Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bài 6 kỹ NÃNG xử lý TÌNH HUỐNG CHÍNH TRỊ xã hội ở cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.49 KB, 19 trang )

Bài 6
KỸ NÃNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI Ở CƠ SỞ
1. NHŨNG VÂN ĐỀ CHUNG VỀ XUNG ĐỘT XÃ HỘI, TÌNH
HUỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ ĐIỂM NĨNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
1.1. Xung đột xã hội
1.1.1. Khái niệm xung đột xã hội
Xung đột là trạng thái bất ổn định gây ra bởi sự đối lập thực tế hoặc do
nhận thức về các nhu cầu, giá trị và lợi ích. Xung đột có thể từ bên trong
(ngay trong bản thân) hoặc từ bên ngoài (giữa hai hay nhiều cá nhân). Xung
đột là một khái niệm có thể giúp giải thích nhiều mặt của đời sống xã hội và
sự tan vỡ xã hội như bất đồng xã hội, các xung đột về lợi ích, và đấu tranh
giữa các cá nhân, nhóm hoặc tổ chức. Trong thuật ngữ chính trị, “xung đội"
có thể là các cuộc chiến tranh, cách mạng hay các cuộc đấu tranh khác liên
quan đến việc sử dụng bạo lực như trong từ “xung đột vũ trang”. Nếu khơng
có sự điều chỉnh hay giải pháp về xã hội thích hợp thì các xung đột xã hội có
thể dẫn đến tình trạng căng thẳng hoặc rối loạn trong đời sống xã hội.
Định nghĩa xung đột xã hội: Xung đột xã hội là những mâu thuẫn,
bất đồng, khác biệt về nhận thức, lợi ích, ý chí, quan điểm, v.v. dẫn đến những
va chạm, đấu tranh với các hình thức và mức độ khác nhau trong các quan hệ
xã hội nào đó.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của các xung đột xã hội
Xung đột xã hội là một tất yếu khách quan của quá trình vận động
và phát triển xã hội. Đó là một trong những trạng thái thường xuyên của cuộc
sống con ngưòi, tồn tại ở mọi cấp độ xung đột cá nhân - nhân cách; xung đột
thế hệ; xung đột giữa các nhóm, tổ chức, cộng đồng; xung đột sắc tộc - dân
tộc; xung đột giữa các nhà nước - quốc gia; xung đột giữa các nền văn hóa,
văn minh, v.v.. Một xã hội khơng có mâu thuẫn và xung đột là một xã hội


ngưng đọng và trì trệ, khơng có sức sống. Nhưng cuộc sống cũng cần sự ổn
định, do đó, ai cũng muốn có những người bạn đồng hành hịa bình và thân


thiện. Nhận thức đúng sự tồn tại và vai trò của mâu thuẫn, xung đột, có cách
ứng xử thích hợp, thì chắc chắn đó cũng là những tác nhân làm cho xã hội
lành mạnh, ổn định, gắn kết và phát triển. Do vậy, điều tiết xung đột và quản
lý các tình huống xung đột xã hội là vấn đề đã và đang được giới khoa học xã
hội rất quan tâm, đặc biệt là đối với các xung đột xã hội cụ thể.
1.1.3. Tính tích cực và tiêu cực của xung đột xã hội
Có thể nhận thấy rằng, bản thân xung đột, trong tính chất của
chúng, tạo ra những tác động tích cực, đặc biệt là sự cảnh báo xã hội một cách
nghiêm khắc, tạo áp lực cần thiết để giải quyết những vấn đề khơng thể trì
hỗn (bất bình đẳng, thiếu dân chủ, năng lực yếu kém của đội ngũ cán bộ,
v.v...), giúp sửa chữa những thiếu sót và khẳng định những thay đổi có tính
tiến bộ. Về mặt tâm lý, xung đột góp phần giải tỏa, khơng để tích tụ sự căng
thẳng thái q.
Nhìn nhận những tác động tích cực của xung đột khơng có nghĩa là
khuyến khích xung đột, mà ngược lại, cần phải tìm cách xử lý mâu thuẫn một
cách hợp lý bằng con đường phi xung đột. Làm được như vậy, một mặt, phát
huy được vai trò của xung đột, mặt khác, hạn chế được những hậu quả xấu mà
nó có thể mang lại.
Tuy nhiên, dù theo thuyết nào thì người ta cũng phải thừa nhận: về
khía cạnh xã hội học, hành vi của cá nhân, nhóm tham gia xung đột thường là
tập hợp những hành vi có khuynh hướng lệch chuẩn, vượt quá chuẩn mục
pháp luật và đạo đức, luôn chứa đựng nguy cơ đe dọa sự ổn định xã hội và an
ninh trật tự. Do đó xung đột nói chung nằm ngồi mong đợi của các nhà nước
- chủ thể ln tìm cách làm cho xã hội ổn định. Bên cạnh đó, xung đột xã hội
cũng có thể mang đến những hậu quả tiêu cực. Đó là khi xung đột xã hội
khơng được quản lý tốt, hoặc bị chi phối bở những hoạt động chủ quan trái
với quy luật phát triển khách quan tự nhiên, tạo ra những xung đột giả tạo.


