DIỄN ĐÀN
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KHU VỰC VEN ĐÔ
CÁC THÀNH PHỐ LỚN TẠI VIỆT NAM
KTS. Phạm Thị Nhâm*
ThS.KTS. Nguyễn Thị Hồng Diệp - VIUP
Some development models of suburban areas of major cities in Vietnam
Currently, in the major cities of Vietnam and developing countries, an imbalance is increasing between urban and suburban
rural areas in the process of industrialization and urbanization. This imbalance is most evident in the incomes of people in
urban and suburban rural areas. Farmers do not want to work in agriculture. The imbalance between urban and rural areas is
also manifested in separation between economic and social development. There is a lack of a model development strategy to
transform the economic structure in rural areas associated with urbanization. In fact, in Vietnam, cities directly under the Central
Government such as Hanoi, Ho Chi Minh City, Da Nang, Hai Phong, Can Tho, the first class cities in the period of 2010-2020
tend to expand their space from the urban core to the periphery. The suburbs of major cities are often the focal point for linking
production and trade activities between urban and rural markets, providing raw materials and labor for the urban areas, which
are the focal points for the technical cooperation of urban areas as well as regional socio-economic infrastructures, serve as a
bridge to connect central urban with other satellite urban in big urban areas. Currently, suburban areas of Vietnam’s major urban
centers are lacking in management orientations and tools for the transition from rural to urban areas. This article analyzes the
models that have been developed in suburban rural areas in big cities in our country with the desire to help cities find the most
optimal development model, solving problems. integration of urban and rural planning together. Urban development entails rural
development around it, where there is great endogenous potential.
H
iện nay ở các thành phố lớn của Việt Nam và các nước đang phát triển, đang diễn ra sự mất cân đối ngày càng tăng
giữa thành thị và nông thôn ven đô trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Sự mất cân đối này thể hiện rõ nhất
trong thu nhập của người dân ở thành thị và ở nông thôn ven đô. Người nông dân không muốn làm việc trong ngành
nông nghiệp. Mất cân đối giữa đô thị và nông thôn còn thể hiện ở sự phân cách trong phát triển kinh tế và xã hội. Người ta thiếu
một chiến lược phát triển mô hình để chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn gắn với quá trình đô thị hóa.
Trên thực tế, tại Việt Nam, các thành phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, các đô
thị loại I trong giai đoạn 2010-2020 có xu hướng mở rộng không gian từ trung tâm lõi đô thị ra ngoại vi. Khu vực ven các thành
phố lớn thường là đầu mối gắn kết hoạt động sản xuất, thương mại giữa hai thị trường đô thị - nông thôn, cung cấp nguyên liệu,
lao động cho đô thị, là nơi bố trí các đầu mối HTKT của đô thị cũng như các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội vùng, là cầu nối
liên kết đô thị trung tâm với các đô thị vệ tinh khác trong vùng đô thị lớn. Hiện nay, khu vực ngoại thành các đô thị lớn Việt Nam
đang thiếu các định hướng và công cụ quản lý cho giai đoạn quá độ chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị.
Bài viết này phân tích các mô hình đã và đang phát triển tại khu vực nông thôn ven đô tại các thành phố lớn ở nước ta với mong
muốn, có thể giúp các đô thị tìm ra mô hình phát triển tối ưu nhất, giải quyết vấn đề lồng ghép giữa quy hoạch đô thị và nông
thôn với nhau. Sự phát triển của đô thị kéo theo sự phát triển của nông thôn xung quanh nó, nơi có tiềm năng nội sinh lớn.
56
SË 103+104 . 2020
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
Các mô hình
1. Mô hình khu công nghiệp (KCN) và làng nghề
a) Mô hình KCN và nhà ở công nhân
KCN: Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam mang ý nghóa
quan trọng chuyển biến từ xã hội nông nghiệp sang công nghiệp,
hội nhập với xu thế toàn cầu, góp phần hình thành các khu đô thị
mới và ra đời các KCN, khu chế xuất ở các khu vực ven đô, nhanh
chóng thay đổi bộ mặt của các thành phố. Tuy nhiên, việc phát
triển các KCN với số lượng lớn đang gây ra nhiều thách thức, nhất
là thách thức về môi trường.
