Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Một số cơ hội và thách thức đối với các ASEAN nói chung và đối với Việt Nam nói riêng của việc thực hiện AEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.73 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

1


<b>MỘT SỐ CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ASEAN </b>


<b>NÓI CHUNG VÀ ĐỐI VỚI VIỆT NAM NÓI RIÊNG </b>



<b>CỦA VIỆC THỰC HIỆN AEC </b>



<b>GVC.ThS Lê Trung Tuyến </b>


<b>Tóm tắt </b>


Bài viết này phân tích cơ hội và thách thức đối với các nước ASEAN nói chung và
Việt Nam nói riêng trong việc thành lập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Đó sẽ là cơ
hội to lớn cho Việt Nam giúp nền kinh tế Việt Nam ngày càng định vị rõ hơn, vững chắc
hơn trong cấu trúc chuỗi sản xuất chung của khu vực. Tuy nhiên, với việc AEC tạo ra thị
trường chung, khơng cịn rào cản khơng gian kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đối
mặt với những cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp trong khu vực.


<b>Từ khóa: AEC, ASEAN, Việt Nam </b>


<i><b>Abstract </b></i>


<i>This paper analyzes the opportunities and challenges for ASEAN in general and </i>
<i>Vietnam in particular in the establishment of the ASEAN Economic Community (AEC). It </i>
<i>will be a great opportunity for Vietnam to locate its position increasingly clearer, more </i>
<i>steady in the overall production chain structure of the region. However, when AEC </i>
<i>creates a common market with no barrier on economic space, Vietnamese enterprises </i>
<i>will have to face fierce competition from regional enterprises. </i>


<i><b>Key word: AEC, ASEAN, Vietnam </b></i>



<b>1. Khái quát cộng đồng kinh tế các quốc gia Đông Nam Á </b>


Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8 tháng 8 năm
1967 trên cơ sở tuyên bố Băng-cốc, với 5 nước thành viên ban đầu là In-đô-nê-xi-a,
Ma-lay-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan. Sau 47 năm tồn tại và phát triển với nhiều
thăng trầm, ASEAN ngày nay đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực liên Chính phủ
bao gồm cả 10 quốc gia Đơng Nam Á (thêm 5 nước là Brunei, Cămpuchia, Lào, Mianma
và Việt Nam), là một thực thể chính trị-kinh tế quan trọng ở Châu Á-Thái Bình Dương, là
đối tác khơng thể thiếu trong chính sách khu vực của các nước lớn và các trung tâm quan
trọng trên thế giới. Hiện nay, ASEAN đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới với mục
tiêu bao trùm là hình thành cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và hoạt động dựa trên cơ
sở pháp lý là hiến chương ASEAN.


Cộng đồng ASEAN sẽ được hình thành dựa trên 3 trụ cột: cộng đồng chính trị-an
ninh (APSC), cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và cộng đồng văn hóa- xã hội (ASCC).
Trong các cộng đồng trên thì AEC là then chốt, cơ bản nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

2


Đến năm 2015, ASEAN sẽ trở thành, (i) một thị trường duy nhất và một cơ sở sản
xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và
lao động có tay nghề ; (ii) Một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao; (iii) Một khu vực
phát triển kinh tế đồng đều, nhất là thực hiện có hiệu quả sáng kiến liên kết ASEAN; (iv)
Một khu vực ASEAN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời, ASEAN nhất
trí đề ra cơ chế thực hiện và lộ trình chiến lược thực hiện kế hoạch tổng thể.


Trên cơ sở phân tích các nhân tố tác động đến triển vọng của ASEAN trong 10-15
năm tới, dự báo khả năng hiện thực nhất là ASEAN sẽ chuyển hóa dần từ một hiệp hội
khá lỏng lẻo thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ có mức độ ràng buộc pháp lý cao
hơn và liên kết sâu rộng hơn, nhưng không trở thành một tổ chức siêu quốc gia; sẽ trở


thành một thực thể chính trị-kinh tế gắn kết hơn, một cộng đồng “thống nhất trong đa
dạng”; tiếp tục là một tổ chức hợp tác khu vực mở và có vai trị quan trọng ở Châu
Á-Thái Bình Dương.