Lúc đó, xung đột xã hội đe dọa sự liên kết xã hội, phá hủy kết cấu chính trị xã

hội hiện có, gây mất ổn định chính trị - xã hội, gây những thiệt hại về kinh tế,
vật chất và tư tưởng tinh thần. Mặt khác, chính bản thân xung đột cũng như
bất kỳ q trình nào khác, có những chi phí của nó, nếu phải hao phí nguồn
lực xã hội vơ ích, khơng tương xứng cho những xung đột và đương nhiên đi
kèm với nó là giải tỏa và quản lý xung đột thì xung đột sẽ mang lại hiệu quả
tiêu cực.
1.1.4. Các giai đoạn phát triển của xung đột xã hội
Giai đoạn ngầm: Nguyên nhân là do những mâu thuẫn về lợi ích,
những bất bình đẳng về địa vị kinh tế xã hội giữa hai nhóm xung đột tiềm
năng (trừu tượng hóa). Nhóm nào cũng muốn nâng cao địa vị và ưu thế của
mình. Trong lúc đó một nhóm ở trong tình trạng được thỏa mãn, được đáp
ứng, cịn nhóm kia thì ngược lại. Nhóm này bắt đầu cảm thấy mình khơng
được hưởng cái mà mình đáng được hưởng và có thể hưởng. Xuất hiện sự
khơng hài long với tình trạng này. Tâm trạng “khơng hài lịng” hướng vào
nhóm có ưu thế hơn hoặc hướng vào cơ chế phân bổ lợi ích của xã hội (chính
quyền hoặc các cơ cấu quyền lực khác, nếu xung đột có tính chính trị). Bắt
đầu có dấu hiệu xác định tình trạng thiệt thịi của họ có ngun nhân từ nhóm
ưu thế hơn hoặc cơ cấu quyền lực (chính quyền).
Giai đoạn cơng khai: Đó là khi giai đoạn “ngầm” khơng được giải
tỏa, mâu thuẫn giữa hai nhóm phát triển cao hơn, tình trạng bất bình đẳng
trầm trọng hơn. Hai bên cơng khai cuộc “đấu tranh” để giành lợi ích và địa vị
của mình. Xung đột đã vượt ra khỏi giai đoạn ngầm, các nhóm cơng khai thái
độ của mình về tình trạng xung đột. Quan hệ giữa hai nhóm khơng bình
thường, và cũng một mức độ như vậy với các cơ cấu quyền lực.
Giai đoạn căng thẳng: Là hậu quả của giai đoạn công khai không
được giải quyết tốt. Các bên đã xác định mục tiêu đấu tranh, hình thức,
phương pháp và phương tiện đấu tranh. Mở rộng, lôi kéo quần chúng vào


cuộc đấu tranh, hình thành các khối, các hình thức liên kết lực lượng, các

nguồn lực cho cuộc đấu tranh.
Giai đoạn đối đầu: Là giai đoạn cao của căng thẳng. Cuộc đấu
tranh, dẫn đến khủng hoảng (tình huống), xung đột lần lượt bao trùm mọi
thành viên các bên tham gia, có khả năng lan tỏa ra các khu vực xung quanh,
thậm chí trở thành vấn đề tồn quốc hoặc quốc tế. Giai đoạn này ở nước ta
thường được gọi là “điểm nóng xã hội” hoặc “điếm nóng chính trị - xã hội”.
Giai đoạn không tương dung: Là sự phát triển của giai đoạn đối
đầu. Đặc trưng của giai đoạn này là sử dụng sức mạnh và bạo lực, có thể là
bạo lực chính trị hoặc bạo lực vũ trang. Tính chất của giai đoạn này là “một
mất một còn”. Lúc đầu có thế chỉ lá những cuộc biểu dương lực lượng với
quy mơ hạn chế, sau tăng dần lên, có thể dẫn tới xung đột vũ trang, sử dụng
các phương tiện quân sự, cao hơn có thể xảy ra chiến tranh, v.v... Mục đích là
buộc đối phương thỏa mãn những yêu cầu của mình.
Các giai đoạn phát triển của xung đột mà chúng ta nghiên cứu tiến
triển từ thấp đến cao. Khái niệm xung đột có nội hàm rộng hơn điểm nóng.
Khơng phải bất kỳ xung đột nào cũng có thể gọi là điểm nóng, nhưng điểm
nóng chính là xung đột ở mức độ căng thẳng và nghiêm trọng của xung đột.
1.1.5. Vai trò của quản lý, giải tỏa xung đột trong đời sống chính trị
Cảnh báo xung đột, quản lý và giải tỏa xung đột là nhiệm vụ đương
nhiên của nhà cầm quyền. Bất kỳ một chính quyền hợp pháp nào cũng phải
chuẩn bị đối phó và giải quyết các xung đột xax hội nói chung, xung đột
chính trị nói riêng (kể cả xung đột quân sự và chiến tranh), v.v... Nếu chính
quyền khơng chuẩn bị được về nhận thức, tổ chức và phương tiện để làm điều
đó thì chính quyền sẽ sụp đổ.
Muốn giải tỏa xung đột có hiệu quả cần phải có cảnh bảo xung đột.
Để cảnh báo tốt các xung đột, trước hết phải có các điều kiện và
phương tiện để cảnh báo. Những điều kiện đó là:


- Xã hội phải đạt được một trình độ phát triển nhất định về kinh tế xã hội, về văn hóa chính trị, về lịng tin của nhân dân vào chính quyền và

pháp luật. Nói cách khác, xã hội phải đạt đến trình độ dân chủ và pháp quyền
nhất định.
- Đối với người cầm quyền: Phải trung thực, có lịng tin vào nhân
dân, khơng giấu diếm những khó khăn, khơng được hứa hão với nhân dân.
Đồng thời phái có nghệ thuật khéo léo để yên lòng dân bởi những hy vọng,
trong lúc chưa thỏa mãn được ngay những nhu cầu bức xúc của nhân dân, làm
cho dân tin vào khả năng của chính quyền và tin rằng tinh hình sẽ được cải
thiện tốt hơn.
- Phải có những phương tiện về tổ chức và kỹ thuật để đủ sức nắm
được đầy đủ thơng tin về tình hình thực trong tâm trạng của dân, những khó
khăn vướng mắc của họ, v.v...
Xung đột không xuất hiện ngay lập tức. Nguyên nhân dẫn đến xung
đột thường tích lũy dần và thường cũng có nhiều nguyên nhân, chúng chín
muồi dần, thậm chí diễn ra trong thời gian rất dài, qua nhiều giai đoạn. Vì vậy
cảnh báo xung đột cũng cần cảnh báo theo từng giai đoạn phát triên của xung
đột.
Như trên đã nói, xung đột phát triển qua 5 giai đoạn (theo cách phân
chia ở đây). Nhiệm vụ của cảnh báo là đưa ra quy mơ, tính chất, phương án
quản lý giải tỏa và hậu quả mà xung đột có thể mang lại. Quan trọng nhất của
cảnh báo xung đột là cảnh báo từ giai đoạn ngầm, tức là khi vừa hình thành
tâm trạng khơng hài lòng của các bên và giải tỏa tốt nhất cũng là giải tỏa từ
giai đoạn ngầm. Bởi bản chất của xung đột từ giai đoạn ngầm đến giai đoạn
không tương dung chỉ có một nhưng giải tỏa xung đột ngay từ khi nó mới
hình thành khơng gây ra những hậu quả tiêu cực cho xã hội. Tuy vậy, nhiều
chính quyền, thường khơng muốn hoặc khơng có khả năng giải tỏa xung đột
ngay từ giai đoạn này, phải chấp nhận trả giá đắt cho những xung đột xã hội.
Lý do chính của hiện tượng trên là do khơng được cảnh báo tốt, chính quyền


khơng thể thấy hết tính chất, quy mơ và hậu quả tiêu cực của xung đột, hoặc

do năng lực yếu kém của chính quyền.
1.2. Tình huống chính trị - xã hội
1.2.1. Khái niệm tình huống
Theo Từ điển Tiếng Việt, tình huống là: “toàn thể những sự việc xảy
ra tại một nơi, trong một thời gian, buộc người ta phải suy nghĩ, hành động,
đối phó, chịu đựng”[1].
Như vậy, có thể hiểu, những sự kiện, những biến cố diễn ra khơng
bình thường, gay cấn, phức tạp, đòi hỏi con người phải nhận thức và xử lý
bằng những giải pháp đặc biệt.
1.2.2. Các loại tình huống
- Xung đột xã hội ở mức cơng khai, căng thẳng.
- Điểm nóng xã hội.
- Điểm nóng chính trị-xã hội.
1.2.3. Khái niệm tình huống chính trị-xã hội
- Là những tình huống diễn ra trong đời sống chính trị - xã hội, là
những sự kiện, biến cố khơng bình thường, có thể gây nên sự bất ổn định hoặc
có khả năng trực tiếp gây nên sự bất ốn định chính trị - xã hội. Vì vậy, nó địi
hỏi con người phải áp dụng những giải pháp đặc biệt để giải quyết.
- Những dấu hiệu cơ bản của tình huống chính trị - xã hội:
+ Sự bất mãn, chống đối của một bộ phận nhân dân với một số đại
diện chính quyền nhà nước.
+ Sự xung đột giữa các phe cánh trong lực lượng cầm quyền.
+ Bộ máy chính quyền bất lực, tê liệt hoặc có khoảng trống quyền
lực.
+ Những chuẩn mực luật pháp, đạo đức, văn hóa có thể không được
tuân thủ.
+ Khủng hoảng về tư tưởng, niềm tin gây tổn hại đến ý thức hệ chủ
đạo của xã hội.