Vận hành các KCN làm thay đổi cấu trúc làng xóm xung quanh.
Người dân nhập cư mới cần hoà nhập với cộng động cư dân cũ
trong khu vực quanh KCN. Sự phát triển nhanh chóng của các
KCN gây ra những tác động xấu tới môi trường. Khoảng 20% nước
thải từ các KCN được xả thẳng ra nguồn tiếp nhận mà không có bất
kì một biện pháp xử lý nào, gây nên ô nhiễm nặng nề nước bề mặt
cũng như hệ sinh thái tầng sâu và tạo ra những tác động tiêu cực
tới nông nghiệp, thủy sản và nguồn nước sinh hoạt. Lượng chất thải
rắn (CTR) đang ngày càng tăng tại các KCN, trong đó CTR nguy
hại chiếm tới 20%. Việc thu gom, vận chuyển, tái chế và tái sử dụng
CTR từ KCN còn nhiều hạn chế. Ô nhiễm không khí chủ yếu là do
các doanh nghiệp sử dụng những công nghệ lạc hậu và không có
hệ thống xử lý khí thải. Tổn thất kinh tế hàng năm của người dân
sống trong khu vực chịu ảnh hưởng bởi các KCN thường cao hơn
3,5 lần khu vực không chịu ảnh hưởng.
khoảng 8-10m2. Xã Võng La có 60% đất chuyển đổi cho khu công
nghiệp Thăng Long. Đất nông nghiệp còn lại một số ít bị bỏ hoang
do úng lụt vì chưa quy hoạch được kênh mương nội đồng.
Kinh tế địa phương được định hướng chuyển đổi sang cung cấp
dịch vụ cho khu công nghiệp và cung cấp công nhân cho khu công
nghiệp (tuy với số lượng ít - chỉ có khoảng 200 lao động địa phương
làm việc trong khu công nghiệp). 25% GDP của xã phụ thuộc vào
việc cung cấp dịch vụ cho lao động của KCN. Tiền đền bù đất đai
65 triệu/sào của người dân địa phương được đầu tư vào nhà trọ,
quán ăn, dịch vụ cho công nhân KCN. Trong đó, cung cấp nhà trọ
gần như là sinh kế duy nhất của nhiều hộ (200/1.500 hộ).
Nhà trọ - mô hình làng xã nông nghiệp sang làng xã dịch vụ
Xu thế vài năm gần đây, vùng ven đô Hà Nội và TP.HCM chuyển từ
sản xuất công nghiệp thâm dụng lao động sang công nghiệp có giá
trị gia tăng cao, sẽ tác động đến cấu trúc không gian và mối quan
hệ giữa KCN với khu vực dân cư xung quanh. Định hướng phát triển
công nghiệp đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam, phát triển
các ngành kinh tế thân thiện với môi trường, giảm phát thải khí nhà
kính và ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó xây dựng và phát
triển mô hình KCN sinh thái nhằm ”xanh hóa sản xuất”.
Gắn với các khu cụm công nghiệp là mô hình nhà ở cho công nhân
KCN thành 2 nhóm là nhà trọ do tư nhân cung cấp và khu nhà ở xã
hội do doanh nghiệp cung cấp.
Các KCN xung quanh Hà Nội và TP.HCM có tỷ lệ lấp đầy khá cao.
Giai đoạn 2005-2010, các KCN Hà Nội và TP.HCM tuyển dụng lao
động giản đơn, nên nhu cầu nhà ở công nhân rất lớn. Giai đoạn
này, hầu hết các KCN không có nhà ở dành cho công nhân, và
công nhân thường thuê nhà trọ tại các thôn làng gần KCN. Ví dụ:
các KCN Quang Minh, Thăng Long II. Khảo sát của Thời báo kinh
tế 2009 ở 2 KCN vùng ven đô Hà Nội là KCN Bắc Thăng Long và
KCN Quang Minh cho thấy trong số 737.500 công nhân tại các
khu công nghiệp, khu chế xuất tại Hà Nội, 70% là người lao động
nhập cư. Xuất phát điểm của họ thường từ những hộ làm ruộng
thiếu đất hoặc có thu nhập thấp ở khu vực nông thôn. Phần lớn
công nhân lao động nhập cư thuê nhà ở trọ. Một mặt do không phải
công ty nào cũng có ký túc xá cho công nhân. Mặt khác, thời gian
ca kíp cũng khiến công nhân không cảm thấy thoải mái với nội quy
trong ký túc xá. Hai hoặc ba công nhân chung nhau một phòng trọ
Hình 1: Nhà trọ xung quanh KCN
Nhà trọ không có đầy đủ tiện nghi và dịch vụ nhưng có thể sử dụng
các tiện nghi và dịch vụ này của thôn làng, đô thị lân cận, ở một
mức độ nào đó. Các điều kiện về môi trường như thông gió, chiếu
sáng và vệ sinh, chất lượng công trình nhà ở rất thấp kém.