Liên kết ASEAN sẽ sâu rộng hơn, nhưng mức độ liên kết sẽ không đồng đều trong
ba lĩnh vực chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội, do sự đa dạng khá lớn giữa các
nước thành viên, nhất là về khoảng cách phát triển, chế độ chính trị - xã hội cũng như
những tính tốn chiến lược và lợi ích quốc gia.


<b>2. Cơ hội và thách thức khi thực hiện AEC đối với các nước ASEAN nói chung và </b>
<b>Việt Nam nói riêng. </b>


<b>2.1. Cơ hội và thách thức đối với các nước ASEAN </b>


Theo kế hoạch, từ năm 2015, AEC sẽ là một thị trường chung, một không gian sản
xuất thống nhất. Thị trường ấy sẽ phát huy lợi thế chung của khu vực ASEAN để từng
bước xây dựng một khu vực năng động, có tính cạnh tranh cao trên thế giới, đem lại sự
thịnh vượng chung cho nhân dân và các quốc gia ASEAN. Hàng hóa, dịch vụ, vốn, cơng
nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất
cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử nào. Tác động tích cực của AEC sẽ là hệ quả của sự
vận động khách quan của các chủ thể và yếu tố sản xuất trong nền kinh tế khu vực.
Người tiêu dùng ASEAN sẽ có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ với giá cả thấp và
chất lượng cao hơn. Thương mại trong khối có cơ hội phát triển. Các doanh nghiệp sẽ
được hưởng lợi nhiều hơn nhờ phát huy hiệu quả từ quy mô, tay nghề cao, công nghệ
hiện đại… để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất. Thương mại và đầu tư trong khối
được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhằm nâng cao năng lực sáng tạo, giải phóng
tiềm năng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Ðiều mong đợi hơn cả là việc AEC
có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, đóng góp vào việc xây
dựng năng lực cạnh tranh của ASEAN với thế giới, từ đó góp phần giảm khoảng cách
giàu nghèo, khoảng cách phát triển và thúc đẩy ổn định xã hội. Như vậy, AEC không đơn


thuần là tập hợp của các cam kết tự do hóa thương mại, đầu tư mà được xây dựng dựa
trên sự thống nhất, hài hòa cao về hệ thống tiêu chuẩn, quy trình quản lý hoạt động
thương mại, đầu tư và khả năng điều phối chặt chẽ các chính sách vĩ mô giữa các nước
thành viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

3


được mối liên kết hài hòa giữa hợp tác trong khối và giữa ASEAN với các đối tác ngồi
khối.


Năm 2010 là năm có nhiều dấu mốc trong chặng đường thực hiện mục tiêu AEC.
Từ tháng 1-2010, đã có tới 99% tổng số dòng thuế, đã được xóa bỏ trong thương mại
trong khối ASEAN. Mức thuế quan trung bình đã giảm xuống cịn 0,9% trong năm 2009
từ mức 4,4% năm 2000. Việc thực hiện các cam kết tự do hóa đối với 12 lĩnh vực ưu tiên
hội nhập của ASEAN là dệt may, cao-su, giày dép, công nghiệp chế tạo ô-tô, nông
nghiệp, thủy sản, công nghệ thông tin, du lịch, v.v... đang đi vào giai đoạn cuối. Hiệp
định về thương mại hàng hóa mới của ASEAN có hiệu lực từ ngày 1-5-2010 đã kịp thời
khắc phục những hạn chế pháp lý và mở ra cơ hội hợp tác chặt chẽ hơn nữa để thúc đẩy
các chương trình thuận lợi hóa thương mại. Các luồng di chuyển vốn, dịch vụ được cởi
mở thơng thống trên định hướng của AEC. Với mong muốn tạo lập một nền tảng thương
mại chung, ASEAN đang hướng sự nỗ lực cao nhất để thành lập cơ chế một cửa ASEAN
(ASW) để tăng tốc độ thơng quan và giải phóng hàng hóa. Theo thống kê của ban thư ký
ASEAN, tính đến ngày 1-1-2010, 91 trong tổng số 124 văn kiện pháp lý của AEC đã có
hiệu lực. Con số này chiếm 73% của tất cả các văn kiện pháp lý liên quan tới việc thực
hiện AEC.


ASEAN là khối kinh tế đông dân thứ tư trên thế giới, với tổng GDP tồn khối đạt
2,3 nghìn tỉ USD và cũng là một trong những khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Kim ngạch thương mại nội khối đạt 598 tỷ USD năm 2011, tăng 15% so với năm 2010.



