Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên các trường tiểu học trên địa bàn quận tân phú, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 110 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN TRỌNG KHIÊM

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CƠNG TÁC GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO GIÁO VIÊN
CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN TÂN PHÚ, PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn

Nghệ An, 2017


2

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến tất cả Quý thầy, cô Ban giám hiệu trường
Đại học Vinh; Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục chính trị đã giúp đỡ tơi trong q
trình học tập và làm luận văn. Đặc biệt là PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn đã tận tình hướng dẫn
chi tiết, định hướng sâu sát cả nội dung lẫn hình thức để tơi hồn thành luận văn này.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo trong Ban Giám đốc, Phịng
Tiểu học, Phịng Chính trị tư tưởng của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh;
Quận Uỷ, Ủy ban nhân dân, Ban Tuyên Giáo, Trung Tâm Bồi dưỡng Chính trị quận Tân


Phú; Ban giám hiệu Trường Bồi dưỡng Giáo dục, Trường tiểu học trên địa bàn quận Tân
Phú đã tạo điều kiện giúp đỡ về mặt thời gian cũng như cung cấp tư liệu, thông tin cần thiết
để tơi hồn thành luận văn.
Trong q trình nghiên cứu và hồn thiện luận văn, tơi đã cố gắng đầu tư, chỉnh sửa
và thực hiện theo đúng quy trình hướng dân của khoa Giáo dục chính trị và thầy hướng dân
PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn.
Tuy nhiên, với năng lực và kinh nghiệm chưa nhiều, chắc chắn sẽ cịn thiếu sót,
khiếm khuyết. Vì thế, tơi rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ dân của Hội đồng Khoa học
cũng như các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu của tôi đạt được hiệu
quả cao và đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong những năm tới.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 6 năm 2017
Tác giả

Trần Trọng Khiêm


3

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ...................................................................................................................... 1
Lời cảm ơn .......................................................................................................................... 2
Mục lục ............................................................................................................................... 3
Danh mục các chữ viết tắt ................................................................................................... 4
Danh mục các bảng ............................................................................................................. 5
A. MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 6
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 17
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác GDCT,TT cho GVTH .........................................17
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài ..........................................................17

1.2. Tầm quan trọng và những yêu cầu đặt ra đối với công tác GDCT,TT cho GVTH... .25
1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp, tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác GDCT,TT
cho GVTH ......................................................................................................................... 35
Chương 2: Thực trạng công tác GDCT,TT cho GVTH tại các trường tiểu học trên địa bàn
quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay ............................................. 45
2.1. .......................................................................................................................
Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác GDCT,TT cho GVTH ....................45
2.2. Tình hình cơng tác GDCT,TT cho GVTH ............................................................... 61
2.3. Đánh giá chung về công tác GDCT,TT cho GVTH................................................. 71
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác GDCT,TT cho GVTH
tại các trường tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh .................. 79
3.1. Phương hướng .......................................................................................................... 79
3.2. Giải pháp .................................................................................................................. 83
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................................. 106
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 110
E. PHỤ LỤC

115


4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH

Chủ nghĩa xã hội

GDCT,TT

Giáo dục chính trị, tư tưởng


GD&ĐT
GV

Giáo dục và Đào tạo
GV

GVTH

GV tiểu học

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Đội ngũ cán bộ quản lý và GVTH quận Tân Phú.......................................... 53
Bảng 2.2. Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ quản lý và GVTH ở quận Tân Phú54
Bảng 2.3. Trình độ chuẩn đào tạo của cán bộ quản lý và GVTH ở quận Tân Phú ........ 55
Bảng 2.4. Kết quả học tập của học sinh cuối năm học: 2016 - 2017 ............................. 60
Bảng 2.5. Nhận thức về tầm quan trọng của công tác GDCT,TT của cán bộ quản lý và
GVTH ở quận Tân Phú .................................................................................................. 62
Bảng 2.6: Điều tra về nội dung GDCT,TT cho GVTH ở quận Tân Phú, Thành
phố Hồ Chí Minh ........................................................................................................... 67
Bảng 2.7. Hiệu quả của các biện pháp GDCT,TT cho GVTH ở quận Tân Phú ...69



6

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng cần đến một hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh và đóng vai trò đầu tàu lãnh đạo, chỉ đạo mọi mặt của đời sống xã hội. Một hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thực sự có uy tín thì phải được xây dựng trên một nền
tảng tinh thần, tư tưởng vững chắc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta
ln xác định cơng tác Giáo dục chính trị, tư tưởng (GDCT,TT) là một lĩnh vực đặc biệt
quan trọng, góp phần xây dựng, bồi đắp nền tảng tinh thần xã hội. Văn kiện Đại hội X của
Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý
luận” [28, tr.6]. Văn kiện Đại hội X cũng xác định: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, đổi mới nâng cao chất lượng GDCT,TT, giáo dục công dân trong hệ thống các trường
chính trị và các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” [28, tr.63]. Như vậy, công tác
GDCT,TT cho mọi thành phần xã hội luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, trong đó có đối
tượng giáo viên (GV).
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hết sức quan tâm đến công tác này. Tại Đại
hội chiến sĩ thi đua toàn ngành Giáo dục ngày 21-2-1956, Bác đã căn dặn: “Các cô, các chú
là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính
trị, học chun mơn. Nếu khơng tiến bộ mãi thì sẽ khơng theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành
lạc hậu” [37; tr. 126-127]. Đặc biệt, Hồ Chủ tịch đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta: “Bồi
dưỡng thế hệ Cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [38; tr.498].
Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ phải coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách của người
Việt Nam. Trong đó, “Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên,
đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người
Việt Nam” [19; tr.106] sẽ góp phần đáp ứng tốt yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trẻ.