Khu nhà ở công nhân
Nhà ở của công nhân KCN giai đoạn gần đây đã được Chính phủ
chỉ đạo thực hiện và đã được đáp ứng bởi chính các doanh nghiệp
kinh doanh hạ tầng KCN hoặc các doanh nghiệp sản xuất trong
KCN và các nhà trọ của tư nhân thuê khá tươm tất, tuy chưa đáp
ứng yêu cầu về diện tích ở tối thiểu. Sau quá trình đô thị hóa, NƠXH
cho công nhân sẽ không còn là vấn đề xã hội cấp thiết nữa bởi bên
cạnh đó lúc này đã có nguồn cung dồi dào về nhà trọ cho thuê với
điều kiện sinh hoạt khá tốt. Có thể thấy tình hình như vậy ở khu vực
TP.HCM và phía Nam tỉnh Bình Dương. Tại xã Kim Chung, Đông
Anh, Hà Nội, UBND TP Hà Nội đã xây dựng khu nhà ở công nhân
thí điểm nằm gần KCN và đã thành công trong việc thúc đẩy đô thị
hóa ở khu vực này.
SË 103+104 . 2020
57
Hệ thống hạ tầng xã hội sẵn có ở các thôn làng lân cận có vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ hoạt động hàng ngày của công nhân,
và cũng giúp cải thiện điều kiện sống của người lao động, ngoài ra,
còn góp phần vào sự phát triển bền vững của khu vực. Trong một
số trường hợp, các ký túc xá nằm bên trong KCN cũng cung cấp
một số dịch vụ thương mại và giải trí cho công nhân. Tuy nhiên, quy
mô và tính đa dạng của các dịch vụ này còn khá hạn chế so với các
thôn làng lân cận.
b) Làng nghề ven đô
Các làng nghề bắt nguồn từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, ngư
nghiệp. Làng nghề vùng ven đô hội nhập với quá trình đô thị hoá.
Để phát triển bền vững, các đô thị đã có nhiều chính sách thúc đẩy
làng nghề phát triển gắn với du lịch như: gốm Bát Tràng, dát quỳ
vàng bạc Kiêu Kỵ (huyện Gia Lâm), lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông),
khảm trai Chuyên Mỹ (huyện Phú Xuyên), thêu Quất Động (huyện
Thường Tín), mây tre đan Phú Vinh (huyện Chương Mỹ)… Hàng
năm, thành phố quan tâm đầu tư nâng cấp hạ tầng giao thông,
lưới điện, nước sạch, cải thiện cảnh quan môi trường, hình thành
đội ngũ thuyết minh viên tại cơ sở; tổ chức gặp mặt nghệ nhân,
thợ giỏi...
Bên cạnh những kết quả khả quan, các làng nghề còn gặp một
số khó khăn nhất định. Trong đó phải kể đến vốn đầu tư công
nghệ, mở rộng mặt bằng; thiếu lực lượng lao động chất lượng cao;
ô nhiễm môi trường...
Khó khăn ở làng nghề
n Phần lớn làng nghề hoạt động theo kinh nghiệm cha truyền con
nối;
n Phần lớn các cơ sở sản xuất với quy mô nhỏ hộ gia đình;
n Tư duy làm ăn manh mún, nhỏ lẻ;
n Thiếu ý thức trong an toàn bảo hộ lao động;
n Chưa có quy định cụ thể về hình thức tổ chức đại diện cho tập thể
các cơ sở của làng nghề;
n Khả năng xúc tiến thương mại của làng nghề còn yếu;
n Giá nguyên liệu không ổn định.