Việc thành lập AEC chắc chắn sẽ mang lại triển vọng hấp dẫn cho giới doanh
nghiệp và đầu tư nói chung.


Tuy nhiên, công tác chuẩn bị cho AEC hiện nay cịn chậm trễ và gặp nhiều khó
khăn. Theo kế hoạch, tự do hóa thương mại điện tử, y tế, hậu cần, vận tải hàng không và
các lĩnh vực du lịch hoàn tất vào năm 2013, nhưng ASEAN đã quyết định lùi thời hạn
sang năm 2015.


Giới chuyên gia nhân định, lợi ích quốc gia khác nhau giữa các thành viên


ASEAN vẫn là rào cản trong việc thực hiện AEC. Điều này thể hiện rõ trong các lĩnh vực
như nông nghiệp, khai thác khống sản và dịch vụ tài chính, nơi mà động thái chính trị
trong nước có thể cản trở bước tiến trong q trình tự do hóa thương mại.


Mục tiêu hội nhập kinh tế khu vực vào cuối năm 2015 cũng bị phủ bóng bởi
những diễn biến chính trị gần đây tại một số nước thành viên ASEAN.


Chẳng hạn tại Indonesia - thành viên lớn nhất và quan trong nhất trong quá trình
thực hiện AEC, cuộc bầu cử tổng thống diễn ra vào năm 2014, vì vậy Indoneisa khó có
thể đưa ra những quyết sách về AEC ngay trong năm nay.


Tương tự, Thái Lan - nền kinh tế lớn thứ hai của ASEAN, cũng khó có thể đạt
được sự đồng thuận trong việc thơng qua các chính sách liên quan đến AEC vì đất nước
đang chìm trong bất ổn.


Trong khi đó, vẫn cịn vơ số “cạm bẫy” trên con đường hướng tới AEC cần phải
gỡ bỏ ngay lập tức đó là: hệ thống tư pháp yếu, tham nhũng, cơ sở hạ tầng tài chính dễ bị
tổn thương; các hạn chế trong quyền sử dụng đất và đầu tư ở một số nước thành viên
ASEAN.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

4


<b>2.2.Vị thế của ASEAN-AEC đối với các nước có nền kinh tế phát triển cao </b>
<b>2.2.1. Vị thế của ASEAN-AEC đối với Mỹ </b>


Ở Hội nghị thượng đỉnh tại Brunei (hội nghị cấp cao ASEAN - Hoa Kỳ lần thứ 1 -
tháng 10/2013). Theo Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, sự vắng mặt của Tổng thống Mỹ tại
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Mỹ lần này khơng có nghĩa là chính quyền Obama khơng
muốn thúc đẩy mối quan hệ với khu vực châu Á. “Mối quan hệ đối tác mà chúng tôi chia
sẻ với ASEAN vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu đối với chính quyền Tổng thống
Obama. Mối quan hệ giữa chúng tôi với các quốc gia ASEAN đã tồn tại mạnh mẽ từ
nhiều thập kỷ nay. Và chúng tôi nhận thức được rằng, việc tăng cường quan hệ trong các
vấn đề an ninh, kinh tế và giao lưu giữa nhân dân các quốc gia là một phần quan trọng
trong chính sách tái cân bằng của Tổng thống Obama tại khu vực châu Á. Chính sách tái
cân bằng này vẫn ln là một cam kết của Mỹ”.


Tại hội nghị, các nhà lãnh đạo ASEAN đánh giá cao cam kết của Mỹ đối với khu
vực cũng như khẳng định của Mỹ ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong các cấu
trúc khu vực.


Hai bên nhấn mạnh cần tăng cường hợp tác vì hịa bình, an ninh, an toàn hàng hải
và phát triển ở khu vực; hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục,
biến đổi khí hậu cũng như hợp tác phát triển và sử dụng bền vững nguồn nước ở tiểu
vùng Mê Công.


Trước mắt, 2 bên cần tiếp tục nỗ lực thực hiện Kế hoạch hành động 2011-2015 và
Kế hoạch công tác Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư ASEAN-Hoa Kỳ (TIFA
2013), Kế hoạch công tác Năng lượng ASEAN-Hoa Kỳ 2012-2014 và Sáng kiến liên kết
kinh tế mở rộng, đồng thời cần phấn đấu để đưa quan hệ lên tầm đối tác chiến lược.