7

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Người thầy giáo phải học chính trị, hay nói cách
khác là đội ngũ GV phải được đào tạo, phải có kiến thức lý luận chính trị, đồng thời Người
đặt nhiệm vụ học chính trị lên trước nhiệm vụ học chuyên môn. Công tác GDCT,TT là một
mặt hoạt động luôn luôn đứng ở vị trí trọng yếu, vì nó góp phần trực tiếp vào việc xây dựng
phẩm chất chính trị, tư tưởng, quan điểm, lập trường, thái độ chính trị của mỗi GV trong nhà
trường.
GDCT,TT có vai trị rất to lớn, góp phần vào việc giác ngộ lý tưởng cách mạng, nâng
cao nhận thức chính trị, thống nhất ý chí và hành động cho đội ngũ GV nhằm thực hiện
thắng lợi chủ trương, đường lối, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Cơng tác GDCT,TT có chức năng quan trọng song song trong công tác cán bộ
nhằm đưa các đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến gần hơn với
GV, xây dựng nội dung, chuẩn mực đạo đức theo chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Do đó, yêu cầu thực tiễn cấp bách đặt ra hiện nay là phải
nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác GDCT,TT đặc biệt đối với giáo viên tiểu
học (GVTH) ở nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, cơng tác này địi hỏi phải tiến hành một cách liên tục,
thường xuyên và đang trở thành một trong những nội dung then chốt của công tác bồi dưỡng
đội ngũ GV hàng năm. Thực hiện chủ trương của Bộ giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), ý thức
được vai trò, vị trí và sứ mệnh chính trị của mình trong thời kỳ mới, trên cơ sở vận dụng sáng
tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào
tạo, về vai trò của lý luận đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN); xuất phát
từ những đòi hỏi của thực tiễn, công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sự nghiệp GD&ĐT cùng
với các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ GV ln được
các cấp ủy, chính quyền quận Tân Phú quan tâm, coi trọng. Điều này được thể hiện rất rõ
qua sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy cơ quan chính quyền, các tổ chức Hội và các tổ chức


8


Đoàn thể trên địa bàn quận.
Trong những năm qua Đảng bộ quận, Đảng ủy cơ quan chính quyền ln xác định
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác GDCT,TT cho GVTH là nhiệm vụ then chốt,
có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển giáo dục tiểu học. Cơng tác GDCT,TT nói chung và
cơng tác GDCT,TT cho GVTH tại các trường tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ, tình hình tư tưởng và tinh thần đội ngũ GV các trường
tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú được đánh giá là ổn định, có nhiều chuyển biến theo
hướng tích cực, nhưng vẫn cịn đó những điều chúng ta phải quan tâm. Bên cạnh những kết
quả đã đạt được, công tác GDCT,TT cho GVTH ở quận Tân Phú vẫn còn có những hạn chế
và vẫn gặp phải những khó khăn vướng mắc nhất định. Đặc biệt là trong quá trình thực hiện
công tác tổ chức, triển khai, theo dõi, phối hợp vẫn cịn đó nhiều điều phải quan tâm và giải
quyết.
Đã có nhiều cơng trình, bài viết, tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu nêu trên
được xuất bản trong những năm gần đây. Có thể chia thành hai nhóm vấn đề sau:
Nhóm vấn đề nghiên cứu về giáo dục lý luận chính trị cho học sinh, sinh viên, cán bộ
đảng viên của một số nhà khoa học nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Trước hết
phải kể đến cơng trình nghiên cứu đã in thành sách và đăng trên các tạp chí chun ngành
như: PGS.TS Nghiêm Đình Vỳ (2009), Giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ ngày
nay, NXB Đại học Sư phạm; Trần Viết Lưu (2013), Giáo dục truyền thống của Đảng cho
thế hệ trẻ hơm nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phạm Đình Nghiệp (2004), “Giáo dục
lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay ”, NXB Thanh Niên; Hồng Đình Tỉnh (2009),
“Giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay theo Di Chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh",
tạp chí Lý luận chính trị, số (7); Phạm Hồng Quang (24/4/2013), “Đại thắng mùa xuân 1975
với công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho giới trẻ ngày nay”, báo Thanh Niên, số (15); Vũ
Ngọc Am (chủ biên), (2003), “Đổi mới cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng


9


viên cơ sở”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội; Sương Chi (1995), “Kinh nghiệm cơng tác
giáo dục chính trị tư tưởng của cơng đồn cơ sở”, NXB Lao động. Những cơng trình trên,
các tác giả đã phần nào làm rõ vấn đề GDCT,TT cho thanh niên, đảng viên và cơng đồn
viên. Đây là những cơ sở rất quan trọng giúp tác giả thực hiện luận văn này.
Về công tác GDCT,TT cho sinh viên, có các cơng trình: Trần Thị Anh Đào (2010),
“Cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay” NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội; Hoàng Anh (2010), “Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội; Nguyễn Lương Bằng (2008), “Giáo dục ý thức chính
trị cho sinh viên trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế”, tạp chí Lý luận chính trị, số
(12); Dương Văn Hồi (12/6/1998), “Đổi mới cần thiết thực, hiệu quả cơng tác chính trị tư
tưởng trong các trường đại học, cao đẳng”, báo Sài Gòn. Các cơng trình nêu trên đã đi sâu
nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, dưới những góc độ khác nhau về giáo dục lý luận
chính trị cho học sinh, sinh viên. Đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm định hướng, đổi
mới, giáo dục chính trị tư tưởng cho tầng lớp học sinh, sinh viên.
Nhóm vấn đề liên quan đến việc GDCT,TT cho GV trong hệ thống giáo dục nói
chung và GVTH nói riêng. Về văn kiện Đại hội Đảng, Nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục,
Chiến lược phát triển giáo dục, Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt
Nam... Nhiều chủ trương chính sách lớn của Đảng, Nhà nước đều đã đặt đội ngũ nhà giáo
nói chung và đội ngũ GVTH nói riêng vào vị trí trung tâm, được xã hội tơn vinh và có vai trị
quan trọng đối với sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà như:
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng xác định: “Cùng với Khoa học và Công
nghệ, giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài”. Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg (11/01/2005) của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010”. Bên cạnh đó, hàng năm, Bộ GD&ĐT cịn có nhiều


10

cơng trình nghiên cứu khoa học hay những giải pháp để phát triển đội ngũ GV. Nghị quyết

Trung ương 2 (khóa VIII), “Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 ”. Đi đôi với việc lãnh đạo
thực hiện các nhiệm vụ công tác trong trường học, các cấp ủy và tổ chức đảng, ngành giáo
dục - đào tạo đã quan tâm hơn trong việc chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức đảng và các
đoàn thể quần chúng ở các trường học.
Và trong bối cảnh chung của sự phát triển đất nước thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có
nhiều chủ trương đường lối cụ thể, phù hợp nhằm định hướng vấn đề nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp cơ sở, mà điển hình: Quy định số
54-QĐ/TW (12/5/1999) của Bộ Chính trị “Về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng”;
Nghị quyết số 32-NQ/TW (26/5/2014) của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý”. Ngồi ra,
Đảng ta đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về giáo dục lý luận chính trị như: Nghị quyết Trung
ương 5 Khóa IX (2002), về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình
mới nhấn mạnh: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tun truyền, giáo dục lý luận
chính trị, tạo sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân". Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: "Đổi mới nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý luận". Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI tiếp tục
xác định: "Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính
thuyết phục, hiệu quả của cơng tác tư tưởng, tuyên truyền học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước...
Đổi mới, nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục cơng dân trong hệ
thống các trường Chính trị, các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cán bộ, đảng
viên phải học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị".
Thơng báo 181-TB/TW (28/3/2009) của Ban Bí thư “ Về đổi mới, nâng cao chất


11

lượng hoạt động của trường Chính trị cấp tỉnh và Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị cấp
huyện”; Nghị quyết 16-NQ/TW (13/8/2002) của Ban Chấp hành Trung ương Khóa IX “Về

nhiệm vụ chủ yếu của cơng tác tư tưởng trong tình hình mới ”; Nghị quyết 32-NQ/TW
(26/5/2014) “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ lãnh đạo quản lí”.
Như vậy, cho thấy rõ Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến công tác GDCT,TT cho
đội ngũ GV. Bởi vì, đội ngũ GV là bộ phận quan trọng của nguồn lực xã hội, là nguồn lực cơ
bản của ngành GD&ĐT, của một nhà trường, thừa hưởng tất cả những ưu tiên quốc gia về
phát triển nguồn nhân lực và cũng đòi hỏi phải được nghiên cứu đổi mới theo những thay đổi
của nền giáo dục. Từ khi có chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thơng đã có một số dự án, cơng trình nghiên cứu khoa học lớn
liên quan đến đội ngũ GV ở các cấp học, trường học được triển triển khai thực hiện.
Về cơng trình sách, báo, luận văn liên quan đến vấn đề này có một số tác giả, nhà
khoa học: Nguyễn Đức Long, luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục (2013), “Một số giải pháp
quản lý cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ giáo viên tiểu học huyện Nơng
Cống, tỉnh Thanh Hóa”. Từ việc phân tích làm rõ các khái niệm, nội dung của công tác
GDCT,TT cho đội ngũ GVTH huyện Nơng Cống, tỉnh Thanh Hóa, tác giả đi đến việc đưa
một số giải pháp quản lý công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ GVTH trong giai
đoạn mới. Nguyễn Đăng Hoàng, luận văn thạc sĩ chính trị học (2013), “Đổi mới cơng tác
giáo dục lý luận chính trị trong khối trường cao đẳng quân sự trước tình hình mới ”. Từ việc
nghiên cứu vị trí, vai trị, nội dung, phương pháp nhiệm vụ của cơng tác giáo dục lý luận
chính trị cho học viên tác giả đưa ra một số giải pháp chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ và giảng viên giảng dạy các mơn lý luận chính trị. PGS.TS Tơ Huy Rứa, đề tài
KX10-09D (1994), “Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giảng viên lý luận chính trị
các trường đại học, cao đẳng”, Hà Nội; PGS.TS Nguyễn Khắc Kiệt (1999), “Giảng dạy lý


12

luận Mác - Lênin và vấn đề phát triển năng lực tư duy lý luận cho sinh viên”, Tạp chí nghiên
cứu lý luận, số (5); Nguyễn Hương Giang (2014), “Công tác giáo dục lý luận chính trị cho
đội ngũ giáo viên ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh”, Tạp chí Đảng Cộng sản Việt Nam; Lê