+ Các lực lượng tiêu cực, phản động có điều kiện trỗi dậy gây mất
trật tự an ninh xã hội, làm tăng nguy cơ đối với sự bền vững của chế độ xã
hội.
Một tình huống chính trị - xã hội xuất hiện khơng nhất thiết phải có
đầy đủ các dấu hiệu trên mà có thể chỉ cần một vài dấu hiệu nào đó, gây nên
bất ổn định chính trị - xã hội.
1.2.4. Ngun nhân của tình huống chính trị - xã hội
Sự xuất hiện các tình huống chính trị - xã hội có những nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan từ sự vận dộng, biến đổi
của kinh tế, chính trị, xã hội nằm ngồi ý thức của chủ thể cầm quyền. Những
nguyên nhân chủ quan là do sai lầm, yếu kém của chủ thể cầm quyền. Ngồi
ra cịn có những ngun nhân khác từ đời sống chính trị quốc tế, từ sự gây rối,
phá hoại của các lực lượng chống đối, từ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tư
tưởng, v.v...
1.2.5. Yêu cầu xử lý tình huống chính trị - xã hội
Xử lý tình huống chính trị - xã hội là một yêu cầu thường xuyên của
người lãnh đạo, quản lý, là một trong những nội dung quan trọng của nghệ
thuật chính trị và hoạt động chính trị thực tiễn. Để xử lý hiệu quả các tình
huống chính trị - xã hội, chủ thể xử lý cần nắm vững phương pháp tiếp cận,
nhiệm vụ, nguyên tắc và quy trình xử lý các tình huống chính trị - xà hội, có
khả năng và kỹ năng chủ động phát hiện các tình huống chính trị, ngăn ngừa
và hạn chế tác hại của nó trong thực tiễn.
1.3. Điểm nóng chính trị - xã hội
1.3.1. Khái niệm
Điểm nóng chính trị-xã hội là xung đột xã hội ở mức cao, ở mức
căng thẳng, đối đầu hoặc không tương dung. Là hiện tượng xã hội không binh
thường, căng thẳng, mất ổn định, rối loạn. Trong đó diễn ra sự xung đột,
chống đối giữa các lực lượng. Chủ thể tham gia trong điểm nóng chính trị-xã



hội có thế là cơ quan quyền lực nhà nước hoặc các lực lượng chính trị khác
nhau.
1.3.2. Tính chất của các điểm nóng chính trị - xã hội
So với các xung đột xã hội, các tình huống chính trị - xã hội thơng
thường khác, điểm nóng chính trị - xã hội có một số tính chất sau:
- Hành vi của những người tham gia xung đột đã vượt ra ngoài, hoặc
có khả năng vượt ra ngồi khn khổ pháp luật và chuẩn mực đạo đức.
- Sự chống đối của đám đơng quần chúng hoặc các lực lượng chính
trị đã hướng trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước, đe dọa cơ cấu quyền
lực hiện tồn.
- Diễn ra tại một địa điếm nhưng có khả năng ảnh hưởng và lan tỏa
sang nơi khác.
- Đặt chủ thể lãnh đạo quản lý khơng thể trì hỗn, phải xử lý như
một tình huống chính trị - xã hội.
- Điểm nóng chính trị - xã hội thường nổ ra trong những bối cảnh
kinh tế - xã hội đặc thù:
+ Khủng hoảng kinh tế - xã hội.
+ Có sự chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ, các nhóm lãnh đạo,
cầm quyền.
+ Thay đổi chế độ xã hội.
+ Nạn tham nhũng trầm trọng.
+ Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, quy mô phát triển lớn
vượt ra tầm kiểm soát của các lực lượng lãnh đạo, quản lý, các lực lượng
chính trị-xã hội (phát triển nóng).
2. XỬ LÝ ĐIẾM NĨNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VỚI TÍNH CÁCH
MỘT LOẠI TÌNH HUỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở CƠ SỞ
2.1. Vài nét về điểm nóng chính trị - xã hội ở nước ta
Một số điểm nóng điển hình