2. Mô hình trang trại
Một trong những mô hình phát triển kinh tế ven đô trên thực tế phải
kể tới mô hình trang trại. Đây là kết quả tất yếu của hộ gia đình
gắn với sản xuất hàng hóa, là hình thức tiến bộ của sản xuất nông
nghiệp. Sự kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch, nghỉ dưỡng (còn
gọi là loại hình nông nghiệp du lịch và nông nghiệp nghỉ dưỡng)
đang được chú ý phát triển tại nhiều đô thị.
Hoạt động của KKTT chịu sự chi phối của nền kinh tế thị trường và
tuân theo quy luật cung cầu, chấp nhận cạnh tranh. Mô hình này tại
Việt Nam đã phát triển khá nhiều tại Hà Nội, TP.HCM…
Du lịch nông nghiệp là một loại hình du lịch tạo ra sản phẩm du lịch
phục vụ du khách chủ yếu dựa vào nền tảng của hoạt động sản
xuất nông nghiệp.
Nông nghiệp nghỉ dưỡng là loại hình giúp cho con người phục
hồi sức khoẻ và lấy lại tinh thần sau những căng thẳng mệt mỏi,
58
SË 103+104 . 2020
chủ yếu dựa vào nền tảng của hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Phát triển du lịch nông nghiệp kết hợp nghỉ dưỡng, có thể đưa
nông nghiệp từ chức năng sản xuất đơn nhất mở rộng thành đa
chức năng như sản xuất hàng hoá, bảo vệ môi trường sinh thái,
dịch vụ giải trí, quảng bá văn hoá…, đáp ứng nhu cầu về với thiên
nhiên, làm quen với nông nghiệp, trải nghiệm niềm vui nhà nông,
rèn luyện tính cách, vui chơi giải trí… của cư dân thành thị. Phát
triển du lịch nông nghiệp kết hợp nghỉ dưỡng là một mô hình cần
được phát triển.
a. Trang trại hoa trái
Trang trại hoa trái là một mô hình khác thành công ở Việt Nam.
Điển hình ở Đồng Nai là khu du lịch nhà vườn của ông Huỳnh Đức
Huệ, huyện Vónh Cửu, Đồng Nai, một khu du lịch sinh thái mang
tên Làng bưởi Tân Triều đã thu hút khách quanh năm. Ngoài ra,
tỉnh như Bình Dương cũng đã phát huy được thế mạnh du lịch sinh
thái của địa phương. Từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm là mùa
trái cây chín rộ, du khách không những được tận hưởng không khí
trong lành của vườn cây trái Bình Dương mà còn được thưởng thức
hương vị thơm ngon của các loại trái cây như măng cụt, sầu riêng,
chôm chôm, mít tố nữ, vú sữa. Lợi thế của vùng này là ở sát cạnh
TP.HCM, chỉ cách chừng 20km, có diện tích cây ăn quả lớn trong
khu vực miền Đông Nam Bộ, lại biết kết hợp với làng gốm và các
xưởng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ để làm du lịch. Do đó,
người nông dân được hưởng lợi về mặt kinh tế nhờ mô hình liên kết
này. Tuy vậy, các dịch vụ và sản phẩm phục vụ loại hình du lịch
này suốt thời gian dài vẫn không có những đổi mới, có thể trở nên
nhàm chán với du khách.
b. Du lịch nông nghiệp
“Du lịch nông nghiệp” là mô hình trong đó khách du lịch tham
quan và tham gia vào các hoạt động nông nghiệp truyền thống,
không phá hoại, hay làm giảm năng suất cây trồng của địa phương.
Không chỉ khách quốc tế mới là đối tượng của loại hình du lịch này
mà ngay cả người dân trong nước cũng có thể tham gia, tìm hiểu.
Những bài học góp nhặt được trong quá trình trải nghiệm sẽ giúp
cho chuyến du lịch trở nên bổ ích hơn và thú vị hơn cho du khách
và việc đầu tư khai thác loại hình du lịch này có nhiều tiềm năng
mang lại hiệu quả cao. Ở Việt Nam, du lịch nông nghiệp đã xuất
hiện ở Sa-Pa (Lào Cai), Khánh Hòa, Mỹ Tho, Vónh Long, Cần Thơ.
