84ha đất an ninh quốc phòng. * 88,85 ha đất nghĩa địa.
* 66,67ha đất chuyên dùng khác
- Tính đến hết năm 2001, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 141 doanh nghiệp liên
doanh có vốn đầu tư nước ngoài và 100% vốn đầu tư nước ngoài ký hợp đồng thuê
đất với tổng diện tích là12668737m
2
đất, 353 doanh nghiệp trong nước ký hợp
đồng thuê đất có tổng diện tích là 3231858m

2
đất với Sở địa chính nhà đất, trong
đó:
Có 242 doanh nghiệp nhà nước thuê 1582437m
2
đất chiếm 48,96%.
Có 71 doanh nghiệp TNHH thuê 1147442
2
đất chiếm 35,5%
Có 21 doanh nghiệp cổ phần thuê 457500,8m
2
đấtchiếm14,15%.
Có 3 doanh nghiệp tư nhân thuê 15325m
2
đất chiếm 0,47%.
Có 17 hợp tác xã thuê 29153,2m
2
đất chiếm 0,9%.
BIỂU SỐ 7 : TỔNG HỢP SỐ HỢP ĐỒNG THUÊ ĐẤT
ĐẾN NĂM 2001 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
STT Quận huyện Tổ chức trong nước Tổ chức có vốn đầu tư
nước ngoài
Cộng
1 Đống Đa 56 12 68
2 Ba đình 36 17 53
3 Cầu Giấy 10 9 19
4 Hai Bà Trưng 28 17 45
5 Hoàn Kiếm 29 18 47
6 Tây Hồ 11 13 24
7 Thanh Xuân 22 7 29

8 Đông anh 20 8 28
9 Gia Lâm 46 22 68
10 Sóc Sơn 10 5 15
11 Thanh Trì 39 8 47
12 Từ Liêm 46 5 51
Tổng 353 141 494
Nguồn: Báo cáo của phòng Quản lý Địa chính
Nhà đất - Sở địa chính nhà đất Hà Nội.
Từ bảng trên ta thấy trong thời gian qua, đã có nhiều tổ chức trong và ngoài
nước ký hợp đồng thuê đất với Sở địa chính nhà đất để thực hiện sản xuất kinh
doanh. Quận Đống Đa là quận tập trung nhiều tổ chức trong nước thuê đất nhất so
với các quận huyện khác trên địa bàn, đây cũng là quận có mật độ dân số cao nhất
của Hà Nội. Huyện gia Lâm là huyện có số lượng tổ chức nước ngoài thuê đất
nhiều nhất trên địa bàn thành phố. Đây là một huyện ngoại thành của Hà Nội, có
diện tích đất rộng thuận lợi cho việc xây dựng các khu chế xuất, các khu công
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy vậy có một nguyên nhân làm hạn chế việc
cho thuê đất trên địa bàn thành phố, đó là thủ tục để được thuê đất quá rườm rà
phức tạp, thời gian xét duyệt điều kiện để cho thuê lâu, người thuê đất cũng không
có đầy đủ giấy tờ pháp lý theo quy định để được thuê đất cho nên diện tích đất
cho thuê vẫn còn thấp, làm cản trở cho việc thực hiện các dự án đấu tư phát triển
kinh tế. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với bộ máy quản lý đất đai phải cải cách mạnh mẽ
các thủ tục giao đất, cho thuê đất nhằm thu hút đầu tư của các tổ chức kinh tế trong
và ngoài nước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
b. Giao đất nông nghiệp theo nghị định 64CP.
Công tác giao đất nông nghiệp theo nghị định 64CP ngày 27/9/1993 của chính
phủ đã đạt được những kết quả nhất định. Đây là một chủ trương lớn của Đảng và
nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nguyên tắc của công tác này là phải đảm bảo
ổn định để nhân dân yên tâm đầu sản xuất, nội bộ xã thống nhất đoàn kết, không có
khiếu kiện, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống cho nhân dân. Đất nông
nghiệp trên địa bàn thành phố là 43612ha chiếm 47,14% diện tích đất tự nhiên, chủ

yếu tập trung ở 118 xã ngoại thành, đất canh tác có 39065,87ha chiếm 89,58% diện
tích đất nông nghiệp. Bình quân đất nông nghiệp cho một nhân khẩu rất thấp, chỉ
đạt gần 400m
2
và đang có xu hướng giảm nhanh do quá trình phát triển công
nghiệp và đô thị. Do giá trị đất nông nghiệp của Hà Nội cao so với nhiều vùng
khác trong cả nước, giá trị một ha đất nông nghiệp hàng năm có thể đạt từ 40 đến
50 triệu đồng, nhiều xã thuộc huyện Từ Liêm do chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang
trồng hoa cây cảnh nên đã đạt từ 70 đến 80 triệu đồng. Do nhu cầu xây dựng các
công trình phát triển công nghiệp và đô thị, có hộ nông dân đã được nhận hàng
trăm triệu đồng tiền đền bù thiệt hại và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất. Chính điều
này đã tác động lớn, ảnh hưởng đến tư tưởng của nông dân ngoại thành Hà Nội
làm cho họ rất quan tâm đến việc giao đất nông nghiệp theo nghị định 64CP để khi
nhà nước có quuyết định thu hồi đất thì họ sẽ được tiền đền bù. Trước khi tổ chức
công tác giao đất theo nghị định 64CP, thành phố Hà Nôi đã tổ chức giao khoán

×