Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Mot vai suy nghi ve viec day van nghi luan trong chuong trinh pho thong (bui thi vui)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.51 KB, 5 trang )

MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ VIỆC DẠY VĂN NGHỊ LUẬN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH PHỔ THƠNG
CN. Bùi Thị Vui
Khoa Ngữ văn
Abstract. Teaching debatable writing in secondary school has been carried out for a long time. However, the
one-sidedness of the topics, types of debatable writing in school keeps existent. The method and effectiveness of
teaching this kind of writing needs to put into discussion. In this composition, we just give out some ideas about
teaching debatable writing within the current philogical curriculum and the experimental one in secondary
school in the way that is under the profundity. We would like to receive colleagues and readers’ comments.

Tóm tắt. Việc dạy văn nghị luận trong nhà trường phổ thơng đã được tiến hành từ lâu. Song tính phiến diện về
đề tài, thể loại của văn nghị luận trong nhà trường trước đây còn thể hiện khá rõ. Phương pháp và hiệu quả giảng
dạy văn nghị luận trong nhà trường phổ thơng cũng cịn nhiều điều cần trao đổi.
Trong khn khổ bài viết này, chúng tơi mạnh dạn trình bày những suy nghĩ bước đầu về việc dạy văn
nghị luận trong chương trình Ngữ văn THCS hiện hành và chương trình Ngữ văn THPT thí điểm. Rất mong
được cùng trao đổi với các bạn đồng nghiệp và độc giả.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Văn nghị luận là thể loại văn: “Viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực
đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa… Mục đích của văn nghị luận là bàn
bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm
phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định… Đặc trưng cơ bản của
văn nghị luận là tính chất luận thuyết – khác với văn học nghệ thuật, văn chương nghị luận
trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ…(Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) - Từ điển thuật ngữ Văn học – NXB Đại học Quốc gia,
4, 1999).
Trước đây do quan niệm phiến diện về văn học nên nhiều người cho rằng văn chương
chỉ bao gồm những sáng tác bằng tưởng tượng, hư cấu mà ít nghĩ đến văn nghị luận. Hoặc có
nghĩ đến thì lại cho rằng đây là thể loại thường đề cập đến những tư tưởng cao siêu, trừu
tượng, lập luận khó, diễn đạt khô nên không hấp dẫn. Do vậy mà văn chương nghị luận rất ít
được đưa vào chương trình phổ thơng. Chỉ có một vài tác phẩm nghị luận trung đại (Sơng núi


nước Nam, Hịch Tướng sĩ, Bình Ngơ đại cáo) và rất ít tác phẩm nghị luận hiện đại (Tuyên
ngôn Độc lập) được đưa vào dạy trong chương trình THCS và cả THPT (theo quan điểm đồng
tâm mở rộng). Mảng văn chương nghị luận này còn rất nghèo về đề tài, chưa phong phú về
thể loại.
Trong quá trình dạy, giáo viên lại thường chỉ chú ý khai thác nội dung làm toát nên
những quan điểm tư tưởng các các tác giả mà ít chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của
các tác phẩm. Vì thế việc dạy học các tác phẩm nghị luận thường khô, khơng hấp dẫn đối với
học sinh nên dẫn đến tình trạng học sinh chán học cũng là dễ hiểu.
Trên thực tế cả ở thế giới và Việt Nam văn chương nghị luận có lịch sử từ rất lâu đời,
nó khơng chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước, thời đại như công cuộc
dựng nước, giữ nước, canh tân đất nước, mà còn rất gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống cơng