Có thể kể một số điển hình như Khu du lịch “Một thoáng làng nghề”
tại Củ Chi - TP.HCM…
Một mô hình thành công khác có thể kể đến là mô hình Trang trại
Đồng Quê, Ba Vì, Hà Nội. Trang trại Đồng Quê là một trong những
mô hình khai thác trang trại nông nghiệp đưa vào du lịch thành
công với 70% là nông nghiệp. Nơi đây hiện nay còn lưu giữ được
nhiều phong cảnh thiên nhiên đẹp hoang sơ, địa hình đa dạng với
núi đồi, sông suối, hệ động, thực vật phong phú.
Vùng nông thôn với những làng quê cổ kính, những cánh đồng bát
ngát, phì nhiêu, những nét văn hóa truyền thống đặc sắc, đặc biệt
là văn hóa nông nghiệp, vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, nơi
lưu giữ nhiều di tích lịch sử và truyền thống văn hóa tập tục của
người xưa... là những điều kiện hết sức thuận lợi khi phát triển loại
hình du lịch nông thôn.
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
xem làm bánh tráng, kẹo dừa… Nhiều doanh nghiệp du lịch đã chủ
động thay đổi cách làm, tạo ra sản phẩm mới cho loại hình du lịch
này với tiêu chí xác định du lịch nông nghiệp không chỉ là đi xem
các thửa ruộng xanh mướt, nhìn ngắm những con gà, con vịt hay
những vườn rau, thăm cây ăn trái mà còn là sống với những sinh
hoạt rất đỗi quen thuộc, gần gũi như người dân bản địa.
c) Trang trại hoa màu
Nhiều làng nghề vùng ven đô trong quá trình đô thị hoá đã trở
thành đầu mối cung cấp sản phẩm làng nghề trong và ngoài nước.
Trường hợp huyện Văn Giang, Hưng Yên, khi đất nông nghiệp
chuyển thành đô thị Ecopark, nông dân vẫn gắn bó với nghề nông,
nhưng thay vì trồng lúa, ngô, khoai, lạc, nhiều hộ dân xã Xuân
Quan đã chuyển sang trồng hoa. Hướng đi này phát huy hiệu quả
thực sự khi nghề trồng hoa, cây cảnh đã đem lại hiệu quả cao từ 10
đến 20 lần, thậm chí cá biệt với một số hộ lên tới 50 lần so với trồng
lúa và hoa màu. Xuân Quan đã vươn mình trở thành một vựa hoa
trẻ có tên tuổi sánh ngang với những vựa hoa truyền thống tại miền
Bắc như Mê Linh, Tây Tựu.
Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km, xã Xuân Quan, Văn Giang,
là làng hoa lớn nhất Hưng Yên, cũng là một trong những vựa hoa
lớn nhất miền Bắc.
Hình 2 : Du lịch nông nghiệp học đường tại trang trại Đồng Quê (Ba Vì)
Một kinh nghiệm khác đối với du lịch nông nghiệp, đó là du lịch
miền Tây với 5 chợ nổi lớn, cả 5 đều có đặc trưng lấy ghe là nhà,
họp chợ trên sông từ sáng sớm. Từ ghe bước lên vườn, men theo
vài con đê nhỏ là vào các vườn cây ăn trái, ngồi nghỉ bên bàn nước
nhỏ, nhâm nhi chén trà pha mật ong, thưởng thức các loại trái cây
như đu đủ, chôm chôm, thanh long… đãi khách. Người dân thì lo
lắng không muốn đầu tư thêm vì không biết ngày mai đất của họ có
bị quy hoạch, cấp cho một dự án nào đó hay không. Đi tham quan
thì cũng chỉ có vài căn nhà cổ, các trại rắn, cá sấu, đà điểu, hay
Hình 4: Làng nghề trồng hoa cây cảnh Văn Giang
Hình 3 : Người nông dân ven đô thực hiện chức năng làm “nông nghiệp đô thị” hay “vành đai xanh” cho các trung tâm đô thị hiện đại
SË 103+104 . 2020
59
3. Mô hình khu du lịch nghỉ dưỡng
Mô hình du lịch kết hợp với nghỉ dưỡng - thành phố Cần thơ
Vườn trái cây 9 Hồng, ấp Mỹ Nhơn, xã Mỹ Khánh, huyện Phong
Điền, thành phố Cần Thơ, khu vực này du khách có thể tham quan
vườn trái cây và có thể tự tay hái, thưởng thức các loại trái cây đa
dạng như: dâu, xoài, măng cụt, chôm chôm Thái, vú sữa... Tuy nhiên
tuỳ vào mỗi thời điểm của năm sẽ có những loại trái cây khác nhau.