- Ở vùng đồng bằng sông Hồng:
Trước năm 1997 đã có một số điêm nóng xảy ra ở một số địa
phương và đã được xử lý. Từ năm 1997 trở lại đây, ở nông thôn đồng bằng
sông Hồng một số điềm nóng nóng trở lại, xuất hiện nhiều điểm nóng mới,
nhiều điểm nóng cịn tiềm ẩn. Cho đến nay, 100% các tỉnh vùng đồng bằng
sơng Hồng đã có điểm nóng xảy ra. Có những điểm nóng chính trị - xã hội
điền hình như Thái Bình; Mỹ Lộc, Xuân Trường, Giao Thủy (Nam Định);
Song Phương - Hoài Đức, Hạ Vĩ - Thường Tín (Hà Nội); Đồ Sơn (2000), Tiên
Lãng (Hải Phịng), Văn Giang (Hưng Yên), v.v..
- Khu vực miền núi phía Bắc:
Ở vùng Đông Bắc các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn là những địa
phương có nhiều điểm nóng liên quan đến quy hoạch giải phóng mặt bằng
làm đường quốc lộ và buôn lậu qua biên giới.
Ở vùng Tây Bắc, xuất hiện các điểm nóng liên quan đến truyền đạo
trái phép, đến tư tưởng ly khai với cái gọi là “Vàng Chứ”.
- Ở miền Trung - Tây Nguyên:
Ở miền Trung cũng đã xuất hiện một số điểm nóng chính trị xã hội,
như vụ Phật giáo ở Huế (25-5-1993), vụ Nguyễn Văn Lý (Huế) 2001. Theo
thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1990 đến năm 2000, ở Bình Thuận đã xảy ra
hơn 12.000 vụ tranh chấp, khiếu kiện trong nhân dân, tính trung bình 1.200
vụ/năm. Cần chú ý là các vụ khiếu kiện có chiều hướng tăng. Trong nhiều vụ
có cả đảng viên, cán bộ tham gia.
Đáng chú ý là điểm nóng Tây Nguyên tháng 2-2001 và tháng 42004. Sau vụ tháng 2-2001, chúng ta đã có nhiều biện pháp để khắc phục hậu
quả nhằm ổn định bền vững tình hình. Nhưng tháng 4-2004, lại nổ ra vụ bạo
loạn chính trị lần thứ hai ở Tây Nguyên.
- Ở Nam Bộ:
Cũng xuất hiện nhiều điểm nóng. Ở Đồng Nai có điểm nóng tơn
giáo, ở Thành phố Hồ Chí Minh có điểm nóng vỡ hụi, biểu tình của sinh viên.



Ở cần Thơ, Bến Tre, Kiên Giang (đảo Phú Quốc) xuất hiện nhiều điểm nóng
liên quan đến tranh chấp, mua bán trái phép đất đai. Ở Tây Nam Bộ xuất hiện
các điểm nóng “địi đất” của đồng bào Khơme. Những năm gần đây, xuất hiện
nhiều điểm nóng liên quan đến xung đột lao động ở-các khu cơng nghiệp
(Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, v.v.). Các điểm nóng về
môi trường ở khu vực này cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
- Ở Biển Đông:
Cần lưu ý đến một số điểm nóng liên quan đến chủ quyền biển đảo.
Tuy chưa có nghiên cứu sâu, nhưng những vấn đề “nóng” trên Biển Đông
cũng liên quan đến chuyên đề này.
2.2. Một số nhận xét khái quát
- Số lượng, quy mô, mục tiêu, thành phần tham gia.
Điểm nóng chính trị - xã hội, từ một vài hiện tượng đặc biệt, đến
nay đã trở thành những hiện tượng khá rộng rãi với các quy mơ khác nhau:
xã, liên xã, tồn huyện, tồn tỉnh. Sự phân bố rất phức tạp, ở khắp các địa
phương, nhiều nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng, nghiêm trọng nhất là khu
vực Tây Nguyên. Chúng có thể no ra ở xã anh hùng, xã yếu kém, thường nổ
ra ở những xã có những bước phát triển đáng kể về kinh tế, có những phong
trào điện, đường, trường, trạm, những nơi có quy hoạch giải phóng mặt bằng
xây dựng khu cơng nghiệp, khu đơ thị, v.v..
- Tính phức tạp ngày càng tăng.
Từ những khiếu kiện đơn thuần có tính kinh tế như: thất thoát trong
xây dựng điện, đường, trường, trạm, v.v...; tham ơ cơng quỹ, lái chính khơng
rõ ràng; quản lý đất đai, v.v. tức là những vấn đề thuần túy nông nghiệp, nông
dân và nông thôn, dần dần chuyển sang những vấn đề liên quan đến đền bù
giải phóng mặt bằng, quy hoạch và phát triển đô thị, xây dựng các khu công
nghiệp, vỡ hụi, ô nhiễm môi trường, v.v. tức là những vấn đề của cơng nghiệp
hóa và đơ thị hóa; cho đến những vấn đề liên quan đến tơn giáo, tín ngưỡng,