<b>2.2.2. Vị thế của ASEAN-AEC đối với Nhật Bản </b>


Tại Hội nghị cấp cao kỷ niệm 40 năm quan hệ đối thoại ASEAN - Nhật Bản
(tháng 12 năm 2013): Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe khẳng định chính sách đối ngoại
trên cơ sở 5 nguyên tắc, trong đó nhấn mạnh và coi trọng tăng cường quan hệ và hợp tác
với ASEAN về mọi mặt, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực.
Theo đó, Nhật Bản sẽ tiếp tục ủng hộ xây dựng thành công cộng đồng ASEAN, triển khai
liên kết khu vực, thu hẹp khoảng cách phát triển, đẩy mạnh hợp tác kết nối, phát triển tiểu
vùng thông qua cơ chế Mekong - Nhật Bản và phối hợp chặt chẽ với ASEAN đóng góp
thiết thực cho hịa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực.


Thủ tướng Nhật Bản cam kết cấp 2.000 tỷ yen (20 tỷ USD) cho các dự án kết nối
và thu hẹp khoảng cách ở ASEAN trong 5 năm, gia hạn và cấp thêm 100 triệu USD cho
Quỹ Liên kết ASEAN - Nhật Bản, cấp 300 tỷ yen cho hợp tác và hỗ trợ ASEAN nâng
cao năng lực quản lý và ứng phó với thiên tai, lập Trung tâm châu Á để tăng cường trao
đổi thanh niên, sinh viên, nghệ thuật và học thuật với ASEAN, tổ chức Giải bóng đá trẻ
ASEAN.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

5


và đầu tư giữa hai bên vào năm 2022, thu hẹp khoảng cách phát triển, hợp tác kết nối;
sớm hoàn tất và ký các hiệp định thương mại dịch vụ và đầu tư, tiến tới hình thành Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN - Nhật Bản toàn diện.


Đặc biệt an ninh hàng hải, các nhà lãnh đạo cũng nhấn mạnh tầm quan trọng và
khẳng định quyết tâm hợp tác bảo đảm an ninh và an toàn hàng hải, tự do hàng hải,
thương mại khơng bị cản trở, giải quyết hịa bình các tranh chấp phù hợp với các nguyên
tắc luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982
(UNCLOS); ủng hộ tham vấn chính thức giữa ASEAN và Trung Quốc về COC.



<b>2.2.3.Vị thế của ASEAN-AEC đối với Nga </b>


Bắt đầu từ năm 1994 trở lại đây, trong quan hệ Nga - ASEAN đã ghi nhận những
chuyển biến theo chiều hướng tích cực hơn. Tháng 7-1994, Nga trở thành một trong 18
nước tham gia "Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN" (ARF) cùng với các nước Châu A' -
Thái Bình Dương thảo luận những vấn đề an ninh, chính trị khu vực. Sau đó hai năm,
tháng 7-1996, Nga chính thức trở thành một trong 10 bên đối thoại đầy đủ của ASEAN,
mở ra triển vọng mới cho quan hệ Nga - ASEAN. Sự chuyển biến ấy trước hết là do
những thay đổi quan trọng diễn ra trong cục diện khu vực. Các nước lớn ngày càng quan
tâm đến việc mở rộng quan hệ ở khu vực. Việt Nam gia nhập ASEAN (28/7/1995) càng
làm cho ý tưởng về ASEAN trong "Cộng đồng Đông Nam A' gồm 10 quốc gia" ngày một
trở thành hiện thực. Nga vốn có quan hệ truyền thống với Việt Nam và các nước Đông
Dương, nên các nước này gia nhập ASEAN tạo điều kiện thuận lợi cho Nga tăng cường
quan hệ với các nước ASEAN khác, nâng mối quan hệ đó lên những nấc thang mới cao
hơn.