Cồn Sơn rộng trên 67ha (phường Bùi Hữu Nghóa, quận Bình Thủy)
là dải đất được phù sa bồi đắp, nổi lên giữa dòng sông Hậu. Cồn
Sơn khai thác du lịch nông trại kết hợp với nghỉ dưỡng, mô hình này
giúp gia tăng thu nhập một cách bền vững. Với khách du lịch, đây là
cơ hội tìm hiểu, nâng cao nhận thức về môi trường và giao lưu văn
hóa, trải nghiệm cuộc sống hàng ngày của cộng đồng.
Du khách cảm giác được thư giãn bởi không khí thoáng mát, trong
lành đầy màu sắc của cỏ cây, hoa trái
4. Mô hình khác
a) Tổ hợp thương mại, dịch vụ lớn
Quá trình đô thị hoá vùng ven đã xuất hiện nhiều tổ hợp thương
mại, dịch vụ của các tập đoàn kinh tế lớn, như hệ thống các siêu thị
điện máy, siêu thị nội thất, salon ô tô, cửa hàng vật liệu xây dựng.
Nhiều trường hợp, trung tâm thương mại, dịch vụ vùng ven được
tích hợp nhà ở, thu hút dịch cư từ nội đô ra vùng ven đô.
Vườn du lịch sinh thái Lê Lộc có diện tích khoảng 20.000m2 thuộc
phường Ba Láng, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ, nằm cách
trung tâm thành phố 8km. Vườn du lịch sinh thái Lê Lộc là nơi phù
hợp để quý khách tổ chức sự kiện, liên hoan, sinh nhật, họp mặt bạn
bè hoặc tổ chức các buổi picnic, đốt lửa trại ngoài trời…
Khu du lịch nông trại kết hợp với nghỉ dưỡng Cồn Sơn - Cần Thơ
Đến Cồn Sơn để khám phá những công đoạn làm kẹo dừa nổi tiếng
của người dân nơi đây
60
SË 103+104 . 2020
Thương mại hiện đại Việt Nam đang ở vào giai đoạn tăng tốc sau
giai đoạn mười năm (2004 - 2013), đa dạng hoá các loại hình bán
lẻ. Các mô hình thương mại hiện đại như trung tâm mua sắm phức
hợp/đại siêu thị sẽ nở rộ ở vùng ven, trở thành nơi mua sắm thứ cấp
kết nối đến người tiêu dùng khu vực ngoại ô. Những trung tâm mới
cũng làm giảm áp lực lên khu “đất vàng” của thành phố, tiệm cận
được lớp tiêu dùng mới nổi ở ngoại ô, và tạo ra thế cạnh tranh mạnh
hơn cho toàn thị trường.
Ở TP.HCM, các trung tâm mở ra “đón lõng” các tuyến dân cư
hướng về Bình Chánh, Bình Dương, Đồng Nai, vành đai Bình Lợi
– Tân Sơn Nhất. Chuyên gia kinh tế dự báo khoảng 1,5 triệu m2
bán lẻ mới sẽ gia nhập thị trường vài năm tới. Hiện nguồn cung từ
các quận 1, 2 và 7 chiếm 60%, nhưng việc tăng tốc ở các khu vực
lân cận sẽ thay đổi cơ cấu phân bổ trong mười năm tới. Xu hướng
phát triển từ trung tâm ra phụ cận, Tân Bình là quận còn nhiều tiềm
năng nên các nhà bán lẻ nhắm tới. Xu hướng này sẽ xuất hiện ở
vùng ven các thành phố lớn Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng.