phục thù chính trị, vấn đề dân tộc, vấn đề biên giới, chủ quyền và an ninh
quốc gia, v.v..
- Mục tiêu, nội dung các yêu sách của quần chúng ngày càng phức
tạp..
+ Chống quan liêu tham nhũng, chống những việc làm sai trái của
cán bộ, chính quyền cơ sở, địi hỏi công bằng, dân chủ.
+ Về kinh tế: vấn đề đất đai, tài chính, đóng góp q sức của dân,
tham ô công quỹ, v.v..
+ Về xã hội: Đòi công bằng, bảo vệ mơi trường.
+ Chính trị: Chống đối chính quyền, phản đối, lên án một số cán bộ
chính quyền, yêu sách thay đổi chính sách, thay đổi cán bộ, v.v... Biểu hiện cụ
thể trong các điểm nóng là: chống người thi hành công vụ, đập phá công sở,
tài sản của cá nhân tập thể, hành hung, làm nhục cán bộ chính quyền, v.v..
+ Có động cơ chính trị rõ rệt, làm suy yếu chính quyền đặc biệt là
chính quyền cơ sở: “Đánh cho mất xóm, tan xã, rã huyện, lung lay tỉnh, lỉnh
kỉnh Trung ương” ở Nam Định; đòi ly khai thành lập nước “Đềga độc lập” ở
Tây Nguyên.
+ Có động cơ cá nhân, cục bộ không lành mạnh: Quấy rối, trà thù vì
lợi ích cá nhân, quyền lợi phe nhóm, dịng họ, v.v..
+ Có một bộ phận khá lớn quần chúng khơng có động cơ, mục tiêu
cụ thể, bị lợi dụng, xúi giục, lơi kéo chống chính quyền.
- Thành phần tham gia đấu tranh không thuần nhất.
Đa số là nơng dân, ngồi ra cịn có cơng nhân, có đảng viên cán bộ
tốt, có đảng viên cán bộ bất mãn, có cán bộ về hưu, thương binh, có tín đồ,
chức sắc tôn giáo, đồng bào dân tộc.
- Diễn biến kéo dài, khó giải quyết triệt để.
Có những điểm nóng đã được giải tỏa từ những năm 90 của thế kỷ
XX, tuy nhiên những vấn đề của chúng vần còn đang đặt ra và xử lý cho đến
hôm nay.



- Bản chất của các điểm nóng chính trị xã - hội ở nước ta.
Trừ một số vụ phức tạp có tính chất chính trị rõ rệt (như vụ bạo loạn
ở Tây Ngun, v.v.) đa số các điếm nóng chính trị - xă hội khơng có mâu
thuẫn đối kháng, là mâu thuẫn trong nội bộ, chậm được giải quyết mà thành.
Về cơ bản, phản ánh những bất cập trong một số chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, sự sa sút phẩm chất và năng lực của đội ngũ đảng viên
cơ sở, hiệu quả hiệu lực chưa tương xứng của chính quyền cơ sở.
Phản ánh yêu cầu của nhân dân về công bằng và dân chủ.
+ Một số nguyên nhân.
+ Nguyên nhân khách quan.
Nước ta là một nước nông nghiệp, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến hành cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước, trong điều kiện tồn cầu hóa kmh tế và hội nhập, v.v.. Trong lúc đó,
nguồn lực cịn hạn hẹp, kinh nghiệm lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội còn
thiếu lại còn phải giải quyết những hậu quả nặng nề của chiến tranh, ảnh
hưởng dai dẳng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thiên tai địch họa (bao
vây cấm vận, phá hoại, v.v.) đặt ra nhiều thách thức cùng một lúc, chắc chắn
sẽ nảy sinh nhiều vấn đề.
Đây là mâu thuẫn giữa trình độ phát triển, thực lực phát triển và yêu
cầu phát triển của nước ta hiện nay. Có thể nói đây là mâu thuẫn cơ bản và là
nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh những điểm nóng chính tri - xã hội ở nước
ta thời gian qua.
+ Nguyên nhân chủ quan.
Sự yếu kém trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói
chung, của Nhà nước nói riêng trong q trình huy động và phân bổ nguồn
lực cho sự phát triển xã hội. Như Đảng ta đã đánh giá: Sự lãnh đạo của Đảng
chưa ngang tầm với địi hỏi của tình hình phát triển đất nước, bộ máy nhà
nước kém hiệu lực, hiệu quả, cồng kềnh.