dân hiện nay. Vì thế cụm văn bản nghị luận được tuyển chọn dạy trong chương trình Ngữ văn
phổ thơng hiện nay (chương trình Ngữ văn THCS hiện hành và chương trình Ngữ văn THPT
thí điểm) rất phong phú về đề tài và đa dạng về thể loại: Có tác phẩm nói về những vấn đề lớn
lao của dân tộc, thời đại như tinh thần, ý chí của cha ơng trong công cuộc chống ngoại xâm
giữ nước. (Sông núi nước Nam, Hịch Tướng sĩ, Bình Ngơ đại cáo, Tun ngơn Độc lập). Có
tác phẩm phản ánh khát vọng của dân tộc về việc xây dựng một quốc gia hùng cường độc lập
(Chiếu dời đô, Văn bia khắc ở Văn miếu - Quốc Tử Giám…) hoặc có tác phẩm phản ánh nhận
thức thẩm mỹ của dân tộc và nhân loại, phản ánh về văn chương nghệ thuật bằng những bài
nghị luận văn học súc tích, tài hoa, uyên bác (Tựa Trích Diễm thi tập, Một thời đại trong thi
ca, Tiếng nói của văn nghệ, Nhận đường, GBốp và Nghệ thuật…), lại có những tác phẩm bàn
luận về các vấn đề hết sức gần gũi trong đời sống hàng ngày như luận về phép học (La Sơn
Phu Tử), Đi bộ ngao du (Ru xô), Về luân lý xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh), Bàn về đọc
sách (Chu Quang Tiềm – Trung Quốc), Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới (Phó Thủ tướng
Vũ Khoan)…
Như vậy chương trình Ngữ văn ở phổ thông hiện nay đã phản ánh rõ sự chuyển biến
nhận thức về vị trí, vai trị của văn chương nghị luận trong đời sống con người. Điều quan
trọng là chúng ta dạy những tác phẩm nghị luận như thế nào để trả lại vẻ hấp dẫn thẩm mỹ

đích thực của chúng?
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Về cơ bản văn nghị luận là sản phẩm của tư duy lơ gíc. Nhưng vẻ đẹp của một áng văn
nghị luận không chỉ thể hiện ở những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc, nó cịn thể hiện ở hình thức
lập luận phong phú, lý lẽ đanh thép, giọng điệu thuyết phục cùng sự cuốn hút bởi nhiệt tình và
thái độ của mỗi tác giả trước vấn đề nghị luận. Vì thế dạy văn nghị luận cần lưu ý yêu cầu
sau:
1. Nắm được yêu cầu chung của một bài văn nghị luận:
Nội dung: phải nêu rõ được sự việc, hiện tượng có vấn đề; phân tích mặt đúng, mặt sai, mặt
lợi, mặt hại của nó; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của người viết.
Hình thức: bố cục phải mạch lạc, có luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, phép lập luận
phù hợp, lời văn chính xác, sinh động, thuyết phục.
Tuy nhiên, khi dạy học ta không thể chỉ dừng lại ở những điểm chung này. Bởi sức
hấp dẫn của mỗi tác phẩm nghị luận nằm ở sự độc đáo trong cách chọn luận điểm, cách triển
khai luận điểm, cách lập luận, giọng điệu, ngơn từ… Hay nói cách khác là ở phong cách nghị
luận riêng của mỗi tác giả, tác phẩm. Do vậy cần triển khai phân tích trên những bình diện đó
để thấy giá trị nội dung và sự hấp dẫn thẩm mỹ riêng của từng tác phẩm. Chẳng hạn Tun
ngơn Độc lập của Hồ Chí Minh thuộc văn phong hùng biện, giọng điệu hào hùng, trang trọng.
Còn Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc lại đậm chất trào phúng và tính chiến đấu mạnh mẽ với
nhiều hình thức thể hiện đa dạng (từ cách xây dựng mâu thuẫn, sử dụng giọng điệu đến bình
diện ngơn từ… tạo cho văn bản một sắc thái thẩm mỹ riêng). Đơn cử một ví dụ so sánh hai tác
phẩm của cùng một tác giả cho thấy hai phong cách nghị luận độc đáo, hấp dẫn. Ngoài ra cần
nắm đặc điểm của từng thể loại văn nghị luận về kết cấu, văn phong, giọng điệu…
2. Cần phát hiện được những luận điểm mới mẻ, độc đáo ở mỗi tác phẩm:


Luận điểm là tư tưởng, quan điểm của người viết đối với vấn đề nghị luận trong bài
văn. Nó thường được thể hiện dưới hình thức tiêu đề bài văn hoặc những câu văn có tính chất
khẳng định hay phủ định. Luận điểm phải đúng đắn, sáng rõ, tập trung, mới mẻ, đáp ứng địi
hỏi của thực tế thì mới có sức thuyết phục người đọc, người nghe.