Thị Thanh Xuân, Trần như Mai (2016), “Một số ý kiến góp phần nâng cao cơng tác chính
trị, tư tưởng cho cán bộ, giảng viên, học viên Học viện Cảnh sát nhân dân theo Chỉ thị số
02/CT-BCA-Xn của Bộ trưởng Bộ Cơng an’", tạp chí CSND. Các tác giả đã khẳng định GV,
giảng viên, cán bộ nhà trường có vai trị to lớn trong cơng tác giáo dục đạo đức lối sống, định
hướng tư tưởng, bồi đắp lý luận chính trị cho học sinh, sinh viên đồng thời đưa ra một số giải
pháp nâng cao chất lượng cơng tác GDCT,TT cho đội ngũ này.
Nhìn chung, những cơng trình nêu trên đã đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía
cạnh, dưới những góc độ khác nhau về công tác GDCT,TT cho đội ngũ giảng viên, GV, nêu
lên vị trí và vai trị của đội ngũ này trong sự nghiệp giáo dục định hướng tư tưởng, lý luận
chính trị cho thế hệ trẻ, đồng thời các cơng trình nghiên cứu trên đều có ý nghĩa quan trọng
về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tư liệu rất phong phú, thiết thực để nghiên cứu vấn đề
nâng cao chất lượng cơng tác GDCT,TT cho GV nói chung và GVTH nói riêng.
Tuy nhiên, tới nay cơng tác GDCT,TT, rèn luyện đạo đức ở khơng ít trường cịn bị
coi nhẹ; việc giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cịn chưa
được quan tâm đúng mức, thậm chí có nơi cịn bị thu hẹp; cơng tác xây dựng tổ chức đảng và
các đồn thể còn nhiều mặt yếu. Nhiều trường, nhất là ở cấp tiểu học, trung học cơ sở ở các
tỉnh thành phố phía Nam, Tây Nguyên, vùng miền núi, ven biển, vùng đồng bào dân tộc, tơn
giáo chưa có đảng viên, chưa lập được chi bộ. Tỉ lệ đảng viên trong GV ở các trường phổ
thông, tiểu học, mầm non và trong học sinh, sinh viên còn thấp. Sức chiến đấu của đảng viên
và năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng ở nhiều trường khơng cao, thậm chí cịn có nơi tê liệt.
Tình hình trên có nhiều ngun nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do sự chỉ đạo
của các cấp ủy đối với công tác xây dựng đảng và công tác quần chúng chưa được tăng


13

cường đúng mức; quan hệ phối hợp giữa các ban cán sự đảng ngành giáo dục - đào tạo với
các cấp ủy địa phương trong nhiệm vụ GD&ĐT còn thiếu chặt chẽ.
Nước ta tuy đã có một số đề tài nghiên cứu về cơng tác chính trị, tư tưởng trong
Đảng, trong một số ngành nghề nhất định, song các đề tài về cơng tác GDCT,TT cho đội ngũ

GV nói chung và GVTH nói riêng chưa nhiều, chưa có cơng trình nào đề cập một cách trực
tiếp, chuyên sâu đến việc nâng cao chất lượng công tác GDCT,TT cho GVTH các trường
tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những lý do trên,
tơi chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng công tác Giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên

,

các trường tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú Thành phố Hồ Chí Minh" làm luận văn
tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng
công tác GDCT,TT cho GVTH trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng công tác GDCT,TT cho đội ngũ
GVTH ở quận Tân Phú hiện nay, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác GDCT,TT cho đội ngũ GV tại các trường tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong những năm tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hồn thành mục đích nêu trên, chúng tơi xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cơ
bản như sau:
- Nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận về cơng tác GDCT,TT cho đội ngũ GV
nói chung và GVTH nói riêng.
- Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng GDCT,TT cho đội ngũ GVTH
trên địa bàn Quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua, chỉ ra những kết quả đạt
được và những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất hệ thống quan điểm, giải pháp có tính đồng bộ, khả thi nhằm nâng cao


14

chất lượng công tác GDCT,TT cho đội ngũ GVTH trên địa bàn Quận Tân Phú, thành phố Hồ
Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến công tác GDCT,TT cho đội ngũ GVTH
trên địa bàn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung, hình thức, phương pháp GDCT,TT cho đội ngũ
GVTH. Đề tài cũng tập trung đề xuất quan điểm, giải pháp để nâng cao chất lượng của công
tác này. Đề tài chỉ triển khai điều tra, khảo sát thực trạng tại các trường tiểu học trên địa bàn
quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu từ góc độ chính trị học, dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Bên cạnh việc sử dụng phương pháp biện chứng duy vật Mácxit làm nền tảng, quá
trình triển khai đề tài còn sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu cơ bản như lơgíc, phân
tích và tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học và các phương pháp đặc thù của chính trị học.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học chất lượng công tác
GDCT,TT cho GV các trường tiểu học.
- Về thực tiễn: Luận văn góp phần đánh giá thực trạng chất lượng công tác
GDCT,TT cho GV các trường tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú. Trên cơ sở nghiên cứu về
lý luận và thực trạng về quản lý công tác GDCT,TT cho GVTH, đề xuất các biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng công tác GDCT,TT cho GVTH tại các trường tiểu học trong giai đoạn
hiện nay.