Một bộ phận cán bộ thiếu năng lực, thối hóa biến chất. Vi phạm
dân chủ ở nhiều nơi, chưa phát huy được đầy đủ nội lực cho phát triển đất
nước.
Đây cũng là những nguyên nhân bên trong, nguyên nhân sâu xa của
các điểm nóng chính trị-xã hội ở nước ta. Cũng có thể tìm thấy những ngun
nhân trực tiếp, đó là sự yếu kém của chính quyền cơ sở và sự bất bình của
quần chúng nhân dân.
+ Nguyên nhân trực tiếp.
Thứ nhất, nhóm ngun nhân từ phía quần chúng. Đó là tâm trạng
bức xúc, dồn nén của người nông dân, khi thấy lợi ích ngày càng giảm, vị thế
ngày càng thấp, các đóng góp và nghĩa vụ ngày càng nhiều. Đó là nhận thức
của người nơng dân cịn yếu kém, nhiều hạn chế, văn hóa chính trị chưa cao,
khơng tìm ra được những hình thức phù hợp đề thực hiện các quyền dân chủ
của mình. Trong khi đó, một số phần từ bất mãn, tiêu cực, chống đối, ly khai,
v.v. lợi dụng tâm trạng bất bình của nhân dân kích động để mưu cầu những lợi
ích riêng.
Thứ hai, nhóm ngun nhân từ phía cán bộ chính quyền địa
phương. Đó là trình độ chun mơn và năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
cấp xã chưa đáp ứng được yêu cầu. Là sự sa sút vồ tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ cấp xã. Qua nghiên cứu ở các địa
phương, có thể thấy rằng, ở nhiều xã, chủ tịch, bí thư, chủ nhiệm, kế tốn
trưởng, cán bộ địa chính, trưởng thơn đều có nhũng sai phạm về quan liêu,
tham nhũng với những mức độ khác nhau. Nhiều nơi do ý thức chính trị yếu
kém, tính cục bộ bản vị, v.v. chi phối đã gây mất đồn kết trong nội bộ đảng
và chính quyền cơ sở. Ở một số nơi mất cảnh giác với âm mưu kẻ địch (Tây
Nguyên). Trong khi đó, suốt một thời gian dài, chúng ta đã buông lỏng và vi
phạm cơng tác quản lý kinh tế - tài chính, nhất là trên các lĩnh vực đất đai, tài
chính, ngân sách, xây dựng cơ bản. Đã vậy, chế độ đãi ngộ cho cán bộ cấp xã
chưa hợp lý. Trước đây khi chưa có lương, phụ cấp cho cán bộ cấp xã chưa



đảm bảo cho họ hết lịng với cơng việc. Hiện nay, trả lương cho “công chức
cấp xã” cũng đặt ra nhiều vấn đề. Thứ nhất, làm cho chính quyền cơ sở mất
tính tự quản. Thứ hai, cán bộ chính quyền ở sở dù được hưởng lương vẫn lao
động ở nhà, vẫn được phân đất làm ruộng như những người nông dân khác.
Vì vậy, thu nhập của họ quá cao so với nơng dân.
Thứ ba, nhóm ngun nhân từ cơ chế chính sách. Việc chuyển đổi
cơ chế chính sách khơng đồng bộ. Một số chính sách về nơng nghiệp, nơng
thơn đã bất cập nhưng chậm thay đổi. Chính sách, pháp luật đất đai thiếu cụ
thể, nhiều bất cập đã gây tình trạng cấp đất, mua bán, chuyển nhượng, tranh
chấp đất đai trái phép, thậm chí trưởng thơn cũng tự ý cấp, bán đất. Chuyển
đổi mơ hình hợp tác xã chưa triệt để, dây dưa. Chính sách xây dựng phát triển
nơng thơn thiếu rõ ràng, dừng lại ở các phương châm chỉ đạo, mà thiếu quy
phạm quản lý: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “lấy đất ni cơng trình”,
“thu lấy mà chi”, v.v... Việc đền bù giải phóng mặt bằng khơng thống nhất,
không nhất quán, không thực tế.
Cơ chế xin - cho “chạy dự án” làm nảy sinh nhiều vấn đề lieu cực.
Đã vậy, quy định về khiếu nại tố cáo chưa khoa học, đồng nhất và đồng bộ.
Cơ chế giải quyết khiếu kiện không dứt điểm dẫn đến khiếu kiện vượt cấp.
Chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc cịn nặng tính chủ quan, áp đặt
thiếu thực tế, khơng hiệu quả.
Thứ tư, nhóm ngun nhân bên ngồi. Đây là những nguyên nhân
không thể bỏ qua. Nhiều thế lực bên ngồi thực hiện các chính sách: bao vây,
kiềm chế, phá hoại, v.v. Đặc biệt một số thế lực lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, nhân quyền để mua chuộc, dụ dỗ ly khai, gây chia rẽ giữa các dân tộc,
phá hoại sự thống nhất đất nước, đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc
gia. Những âm mưu này trực tiếp, hay gián tiếp tác động đến tinh thần của
nhân dân trong các điếm nóng chính trị-xã hội, đặc biệt là các điểm nóng liên
quan đến các vẩn đề dân tộc, tôn giáo thời gian qua.