b) Trung tâm đào tạo và y tế chất lượng cao
Vùng ven đô xuất hiện các dự án xây dựng trung tâm đào tạo chất
lượng cao. Tập đoàn Vingroup xây dựng trường Đại học VinUni thuộc
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Đại học Anh Quốc Việt Nam
(BUV), Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam đặt tại đô thị Ecopark (Văn
Giang, Hưng Yên), Đại học FPT tại khu công nghệ cao Hoà Lạc…
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
TP.HCM xây dựng đại học Quốc tế Việt
Nam (VIUT) ở huyện Hóc Môn, ĐHQG
TP.HCM tại quận Thủ Đức. Các dự án phát
triển trung tâm đào tạo đẳng cấp quốc tế
được xây dựng ở vùng ven đô làm giảm áp
lực đến khu vực nội đô và cung cấp nguồn
nhân lực chất lượng cao. Làng đại học Đà
Nẵng (Đà Nẵng - Điện Bàn) và ĐHQG Hà
Nội (Hoà Lạc) đã được quy hoạch dành đất
xây dựng nhưng không thực hiện được.
c) Đô thị mới, động lực kinh tế
Hà Nội dự kiến xây dựng trục Nhật Tân Nội Bài, mô hình đô thị thông minh, có sự
tham gia của các tập đoàn kinh tế lớn của
Nhật Bản. Thành phố sẽ tập trung mọi tinh
hoa công nghệ hiện đang được áp dụng
tại những khu đô thị hiện đại nhất tại Nhật
Bản hiện nay như xe buýt tự hành cung cấp
Các mô hình nhà ở vùng ven đô khá đa
dạng. Vùng ven Hà Nội xuất hiện nhiều đô
thị mang tính phân tầng xã hội, như trường
hợp đô thị Vinhomes Riverside phục vụ
tầng lớp giàu có, có tường và cổng riêng;
hay đô thị nhà ở xã hội Cầu Giấy, Pháp Vân
- Hoàng Mai, Đại Kim...
Kết luận
Mô hình phát triển kinh tế khu vực ven đô đa
dạng, tạo nên động lực kinh tế, việc làm và
thu hút lao động nhập cư. Các mô hình kinh
tế đã làm chuyển đổi đất nông nghiệp và thay
đổi không gian cư trú làng xã truyền thống.
Vùng ven của Hà Nội có đa dạng các loại
hình đầu tư KCN, đô thị, dịch vụ, giáo dục,
y tế... Vùng ven của Đà Nẵng chủ yếu thu
hút các dự án đầu tư du lịch. Vùng ven của
Hình 5: Trung tâm đô thị mới Thủ thiêm – Bán đảo xanh rộng 657ha, tổng diện tích sàn
xây dựng 43%, đạt 7,7 triệu mét vuông để tạo chỗ ở cho 160.000 người và nơi làm việc của
450.000 người.
bởi Mitsubishi Heavy, các thiết bị và ứng
dụng thông minh nhằm bảo tồn và tiết kiệm
năng lượng phát triển bởi Panasonic, ngoài
ra Daikin Industries lên kế hoạch phát
triển một hệ thống điều hòa không khí là
giải pháp cho khí hậu ẩm ướt của Hà Nội.
TP.HCM dự kiến xây dựng Thủ Thiêm có
vai trò đối với TP.HCM như Manhattan của
New York hoặc Phố Đông, Thượng Hải.
Hiện nay, TP.HCM xây dựng khu vực Đông
Bắc theo mô hình đô thị thông minh.
Các dự án đầu tư quy mô lớn ở vùng ven
đô thị nhằm mục đích tạo nên động lực mới
phát triển thành phố. Trên thực tế, vùng ven
hai thành phố lớn đô thị Hà Nội và TP.HCM
đón nhận nhiều dự án lớn. Còn Đà Nẵng
chủ yếu thu hút dự án đầu tư du lịch và Cần
Thơ thu hút dự án công nghiệp chế biến và
nông nghiệp công nghệ cao.
Cần Thơ thu hút công nghiệp chế biến và
nông nghiệp công nghệ cao.
Vùng ven của Hà Nội lan toả rộng hơn vượt
ra ngoài ranh giới hành chính, như trường
hợp của đô thị Ecopark. Vùng ven của Đà
Nẵng lan tỏa về phía Nam đến Hội An.