Mặt khác, đối với Nga, khu vực ASEAN tuy không tiếp giáp trực tiếp với lãnh thổ
Nga, nhưng nếu xét trên bình diện địa - chiến lược, Nga lại có sự ràng buộc về lợi ích
quân sự, hàng hải, kinh tế, an ninh - chính trị tại đó. Và nếu so sánh với thời kỳ Liên Xơ
trước đây, vị trí chiến lược của Đơng Nam A' đối với Nga cịn trở nên có ý nghĩa quan
trọng hơn. Sau khi Liên Xô tan rã, các nước cộng hịa trong thành phần của nó đều tuyên
bố độc lập. Nước Nga bị mất quyền kiểm soát nhiều hải cảng quan trọng ở biển Đen, biển
Ban Tích và cả tuyến đường bộ qua vùng Trung A'. Chính vì vậy, Nga phải tăng cường
sử dụng các hải cảng Viễn Đông và các đường hàng hải phục vụ các mục tiêu kinh tế,
thương mại, qn sự ở Thái Bình Dương. Trong số đó, có tuyến đường biển huyết mạch
đi qua khu vực ASEAN sang Â'n Độ Dương để về các hải cảng ở Tây Nam và Tây Bắc
của Nga và ngược lại. Như vậy, lợi ích của Nga ở khu vực các nước ASEAN là rất quan
trọng. Nga rõ ràng không thể xem nhẹ lợi ích đó. Sự hiện diện của Nga ở Đông Nam A'
cho phép họ đảm bảo được lợi ích an ninh - kinh tế có ý nghĩa chiến lược và góp phần
củng cố an ninh - chính trị sườn phía Đơng của mình.



Hơn nữa, khu vực Viễn Đông của Nga giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng chưa
phát huy được tiềm năng đầy đủ do thiếu nguồn vốn đầu tư và công nghệ hiện đại; nên
Nga rất cần thiết phải mở rộng quan hệ hợp tác với các nước ở Đông A' bao gồm cả các
nước ASEAN - một khu vực đang phát triển kinh tế năng động vào bậc nhất thế giới hiện
nay. Đặc biệt, nhiều nước ASEAN có nhu cầu lớn về vũ khí, trang thiết bị quân sự của
Nga với giá cả và phương thức thanh toán phù hợp với khả năng của họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

6


cơ sở đó, Nga có khả năng vươn tới những mục tiêu chiến lược đã được điều chỉnh ở
Châu A' - Thái Bình Dương nhằm thực thi tham vọng về chiến lược toàn cầu của một
siêu cường như Liên Xô trước đây


<b>2.3. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam </b>


Kim ngạch nhập khẩu của toàn khối ASEAN (khơng tính Myanmar), khoảng
1.329 tỷ USD (năm 2011) và xuất khẩu đạt 1.460,8 tỷ USD. Trong đó, Việt Nam chiếm
tỷ trọng khoảng 7,36% kim ngạch xuất khẩu; và 8,5% kim ngạch nhập khẩu.


Gạo và dầu thô vẫn là hai nhóm hàng chính Việt Nam xuất sang thị trường này,
với trị giá chiếm xấp xỉ 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN;
ngồi ra, cịn có những mặt hàng khác như xăng dầu các loại, sắt thép, máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện.


Số liệu thống kê của hải quan Việt Nam cho thấy, trong vòng hơn 1 thập kỷ qua,
kim ngạch thương mại Việt Nam và ASEAN đã tăng 4,5 lần, từ 8,9 tỷ USD năm 2003 lên
<b>đến gần 40 tỷ USD vào năm 2013. </b>


Những năm gần đây, ASEAN liên tục thuộc nhóm các thị trường xuất khẩu hàng


đầu của Việt Nam. Năm 2013, ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam,
chỉ đứng sau Mỹ và EU, với kim ngạch xuất khẩu đạt 18,47 tỷ USD, tăng 4,4% so với
năm trước đó.


Riêng 6 tháng đầu năm 2014, kim ngạch thương mại hai chiều ước đạt 20,45 tỷ
USD, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2013 và chỉ đứng sau 2 thị trường lớn là Mỹ và EU.
Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đang có chiều hướng chậm
lại. Một trong những nguyên nhân là các ưu thế về xuất khẩu với khối thị trường truyền
thống có vị trí địa lý gần, như các ưu đãi từ Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN
(ATIGA) chưa được tận dụng tối đa.