Thơng thường trong một bài văn nghị luận bao giờ cũng có một luận điểm trung tâm.
Đồng thời có một hệ thống các luận điểm bộ phận nhằm triển khai luận điểm trung tâm theo
những cách lập luận cụ thể làm cho bài văn có sức thuyết phục. Như vậy luận điểm là nội
dung, cịn lập luận là hình thức diễn đạt nội dung ấy.
Ví dụ: Trích đoạn Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi) dạy ở
lớp 8 là một Tun ngơn Độc lập, trong đó luận điểm trung tâm là khẳng định chủ quyền độc
lập dân tộc được phát triển thật sâu sắc, hệ thống và toàn diện qua một loạt các luận điểm bộ
phận:
- Có nền văn hiến từ lâu đời
- Có lãnh thổ riêng, cương vực rõ ràng
- Có phong tục tập quán (tức bản sắc văn hóa) riêng
- Có chủ quyền riêng: bao triều đại nối tiếp nhau xây nền độc lập.
- Có truyền thống lịch sử anh hùng “ hào kiệt đời nào cũng có”.
- Có biết bao chiến cơng oanh liệt chống ngoại xâm trong trường kỳ lịch sử dân tộc.
So với bài Sông núi nước Nam vẫn được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của
dân tộc ở đầu thời Lý thì Nước Đại Việt ta đã đánh dấu một giai đoạn phát triển cao hơn hẳn
của ý thức về độc lập dân tộc. Như vậy rõ ràng luận điểm mới địi hỏi phải có cách nhìn mới,
thơng tin mới và tầm tư tưởng mới.
Việc phát hiện ra các luận điểm trong bài văn nghị luận là quan trọng. Nhưng quan
trọng hơn là phân tích được cách trình bày, triển khai hợp lý các luận điểm đó.
3. Phân tích được cái hay cái đẹp trong nghệ thuật lập luận của mỗi tác giả, tác phẩm.
Các thao tác lập luận trong văn nghị luận rất phong phú, linh hoạt. Tác giả có thể lập
luận bằng cách quy nạp hay diễn dịch, chứng minh hay giải thích. Hoặc lập luận tương phản
(Tun ngơn Độc lập của Hồ Chí Minh) hay lập luận bằng cách nêu câu hỏi (Hịch Tướng sĩ
của Trần Quốc Tuấn). Có thể dùng lối lập luận móc xích như Khổng Tử khi bàn về thuyết
chính danh hay lập luận theo lối phản đề như Hồi Thanh nói về bi kịch tâm hồn của các nhà
thơ mới…
Cũng cần lưu ý: nếu trong văn chương hư cấu thường có sự kết hợp của nhiều phương
thức biểu đạt (kể, tả, biểu cảm và kịch tính) thì trong văn chương nghị luận cũng thường có sự
kết hợp nhiều thao tác lập luận trong cùng một tác phẩm. Lập luận trong văn nghị luận cũng

sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật phong phú để thể hiện cảm hứng của chủ thể sáng tạo và
tạo nên tính hình tượng cùng sắc thái trữ tình của tác phẩm.
Tính hình tượng là yếu tố được coi là đặc trưng của văn chương thẩm mĩ. Tính hình
tượng trong văn nghị luận không thể hiện ở cấp độ chỉnh thể mà chỉ ở cấp độ chi tiết, bộ phận
phục vụ cho lập luận chứ không lấn át hệ thống lập luận lơgíc của tác phẩm. Tính hình tượng
của văn nghị luận thường thể hiện ở cấp độ ngôn từ, ở cách diễn đạt tu từ, ở cách vận dụng
thành ngữ, điển cố khéo léo…


Ví dụ: Trong bài tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Hồ Chủ Tịch ví lịng u nước
của nhân dân như của quý cất sẵn trong rương, trong hòm (Đó là truyền thống tiềm tàng, q
báu). Người cịn ví sức mạnh của lịng u nước như những làn sóng mãnh liệt trào dâng cuốn
phăng bè lũ cướp nước và bán nước. Rõ ràng sự so sánh ví von giàu hình ảnh như trên đã làm
cho cách diễn đạt sinh động, gợi cảm, gây được ấn tượng mạnh đối với người đọc, người
nghe.
Nguyễn Trãi trong Bình Ngơ đại cáo cũng đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh,
cường điệu để diễn tả sức mạnh của nghĩa quân: “Gươm mài đá, đá núi cũng mịn. Voi uống
nước, nước sơng phải cạn” và sự thảm bại nhanh chóng của kẻ thù “Cơn gió to qt sạch lá
khơ, tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”; Nghệ thuật lặp cú pháp trong Hịch tướng sĩ của Trần
Quốc Tuấn “Nay các người nhìn… mà khơng biết căm” có tác dụng giãi bày tâm sự đau xót
của tác giả.; khơi dậy liêm sỉ, lương tâm nhằm thức tỉnh tướng sĩ trước sự bàng quan về nỗi
nhục mất nước… Giọng văn nghị luận thường trang nghiêm. Song cũng có trường hợp người
viết sử dụng giọng mỉa mai bóng gió (Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc. Hay khi Trần Quốc
Tuấn nói về sứ giặc “Uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình. Đem thân dê chó mà bắt nạt tể
phụ” trong Hịch Tướng sĩ). Đây thường là chỗ người viết trực tiếp bày tỏ cảm xúc, thái độ của
mình như sự yêu ghét, khinh trọng, đồng tình hay phản đối…
Như vậy, trong văn nghị luận lý lẽ, hình ảnh, cảm xúc và giọng điệu thường hịa quyện
chặt chẽ đem lại sự thuyết phục cả về lý trí và tình cảm đối với người đọc, người nghe.
4. Phân tích vẻ đẹp ngơn từ của văn nghị luận.
Mỗi thể loại văn học có phong cách ngơn ngữ riêng phù hợp. Để phục vụ cho lập luận