Vùng ven của Cần Thơ lan tỏa trong khu
vực nội thành.
Các làng xóm trong vùng ven đô của Hà
Nội thích nghi được với xu thế đô thị hoá,
nhiều làng đã nhanh chóng chuyển đổi mô
hình từ làng nông sang làng dịch vụ.
Vùng ven có nhiều mô hình nhà ở. Nhà ở
xã hội chủ yếu dành cho dân nhập cư và
giới trẻ mới đi làm. Nhà ở chất lượng cao
dạng biệt thự có gắn với không gian mặt
nước và có tường cổng riêng dành nhóm
thu nhập cao từ nội đô chuyển đến hoặc
doanh nhân ngoại quốc. Nhà ở hỗn hợp
các chức năng dịch vụ quy mô lớn đang
xuất hiện nhiều ở vùng ven Hà Nội và
TP.HCM. Các đô thị này không những tạo
nên bước ngoặt về không gian sống mà
còn chuyển đổi mô hình dịch vụ y tế, giáo
dục, nghiên cứu có ý nghóa cạnh tranh
toàn cầu.
* Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch đô thị và
nông thôn quốc gia (VIUP)
Ngày nhận bài: 25/3/2020
Ngày gửi phản biện: 26/3/2020
Ngày duyệt đăng: 15/4/2020
Tài liệu tham khảo
1. Trương Hoàng Thái An (2017). Định hướng phát
triển không gian vùng ven.
2. Võ Hữu Hòa (2011). Phát triển nông nghiệp đô thị:
Hướng đi bền vững cho các đô thị trong tiến trình
đô thị hoá.
3. Phạm Sỹ Liêm. (2009). Nông nghiệp đô thị trong
quy hoạch thành phố Hà Nội. Bài trình bày tại Hội
thảo “Hà Nội: thành phố thân thiện và sống tốt cho
cộng đồng”. 1 -2/7/2009.
4. Phạm Hùng Cường (2001). Chuyển đổi cấu trúc
làng xã vùng ven đô thị lớn đồng bằng sông Hồng
thành đơn vị ở trong quá trình đô thị hóa.
5. Trần Du Lịch, Đặng Văn Phan (2004), Định hướng
chuyển dịch cơ cấu nội bộ
các ngành kinh tế Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
Đề tài KHCN, UBND
TP.HCM, Viện Kinh tế.
6. Sở Công nghiệp TP.HCM (2006), Báo cáo tổng kết
năm 2015 và phương
hướng nhiệm vụ năm 2016 ngành công nghiệp
TP.HCM.
7. Lê Văn Trưởng. Phát triển các loại hình nông
nghiệp đô thị ở Việt Nam. TC Kinh tế phát triển.
Trường ĐHKTQD Hà Nội. Số 136. Tháng 10/2008.
8. Phạm Đình Hổ, Đỗ Kim Chung (1997), Kinh tế
nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
9. Các vấn đề môi trường và phát triển bền vững vùng
Đồng bằng sông Cửu Long – Đại học Cần Thơ, Việt
Nam, 02/5/2008.
10. Chương trình Phát triển tổng thể đô thị Thủ đô Hà
Nội (HAIDEP).
11. Bùi Văn Tuấn (2013), Đô thị hóa tác động đến
sinh kế của cộng đồng dân cư vùng ven đô Hà Nội
– Mã số: QG.14.63. Đề tài cấp Đại học Quốc gia
Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Huân (2012): Liên kết vùng từ lý luận
đến thực tiễn.
13. Trần Trọng Hanh (2015): Quy hoạch vùng – Nhà
xuất bản Xây dựng.
14. Trường Đại học Kinh tế TP.HCM: Các phương
pháp phân tích vùng và liên vùng – Tài liệu dịch,
2008.
15. Nguyễn Hoàng Linh (2018): Nghiên cứu lý luận
về vùng ven đô đề cập đến kết cấu vùng và cơ chế
hình thành, diễn biến phát triển của vùng ven đô.
16. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2014,
Báo cáo tổng kết ngành Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn các năm 2013 và 2014.
17. Văn phòng điều phối Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, Bộ
NN&PTNT, 2014, Hướng dẫn theo dõi và đánh giá
kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới 2010-2020.
SË 103+104 . 2020
61