Xét về cơ hội, thì sự hội nhập ASEAN sâu rộng hơn nữa tất nhiên sẽ giúp doanh
nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội về thị trường hơn, vì chi phí lưu chuyển các loại hàng
hóa, cả ở dạng nguyên liệu, chi phí trung gian cho tới thành phẩm đều hạ xuống. AEC
cũng sẽ giúp các công dân Việt Nam có nhiều cơ hội việc làm hơn, đặc biệt với những
người có tay nghề, chuyên môn cao. Nhưng cơ hội được trông đợi nhất, từ tất cả các
nước ASEAN chứ khơng riêng gì Việt Nam, thực ra sẽ đến từ bên ngồi khối ASEAN,
đó là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển. Bởi vì việc kết nối và
xây dựng một ASEAN thống nhất, bớt chia cắt hơn, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn
ASEAN như một sân chơi chung, một cơng xưởng chung, ở đó có khối nguồn lực thống
nhất, đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá cịn tương đối rẻ.


Những gì là cơ hội cũng đồng thời có thể là thách thức đối với Việt Nam. Ví dụ,
nhờ việc giao lưu hàng hóa trở nên thuận tiện và rẻ hơn giữa các nước, các nhà đầu tư có
thể cân nhắc đầu tư phát triển sản xuất một cách tập trung tại những địa điểm thuận lợi
nhất về môi trường kinh doanh, tính nhất quán của chính sách, kinh tế vĩ mô ổn định, dồi
dào nguồn vốn con người và nguồn nguyên liệu, sau đó vận chuyển sản phẩm đến những
vùng khác nhau trong ASEAN. Như thế, chưa chắc Việt Nam đã là một lựa chọn hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư. Nếu các khía cạnh nêu trên của Việt Nam không bộc lộ được chất
lượng vượt trội, thì sau năm 2015, Việt Nam có nguy cơ trở thành địa bàn để tiêu thụ


hàng hóa thay vì là nơi đầu tư phát triển sản xuất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

7


Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore (ISEAS) đã có một cuộc điều tra về
nhận thức và sự quan tâm của doanh nghiệp đến AEC ở các quốc gia ASEAN, trong đó
có các doanh nghiệp Việt Nam (ISEAS, 2013).


Theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam có hiểu biết và nhận thức rất hạn chế về
AEC. Cụ thể: có 76% số doanh nghiệp được điều tra không biết về AEC và 94% doanh
nghiệp không biết về “Biểu đánh giá thực hiện AEC” (AEC Scorecard). Các doanh
nghiệp được hỏi cũng không hiểu rõ những cơ hội, cũng như thách thức đối với Việt Nam
nói chung và với các doanh nghiệp nói riêng khi Việt Nam tham gia vào AEC 2015. Có
đến 63% doanh nghiệp cho rằng AEC khơng có ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít đến
việc kinh doanh của mình. Đây là tỷ lệ lớn nhất trong số các quốc gia ASEAN.


Những nhận thức còn hạn chế trên, sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc
tận dụng được các ưu đãi và cơ hội đến từ AEC (như ưu đãi về thuế quan, về thủ tục hải
quan, sự công nhận lẫn nhau đối với một số ngành, các ngành được ưu tiên trong
ASEAN...). Ví dụ: hiện nay mới chỉ 25% doanh nghiệp trong nước tận dụng lợi ích trong
việc sử dụng ưu đãi thuế quan. Doanh nghiệp không nhận thức, không lường trước được
những khó khăn và sức ép cạnh tranh khi Việt Nam mở cửa. Từ đó, khơng có những
chuẩn bị cần thiết và kịp thời để ít nhất giữ vững được vị thế trên sân nhà.


Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu nhìn nhận AEC như cơ hội tiếp cận thị
trường, gia tăng xuất khẩu, mà lợi ích này trong AEC là tương đối hạn chế. Cũng vì vậy,
các doanh nghiệp Việt Nam bày tỏ sự quan tâm lớn tới TPP (Hiệp định đối tác kinh tế
chiến lược xuyên Thái Bình Dương), ngay khi nó mới đang trong q trình đàm phán, vì
TPP hứa hẹn sẽ đem lại các lợi ích lớn về tiếp cận thị trường Mỹ và một số nước lớn
khác. Nhưng mục tiêu của AEC không chỉ là tiếp cận thị trường riêng lẻ, sự kết nối thành


một “thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất” mới là mục tiêu chính của AEC. Đây mới
chính là lợi ích dài hạn mà các doanh nghiệp trong ASEAN cần nhắm đến.