15

- Đề tài cũng là tài liệu tham khảo cho tất cả mọi người quan tâm tới lĩnh vực
này.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác Giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên tiểu
học
Chương 2: Thực trạng cơng tác Giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên tiểu học tại
các trường tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác Giáo dục chính
trị tư tưởng cho giáo viên tiểu học tại các trường tiểu học trên địa bàn quận Tân Phú, thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới


16

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TƯ TƯỞNG CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm chính trị
Chính trị là một khái niệm phức tạp, trừu tượng Từ trước tới nay đã có nhiêu quan
niêm, quan điểm khac nhau vê chính tri Theo ngun nghĩa tiêng Hy Lap chính trị (política)
là cơng việc của Nhà nước; công viêc cua xa hôi liên quan tơ vân đê Nha nước. Theo quan
điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen thì chính trị là vấn đề giai cấp, quan hệ giai cấp, đấu tranh giai
cấp và đỉnh cao của cuộc đấu tranh này là đấu tranh giành quyền lực cho một giai cấp nhất
định. Bước ngoặt của đấu tranh chính trị là sự bùng nổ cách mạng xã hội, giành lấy chính
quyền nhà nước, lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ mới. Chính trị là vấn đề quyền lực, biểu
hiện trực tiếp là quyền lực nhà nước và tính hiện thực của quyền lực lại là lợi ích, mà trước
hết là lợi ích kinh tế.
Theo Từ điển Triết học: “Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với
quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó
là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [46, tr.269]. Theo nghĩa rộng: Chính trị

là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà
những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ
và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Với cách hiểu như thế, chính trị ln ln tồn tại và
vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con người cũng như toàn xã hội, đặc biệt là
đối với xã hội có sự phân chia giai cấp. Trong bất kỳ xã hội nào thì cũng cần những luật lệ
chung để hoạt động nhịp nhàng và khoa học, tránh tình trạng vơ tình hay cố ý xâm phạm
quyền lợi, lợi ích, tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng


17

đồng. Một xã hội dù có phát triển đến đâu thì cũng cần có luật giao thơng để con người có thể
lưu thơng một cách trật tự và hiệu quả. Hay, con người không thể sống trong một xã hội mà
tình trạng an ninh khơng được đảm bảo (cướp bóc, khủng bố) do thiếu luật lệ. Mặc dù phần
lớn xã hội hiện nay trên thế giới không tránh khỏi các hiện tượng cướp bóc và khủng bố
nhưng phải thừa nhận rằng pháp luật đã góp phần ngăn chặn đáng kể những hành vi bất
lương đó. Và trong một chừng mực nào đó, có thể hiểu đây là những vấn đề có tính chính trị,
mang ý nghĩa chính trị sâu sắc.
Với những ý nghĩa như trên, chính trị là lĩnh vực cực kỳ rộng lớn và có mối quan hệ
bao trùm đối với tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tuy nhiên, nhiều cơng
trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ cơ bản
nhất, trọng yếu nhất, bao trùm nhất, chi phối các quan hệ khác trong đời sống xã hội. C.Mác
đã chỉ rõ: "Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các q trình sinh hoạt xã hội,
chính trị và tinh thần nói chung. Khơng phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ;
trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ" [8, tr.258]. Cơ sở hạ tầng xã hội bao
giờ cũng là nhân tố cơ bản quyết định kiến trúc thượng tầng, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì
sớm hay muộn sự thay đổi kiến trúc thượng tầng cũng sẽ diễn ra. Ơng viết: "Cơ sở kinh tế
thay đổi thì tồn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng" [8,
tr.425]. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là cả một
quá trình hết sức phức tạp. Ngun nhân của q trình đó, xét cho cùng là sự phát triển của

lực lượng sản xuất.
Cơ sở hạ tầng với tư cách là kết cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra
kiến trúc thượng tầng tương ứng, mà còn quy định cả tính chất của kiến trúc thượng tầng giai cấp nào giữ địa vị thống trị xã hội về mặt kinh tế thì nó cũng chiếm địa vị thống trị trong
kiến trúc thượng tầng xã hội; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu
thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là


18

biểu hiện của những mâu thuẫn đối kháng trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, kiến trúc thượng
tầng không phải là sản phẩm giản đơn, thụ động của cơ sở hạ tầng. Toàn bộ kiến trúc thượng
tầng cũng như các yếu tố cấu thành của nó có tính độc lập tương đối, có sự tác động qua lại
lẫn nhau và tác động mạnh mẽ trở lại đối với cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các yếu tố nhà nước,
đảng phái chính trị. Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là tích cực khi
nó tác động cùng chiều với sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan đó, cịn ngược
lại thì nó sẽ là trở lực, gây tác hại cho sự phát triển của sản xuất và xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ xuyên suốt lịch sử phát triển của
xã hội có giai cấp, nó quy định sự vận động, biến đổi của các xã hội đó. Theo các nhà kinh
điển mác-xít sự chuyển biến trạng thái xã hội từ xã hội này sang xã hội khác đều do quan hệ
kinh tế - chính trị quyết định. Sự thay đổi đó có ngun nhân sâu xa là từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất, dẫn tới sự thay đổi trong quan hệ sản xuất và toàn bộ hệ thống các quan hệ xã
hội. C.Mác nhấn mạnh: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những
quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất,
những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất
vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức
là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và
những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" [8, tr.518]. Như
vậy, trong hệ thống các quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất là bộ phận cấu thành quan trọng
nhất và sự vận động của mối quan hệ kinh tế - chính trị đã đóng vai trị quyết định trong việc
tạo ra tính chất đặc thù của tồn bộ hệ thống đó trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. C.Mác đã

nhận định: "Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những
quan hệ xã hội, là xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch
sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã
hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại


19

biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại" [8, tr.615]. Như vậy, quan
hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế có ảnh hưởng quyết định tới sự biến đổi của chính trị.
Một mặt, chính trị phụ thuộc vào kinh tế, sự chuyển biến về chính trị gắn liền với sự
chuyển biến về chế độ kinh tế. Theo C.Mác "Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại". Kinh
tế mạnh mới bảo đảm cho nền chính trị ổn định. Mặt khác, chính trị tác động mạnh mẽ trở lại
đối với kinh tế và có địa vị hàng đầu do tính giai cấp, tính đảng của các hoạt động kinh tế
trong các chế độ xã hội có giai cấp. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị cịn thể
hiện ở chỗ chúng có thể phù hợp với nhau hoặc cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Nếu sự
thống nhất, phù hợp giữa chúng tạo nên sự ổn định và phát triển xã hội thì sự khơng phù hợp
giữa chúng tạo nên sự bất ổn định, sự trì trệ, thậm chí cịn là sự rối loạn xã hội. C.Mác và
Ph.Ăng-ghen khơng đưa ra một cái nhìn siêu hình hoặc tuyệt đối hóa một trong hai yếu tố
của mối quan hệ này, mà nó có tính biện chứng sâu sắc và có tác động tương hỗ, thúc đẩy
nhau cùng phát triển.
Đối với nước ta hiện nay, chính trị gắn liền với vai trò lãnh đạo và sự cầm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã thể hiện được năng lực
lãnh đạo cũng như uy tín tuyệt đối của mình. Đảng đã dẫn dắt, đưa sự nghiệp cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Không chỉ lãnh đạo nhân dân, dân tộc Việt Nam
giành và giữ được độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, Đảng cịn lãnh đạo thành công sự
nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, đem lại những lợi ích thiết thực cho
toàn thể nhân dân lao động. Sự nghiệp cách mạng XHCN nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH), giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản do Đảng lãnh đạo đã giành được những
thành quả to lớn. Hiện thực lịch sử mấy chục năm qua cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam

không chỉ là đội tiên phong của giai cấp vơ sản Việt Nam mà cịn là người đại diện chân
chính cho tồn thể lợi ích chính đáng của dân tộc, của nhân dân. Hệ thống chính trị Việt Nam
do Đảng ta lãnh đạo và xây dựng đang ngày càng hoàn thiện, phát triển vững mạnh, nhanh


20

chóng, đảm nhiệm và gánh vác ngày càng tốt hơn những trọng trách mà lịch sử đã và đang
giao phó.
Như vậy, chính trị ln ln gắn liền với vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Các
quan điểm, tư tưởng chính trị ln ln gắn liền với quyền và lợi ích giai cấp. Chính trị bao
giờ cũng là chính trị của một giai cấp cụ thể nào đó. Khơng có những vấn đề chính trị chung
chung, trừu tượng đứng bên trên, bên ngồi lợi ích của những giai cấp cụ thể. Hay nói cách
khác khơng có những quan điểm, tư tưởng phi giai cấp hoặc chung cho nhiều giai cấp khác
nhau trong xã hội có sự phân chia giai cấp.
Từ đây, chúng ta có thể rút ra kết luận khái quát về chính trị: Chính trị là hoạt động
trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề
giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công
việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái
chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục
tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1.1.2. Khái niệm tư tưởng
Hiểu theo nghĩa chung nhất tư tưởng là một hình thức tồn tại của ý thức xã hội, kết
quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh nghiệm và sự hiểu biết
trong tâm trí mỗi con người. V.I.Lênin coi tư tưởng là hình thức cao của nhận thức, là mục
tiêu, chương trình, kế hoạch nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Tư
tưởng là nhận thức và khát vọng của con người.
Hiểu theo nghĩa hẹp, tư tưởng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của
một con người, của một cá nhân cụ thể. Vấn đề tư tưởng bao gồm toàn bộ hoạt động nhận
thức, tình cảm, suy nghĩ, ý chí, niềm tin, lý tưởng... Từ góc độ này, khái niệm tư tưởng gắn

liền với đời sống tinh thần và hoạt động tư duy của mỗi một cá nhân. Do đó, trong một chừng
mực, ý nghĩa nhất định, tư tưởng là tiền đề, là nền tảng cực kỳ quan trọng chi phối mọi hành