chặt chẽ, lô gíc, văn nghị luận hay dùng loại câu khẳng định và phủ định với nội dung thường
là các phán đoán, nhận xét hay đánh giá. Loại câu có mệnh đề chính phụ thường được sử
dụng để tạo nên sự rõ ràng, mạch lạc, đanh thép, hùng hồn của lời văn.
Ví dụ: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta cịn phải tiếp tục chiến đấu
qt sạch nó đi” và “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ quyết không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nơ lệ” (Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh).
Do nhu cầu lập luận, văn nghị luận thường dùng hệ thống từ ngữ có tính lập luận như:
thật vậy, tuy thế, bởi lẽ, cho nên, vì vậy, khơng chỉ, mà cịn, giả sử, nếu như, hễ, thì, trước hết,
sau cùng, một mặt, mặt khác, nói chung, tóm lại, tuy nhiên, bên cạnh đó… Hoặc là những từ
ngữ có tính nhấn mạnh, khẳng định hay phủ định như: thà, chứ nhất định, quyết không, quyết
đem, sự thật là…Cần giúp học sinh phát hiện và phân tích được vai trị của những từ ngữ đó.
Chúng khơng chỉ có tác dụng liên kết văn bản mà còn thể hiện mối quan hệ nhân quả của các
luận điểm, luận cứ. Hoặc chúng làm cho lập luận thêm chặt chẽ, giọng điệu thêm mạnh mẽ,
dứt khốt.
Ví dụ: để khẳng định khát vọng hịa bình của chúng ta và vạch trần dã tâm xâm lược
của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta đã nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhuợng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm
cướp nước ta lần nữa” (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến).
Việc sử dụng linh hoạt hai loại từ ngữ có tính liên kết và có tính khẳng định hay phủ
định vừa tạo hiệu quả cao trong việc làm sáng tỏ luận điểm, vừa thể hiện được tư tưởng, cảm
xúc của nguời viết và đem lại tính truyền cảm cho tác phẩm.


Tóm lại: Sự hấp dẫn thẩm mỹ của một tác phẩm nghị luận là do những yếu tố khác
nhau tạo thành, trong đó luận điểm và cách lập luận là những yếu tố quan trọng và quyết định.
Dạy văn nghị luận giáo viên cần bám sát văn bản, nắm vững đặc trưng cơ bản của từng thể
loại. Ngoài ra những hiểu biết về tác giả, bối cảnh văn học, hoàn cảnh lịch sử - thời đại ra đời
tác phẩm là không thể thiếu để hiểu thấu đáo về tác phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên): Từ điển thuật ngữ Văn học

– NXB Đại học Quốc gia, H, 1999.
2. Nguyễn Văn Tản: Thuế máu một áng văn chính luận độc đáo – Văn học và Tuổi trẻ,
số 3 – 2005.
3. Đỗ Ngọc Thống: Vai trò của lập luận trong bài văn nghị luận – Văn học và Tuổi trẻ
- số 1 – 2005.
4. Đỗ Ngọc Thống: Vẻ đẹp của văn Nghị luận – Văn học và Tuổi trẻ số 4 – 2005.
5. Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 7, 8, 9.
6. Sách giáo khoa Ngữ Văn (thí điểm) lớp 10, 11, 12.



×