Doanh nghiệp Việt Nam không chỉ hướng vào sản xuất nội địa mà sẽ hướng ra thị
trường chung. Thuế suất trong ASEAN sẽ về 0%, do đó, các doanh nghiệp ở Việt Nam
xuất khẩu sang ASEAN sẽ được hưởng lợi, không phải chịu thuế nhập khẩu tại thị trường
nhập khẩu. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ không phải đóng thuế nhập
khẩu đối với các sản phẩm/máy móc thiết bị từ các nước thành viên, qua đó, hạ giá thành
và có điều kiện để tăng năng lực cạnh tranh.


Các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 60% được xem là sản phẩm vùng
ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang các thị trường khu vực
ASEAN. Ngồi ra, Việt Nam có thể hạn chế những tiêu cực trong lợi dụng chênh lệch giá
xăng dầu giữa Việt Nam - Capuchia. Bởi 3 thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam và tạo
ra thặng dư thương mại cao nhất là Campuchia, Malaixia, Philippines. Xét riêng thị
trường Campuchia, 30% giá trị xuất khẩu là hàng xăng dầu - là mặt hàng đang được Nhà
nước điều tiết. Vì vậy, khi AEC thành lập, giá xăng dầu ở Việt Nam nhiều khả năng vận
hành theo giá thị trường tự do. Chênh lệch giá xăng dầu giữa Việt Nam - Campuchia nếu
có cũng sẽ bị thu hẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

8


AEC tạo ra thị trường chung, khơng cịn rào cản khơng gian kinh tế, hàng hóa,
dịch vụ, vốn... Do đó, sẽ có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các thành viên khu vực trong thu
hút vốn từ ngoài ASEAN vào những ngành chiếm dụng lao động phổ thông và đất.


Việt Nam vẫn đang bị nhập siêu từ ASEAN do nhập siêu lớn từ Singapore và Thái
Lan, Brunei. Sản phẩm nhập khẩu của những nước này vào Việt Nam chủ yếu là máy
móc thiết bị, hàng điện tử, xăng dầu các loại. Dẫn đến khi AEC được thành lập, các
khoản thuế đóng góp vào ngân sách nhóm hàng này từ 3 thị trường trên sẽ khơng cịn,


ảnh hưởng ít nhiều đến ngân sách quốc gia, tăng áp lực cân đối ngân sách cho Chính phủ.
Đồng thời, các doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử Việt Nam đối mặt với nguy cơ bị đẩy
ra khỏi ngành do hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan và Singapore.


Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước và thu hút đầu tư mạnh mẽ hơn là
những mục tiêu quan trọng của AEC. Nhưng nhìn vào thực tế năng lực của mỗi quốc gia,
nguy cơ phân hóa thu nhập sẽ khó tránh khỏi nếu Chính phủ các nước thành viên thu
nhập trung bình thấp khơng làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực, ngành hàng chiến lược mà chúng ta đang có lợi thế.


<b>2.3.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp Việt Nam </b>


Phát biểu khai mạc tại diễn đàn xúc tiến xuất khẩu Việt nam 2014, Thứ trưởng Bộ
Công Thương, ông Đỗ Thắng Hải nhận định: 2014-2015 là giai đoạn nước rút của
ASEAN để tiến tới mục tiêu xây dựng AEC. ASEAN đang đứng trước triển vọng tăng
cường hơn nữa vị thế của mình, trở thành khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao. Đây
cũng là thời điểm các doanh nghiệp cần hết sức linh hoạt, nhạy bén, sớm nhận diện và
nắm bắt những lợi ích tiềm năng dự kiến từ AEC để thúc đẩy khả năng tăng quy mơ kinh
doanh của mình với khối thị trường ASEAN cũng như với các thị trường khác, trong đó
có các thị trường ASEAN đã ký Hiệp định thương mại tự do (FTA) như: Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand.


Để tận dụng với hiệu quả cao nhất những cơ hội mà AEC mang lại, các doanh
nghiệp phải thường xuyên nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đặc
biệt là đáp ứng các tiêu chí về “quy tắc xuất xứ” để được hưởng các ưu đãi về thuế quan.
Các doanh nghiệp cần chủ động nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, cải thiện chất
lượng, mẫu mã sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng thương hiệu, hình
ảnh của doanh nghiệp. Xây dựng “chiến lược phát triển liên kết nội khối tạo chuỗi sản
xuất lớn” để có khả năng nhận những đơn hàng lớn, chủ động cập nhật thông tin về cam
kết của các bên và tích cực so sánh, tận dụng các lợi ích của các hiệp định thương mại tự


do. Để làm được việc này, cần theo dõi sát sao các thơng tin, lộ trình cam kết về AEC,
Hiệp định Đối tác kinh tế tồn diện khu vực (RCEP)... từ đó đưa ra định hướng đúng, xây
dựng chiến lược kinh doanh hợp lý.


Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú cho biết sau khi AEC hình thành,
việc khơng cịn rào cản thuế quan, hay thuế suất bằng 0 là lợi ích to lớn nhất khi AEC
định hình, bởi đây chính là “liều thuốc bổ” kích thích xuất khẩu, thu hút đầu tư và tăng
trưởng kinh tế của các nước thành viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

9


để nâng cao vị thế của mình; trong đó chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, tuyên truyền
phố biến là yếu tố quan trọng và then chốt để phát triển bền vững


Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tận dụng bản thỏa thuận ưu đãi thuế suất thuế
nhập khẩu với Lào, bản thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương với Campuchia
cũng như lợi thế của hàng Việt Nam tại hai thị trường này và thị trường Myanmar để đẩy
mạnh xuất khẩu.


Về dài hạn, để vượt qua những thách thức cũng như để tận dụng những thuận lợi
do ASEAN mang lại, các doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng Việt Nam, nhất là các
doanh nghiệp xuất - nhập khẩu cần chủ động trong việc nâng cao năng lực kinh doanh
phù hợp với điều kiện và môi trường của AEC.


<b>3. </b> <b>Kết luận </b>


Xét trên mối tương quan về quan hệ kinh tế của Việt Nam với ASEAN so với thế
giới cũng như xét trên triển vọng của hợp tác kinh tế ASEAN, việc thiết lập cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC) là cơ hội to lớn của Việt Nam. ASEAN đã là cánh cửa quan trọng
của Việt Nam với thế giới. AEC sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam ngày càng định vị rõ hơn,


vững chắc hơn trong cấu trúc chuỗi sản xuất chung của khu vực; sớm nhận diện những cơ
hội mới cũng như cả các thách thức mới sẽ xác lập một chiến lược rõ nét của nước ta,
tham gia chủ động, tích cực hơn, ứng phó linh hoạt và có hiệu quả hơn vào tiến trình thiết
lập AEC.


<b>Tài liệu tham khảo </b>


1. ASEAN - Nhật Bản: Tăng cường quan hệ hợp tác mọi mặt
(


2. Cộng đồng kinh tế ASEAN: Thêm cơ hội phát triển cho Việt Nam



3. Hội thảo “Giải pháp liên kết xuất nhập khẩu trước thềm Asean+”



(


4. Liên Hợp Quốc - Ủy ban kinh tế - xã hội Châu Á - Thái Bình Dương
(1999), Những bài học từ kinh nghiệm tăng trưởng của khu vực Đông và Đông Nam Á,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


5. Mối quan hệ đối tác với ASEAN vẫn là ưu tiên hàng đầu của Mỹ



(


6. Hoàng Thị Thanh Nhàn và Võ Xuân Vinh (2013): Hiện thực hóa cộng đồng
ASEAN 2015: Thuận lợi và trở ngại. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh


doanh, Tập 29, Số 4 (2013) 12 - 23.


7. Hoàng Thị Thanh Nhàn, FTA song phương của các nuuwocs ASEAN và
tác động đến Cộng đồng kinh tế ASEAN và Cộng đồng ASEAN, Những vấn đề kinh tế
chính trị thế giới, số 5 (145) 2008.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

10


9. Thách thức và giải pháp cho doanh nghiệp xuất khẩu vào AEC



(


10. Phạm Đức Thành (2002), Trương Duy Hịa, Kinh tế các nước Đơng Nam Á
thực trạng và triển vọng, NXB Khoa học xã hội.


11. Số 17 - Quan hệ của Liên bang Nga với các nước ASEAN hiện nay

(


12. Nguyễn Hồng Sơn, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC): Nội dung và lộ trình,
NXB Khoa học xã hội, 2009.


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' ( /><a href=' ( /><a href=' ( /><a href=' ( /> Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong một số tiểu thuyết và truyện ngắn việt nam hiện đại
  • 135
  • 4
  • 9
  • ×