21

vi, hoạt động của con người. Vấn đề tư tưởng quyết định hành vi, thái độ của cá nhân. Suy
nghĩ đúng, tư tưởng tốt sẽ có hành vi, thái độ tốt. Suy nghĩ sai lầm, nhận thức lệch lạc, tư
tưởng xấu sẽ dẫn đến những hành vi, thái độ xấu, sai lầm.
Theo Từ điển Triết học: “Tư tưởng là hình thức phản ánh thế giới bên ngồi, trong đó
bao hàm sự ý thức về mục đích và triển vọng của việc tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới
bên ngồi. Tư tưởng khái qt hố kinh nghiệm của sự phát triển tri thức trước đó và được
dùng làm nguyên tắc để giải thích các hiện tượng” [46, tr.451].
Xét về phạm vi, tư tưởng có thể được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau như tư
tưởng của một giai cấp, của một tầng lớp người trong xã hội, chẳng hạn như tư tưởng tư sản,
tư tưởng vô sản, tư tưởng phong kiến. Tư tưởng giai cấp, tư tưởng xã hội bao giờ cũng tồn
tại, bộc lộ và biểu hiện thông qua tư tưởng của những cá nhân, của những con người cụ thể
trong hiện thực xã hội. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử tư tưởng có những đặc
trưng, đặc điểm cụ thể khác nhau. Tư tưởng thời cổ đại khác với tư tưởng thời kỳ trung đại,
cận đại. Trong xã hội hiện đại, tư tưởng của con người cũng có vơ vàn những biểu hiện hết
sức phong phú, sinh động, phức tạp, phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất vô cùng
phong phú trong hiện thực cuộc sống hôm nay.
Như vậy, tư tưởng là mơt hinh thá-i ý- thức xã hơi thc kiến tríic thượng tầing, tư
tượng là sư phàn ành cuà hiến thư c trong ý- thưc, là biểu hiện củà quan hệ giữà con ngươi
vợi thế giợi xung quành . Tư tượng bi quy định bơi tinh chất củà chế đô xã hội, do điếu kiến
sinh hoàt vất: chất củà con ngươi quyết đinh . Trong xà hôi co giài cấp, tư tượng luôn màng
bàn chất giài cấp, tư tượng là biếu hiến lợi ich vất chất củà các giài cấp , cuôc đấu trành vế tư
tượng thực chất là môt dàng thưc cuà cuôc đấu trành giài cấp.
1.1.3. Khái niệm Giáo dục chính trị, tư tưởng
Để hiểu thế nào là GDCT,TT trước hết chúng tà cần tìm hiểu về khái niệm giáo dục.

Giáo dục, hiểu theo nghĩà chung nhất là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng và thói


22

quen củà một nhóm người được trào truyền từ thế hệ này sàng thế hệ khác thông quà giảng
dạy, đào tạo hay nghiến cứu khoà học. Giáo dục thường diễn rà dưới sự hướng dẫn củà người
khác, nhưng cũng có thể thơng q q trình tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng
đáng kể lến cách mà người tà suy nghĩ, cảm nhận, hày hành động đều có thể được xem là có
tính giáo dục. Giáo dục thường được chià thành các giài đoạn hoặc phấn chià dựà vào các
hình thức tổ chức hoặc dựà vào đặc trưng, đặc điểm củà từng loại hình cụ thể.
Như vậy, GDCT,TT là một hình thức, một bộ phận, một nội dung nằm trong q trình
hoạt động giáo dục nói chung củà xã hội. Có thể nói đấy là một mảng có tính chất đặc thù củà
hoạt động giáo dục. GDCT,TT là những hoạt động giáo dục gắn liền với lĩnh vực chính trị,
tư tưởng, là sự giáo dục những nội dung, những vấn đề liến quàn, đặc thù, bó hẹp trong lĩnh
vực chính trị, tư tưởng, gắn liền với những vấn đề có tính chính trị, tư tưởng. Đấy khơng chỉ
là vấn đề giáo dục nói chung mà cịn là một lĩnh vực giáo dục hết sức đặc biệt, có tính nhạy
cảm, phức tạp. Nó liến quàn đến vấn đề giài cấp và đấu trành giài cấp, liến quàn đến vấn đề
quyền và lợi ích giài cấp, liến quàn đến vấn đề đấu trành giành và giữ quyền lực nhà nước,
quyền lực chính trị nói chung. Nói đến những vấn đề này là nói đến những mâu thuẫn xã hội,
là vấn đề đấu tranh một mất một cịn. Đặc biệt nó là sự thể hiện tập trung những vấn đề về lập
trường, phẩm chất đạo đức cách mạng, đến lý tưởng, niềm tin, định hướng chính trị, văn hóa
chính trị... Đó là lĩnh vực đặc thù nhưng cũng vô cùng rộng lớn và đặc biệt là hết sức phức
tạp.
Trong thực tế có những khái niệm khác nhau về cơng tác GDCT,TT. Có quan niệm
cho rằng, đây là lĩnh vực riêng của công tác tư tưởng, của những người làm công tác tư
tưởng. Lại có quan niệm cho rằng GDCT,TT là nội dung của giáo dục, chỉ cần thực hiện
giảng dạy những mơn chính trị theo quy định của Bộ GD&ĐT là đủ. Hiểu như vậy là phiến
diện, con đường tiến lên CNXH của nước ta dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Mọi lĩnh vực Đảng đều lãnh đạo nhất qn, trong đó có cơng tác GDCT,TT. Đó là



23

hoạt động có chủ đích của Đảng nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng
là Chủ nghĩa Mác - Lênin. GDCT,TT là truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, giáo dục
truyền thống cách mạng của dân tộc, lý tưởng XHCN tới cán bộ đảng viên và quần chúng
nhân dân thống nhất về tư tưởng, nâng cao nhận thức chính trị, lý tưởng XHCN và năng lực
lãnh đạo hoạt động thực tiễn của họ, hướng họ vận dụng những hiểu biết đó vào đời sống
chính trị.
GDCT,TT cũng chính là q trình giáo dục tinh thần u nước nồng nàn, giáo dục
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tính nhân văn cao cả, là q trình giáo dục những giá trị
truyền thống tốt đẹp, thiêng liêng của dân tộc, của cha ơng để lại. Q trình GDCT,TT cũng
chính là quá trình hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, hình thành nhân sinh quan
khoa học.
Mặt khác, cũng cần hiểu rõ hơn về công tác tư tưởng của Đảng là hoạt động có mục
đích của một giai cấp, một chính Đảng nhằm hình thành và phát triển hệ tư tưởng, truyền bá
hệ tư tưởng cho quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư
tưởng. Công tác tư tưởng trong chế độ XHCN là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản
và Nhà nước nhằm hình thành phát triển hệ tư tưởng XHCN, biến hệ tư tưởng XHCN thành
hệ tư tưởng thống trị xã hội, động viên cổ vũ con người hành động tích cực sáng tạo vì lý
tưởng mục tiêu của CNXH.
GDCT,TT là sự tác động có mục đích , có hệ thống với các hình thức , biên pháp khác
nhau của một chủ thể đến khách thể nhằm nâng cao tri thức của khách thê vê hê tư tương ,
đương lơi chính tri, thực hiên tâp hợp, tơ chức, đinh hương va giác ngộ họ tự giác trong hoạt
động thực tiễn theo mục tiêu đã đề ra.
Như vậy công tác GDCT,TT là một bộ phận của công tác tư tưởng quan trọng của
Đảng mà mọi ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng đều phải thực hiện và tham gia. Ngành giáo



24

dục - đào tạo phải làm tốt công tác tư tưởng cho đảng viên thơng qua việc GDCT,TT mà hình
thành nền văn hóa chính trị cho đội ngũ đảng viên, cổ vũ hành động của họ ngày một tích cực
hơn trên cơ sở nhận thức niềm tin biến thành hành động cụ thể để họ trở thành con người mới
- con người XHCN, cống hiến sức lực cho cuộc cách mạng XHCN, xây dựng đất nước. Trên
báo Nhân dân, số 2563, ngày 27-3-1961, Bác Hồ đã khẳng định “Muốn xây dựng CNXH
trước hết phải có con người XHCN”, những con người đó có được khi thực hiện giáo dục
tồn diện về chuyên môn, đạo đức, tăng cường GDCT,TT bằng nhiều nội dung, hình thức,
phương tiện nhất là trong các lớp tập huấn cán bộ, đảng viên.
1.2. Tầm quan trọng và những yêu cầu đặt ra đối với công tác Giáo dục chính
trị, tư tưởng cho giáo viên tiểu học hiện nay
1.2.1. Tầm quan trọng của cơng tác Giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên
tiểu học
Cơng tác chính trị, tư tưởng nói chung là hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của
Đảng nhằm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển cương lĩnh,
đường lối chính sách, xây dựng thế giới quan khoa học, bồi dưỡng lý tưởng, lẽ sống, giáo
dục niềm tin... xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức. Cơng tác
GDCT,TT là một trong những phương thức lãnh đạo có vị trí quan trọng hàng đầu trong hoạt
động lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, đối với ngành giáo dục - đào tạo nói riêng cũng như
tất cả các ngành khác nói chung trong xã hội nói chung, cơng tác GDCT,TT cũng có vị trí
quan trọng bậc nhất trong mọi hoạt động.
Đối với đội ngũ GVTH, cơng tác chính trị, tư tưởng cũng đóng vai trị quyết định cho
sự tồn tại và phát triển của đội ngũ. Làm tốt công tác này sẽ mang lại hiệu quả cao cho sự
phát triển về số lượng và chất lượng của cấp học này. Một GVTH có những quan điểm, nhận
thức đúng đắn về chính trị, tư tưởng sẽ có vai trị, tác dụng như một đầu tàu, sẽ phát huy sức
mạnh lan tỏa, lơi kéo cả đồn tàu cùng tiến về phía trước. Ngược lại, một GVTH không được



25

giáo dục đúng đắn về chính trị, tư tưởng, có những quan niệm, quan điểm sai lầm, có những
nhận thức, hiểu biết lệch lạc, sai trái về lập trường chính trị, có những biểu hiện suy thối về
tư tưởng, đạo đức, lối sống sẽ tạo ra những ảnh hưởng không nhỏ, gây ra những cản trở,
những tác động xấu đến mơi trường xã hội xung quanh. Chính vì lẽ đó, công tác GDCT,TT
cho GVTH lại càng phải chú trọng hơn bất kỳ đối tượng nào khác.
Hiện nay, do tác động của nền kinh tế thị trường, một bộ phận nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục có biểu hiện tiêu cực, thiếu gương mẫu về chính trị, tư tưởng đạo đức và lối
sống, việc tự học và tự nghiên cứu còn hạn chế, chậm đổi mới về phương pháp giảng dạy. Cá
biệt có một số nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn xúc phạm danh dự, nhân phẩm người
học. Những vi phạm này làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục - đào tạo, làm tổn hại
đến danh dự nhà giáo, đến truyền thống tơn sư trọng đạo của dân tộc và cịn ảnh hưởng xấu
trong việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Chính vì vậy, việc nâng cao phẩm chất chính
trị, ý thức đạo đức nghề nghiệp, lối sống và phong cách sư phạm, trình độ chun mơn
nghiệp vụ, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong sạch, vững mạnh là
việc làm có ý nghĩa cấp thiết. Trong thời điểm này, cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một
tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo'" với những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, tinh thần
tự học và sáng tạo của nhà giáo mà cuộc vận động đặt ra sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng, đạo đức nghề nghiệp, thường xun tự học nâng cao trình độ chính trị, chun môn
nghiệp vụ và sáng tạo trong các hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục, góp phần đổi mới
mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Công tác GDCT,TT là hoạt động đặc biệt quan trọng của Chi bộ các trường học.
Trong thực tiễn, cơng tác GDCT,TT đã góp phần định hướng nhận thức, xây dựng và củng
cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, đội ngũ GV vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó tạo được tính
tự giác, lòng hăng say, ý thức trách nhiệm để thực hiện thắng lợi các mục tiêu nghị quyết mà



×