Cần chú ý rằng, sự phân định nguyên nhân có ý nghĩa tương đối, vì
có thể nhiều ngun nhân dẫn tới một điểm nóng, cũng có thể nhiều điểm
nóng xuất phát từ một nguyên nhân. Vì vậy, cần phải xem xét cụ thể, những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của điếm nóng chính tri - xã hội, để xác định đúng
các nguyên nhân và từ đó có thể đề ra các giải pháp xử lý thích hợp.
3. QUY TRÌNH XỬ LÝ ĐIỂM NĨNG XÃ HỘI, ĐIỂM NĨNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VỚI TÍNH CÁCH MỘT LOẠI HÌNH TÌNH HUỐNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở CƠ SỞ
3.1. Bước một: Nắm tình hình, phân tích ngun nhân, mâu thuẫn, nhận
dạng điểm nóng
Đây là bước có ý nghĩa quyết định, vì nó cung cấp những căn cứ cho
những giải pháp đúng trong quá trình xử lý. Những thơng tin cần phải có là:
- Tính chất, quy mơ, hình thức đấu tranh, u sách của quần chúng.
- Lực lượng tổ chức, cầm đầu.
- Ai, cấp nào có trách nhiệm giải quyết.
3.2. Bước hai: “Rút ngòi nổ”, hạn chế ănh hưởng xấu và sự lan tỏa
sang nơi khác
Để thực hiện bước này, trước hết phải thiết lập được sự lãnh đạo, chỉ
huy thống nhất, có hiệu lực của hệ thống chính trị để giữ vững quyền lực
chính trị trong q trình xử lý. Đây là vấn đề có linh ngun tắc. Trong q
trình xử lý điểm nóng, khơng bao giờ trao quyền cho một lực lượng khác. Lúc
này cần phải có người chỉ huy, người đứng đầu có uy tín, bản lĩnh, có phương
pháp đúng và có khả năng sử dụng được các lực lượng của hệ thống chính trị.
thơng thường, nên cử đồng chí đứng đầu cơ quan lãnh đạo đảng các cấp, ít ra
phải là thường trực, thường vụ.
Tiếp theo là lựa chọn phương thức giải quyết, những lực lượng và
phương tiện phù hợp. Cần trả lời các câu hỏi: Giáo dục thuyết phục hay trấn
áp? Dùng các cơ quan bạo lực (quân đội, công an) hay lực lượng quần chúng?



Sử dụng các phương tiên thông tin đại chúng, các phương tiện thông tin liên
lạc như thế nào? cần lưu ý hi không để các phương tiện truyền thông và thông
tin liên lạc lọt vào lực lượng chống đối.
Để giải tán đám đông quần chúng, phải xem xét: Nếu yêu sách quần
chúng đúng, cần cam kết thực hiện yêu sách. Đồng thời, tranh thủ lơi kéo,
phân hóa răn đe, cơ lập người cầm đầu. Trong trường hợp thật cần thiết, phải
dùng bộ máy công an và quân đội để giải tán đám đông.
Đối sách với người cầm đầu: cần thương lượng và sử dụng nghệ
thuật thương lượng. Vạch mặt, cô lập nếu người cầm đầu là kẻ xấu. Trong
trường hợp cần thiết có thể bắt kẻ cầm đầu, nhưng bắt phải họp pháp, hợp lý,
để tình hình khơng trầm trọng thêm. Trong quá trình này, cần chú ý một số
nguyên tắc:
- Kiên định nguyên tắc, mềm dẻo linh hoạt về phương pháp, biện
pháp (dĩ bất biến ứng vạn biến).
- Cần chọn các giải pháp tốt nhất, sau mới đến các giải pháp ít tốt
hơn (thượng sách, trung sách, hạ sách). Những giải pháp tốt hơn là những giải
pháp ít phải sử dụng bạo lực.
- Nếu là điểm nóng do mâu thuần địch - ta (thù địch) thì kịch bản
duy nhất là ta thắng, địch thua. Nếu là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì
chọn kịch bản “thắng - thắng” tức là chính quyền cũng thắng mà dân cũng
thắng, mỗi bên đều đạt được những mục tiêu cơ bản trên tinh thần xây dựng.
- Phải tuân thủ nguyên tắc hợp pháp, hợp lý, hợp tình.
- Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải dựa vào sự lãnh đạo của
Đảng, phải tin dân và phải dựa vào dân.
3.3. Bước ba: Khắc phục hậu quả sau khỉ điểm nóng đã được dập tắt
Trước hết, phải đưa xã hội nơi xảy ra điểm nóng trở lại hoạỉ động
bình thường: hệ thống chính trị, cơ sở sản xuất kinh doanh, bệnh viện, trường
học, các dịch vụ cơng cộng, các cơng trình phúc lợi xã hội, v.v.. Thứ hai, là

tập trung sự lãnh đạo của cấp ủy Đảny, và sự quản lý của chính quyền cơ sở


khắc phục những thiệt hại vồ người và của (nếu có). Thứ ba, xác định trách
nhiệm của các bên gây ra điểm nóng. Khi đã xác định được trách nhiệm của
các bên thì tiến hành xử lý vi phạm từ tất cả các phía; củng cố, thay thế, bổ
sung, sàng lọc đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị.
3.4. Bước bốn: Rút kinh nghiệm, dụ báo tình hình, áp dụng những biện
pháp để điểm nóng khơng tái phát
Khi tiến hành rút kinh nghiệm, cần đánh giá lại đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, qua điểm nóng bộc lộ rõ ai là người thế nào. Đánh giá lại hệ thống tổ
chức quyền lực (bộc lộ những mạnh yếu qua điểm nóng). Đánh giá phương
thức lãnh đạo, chi đạo. Đánh giá những thiếu sót bất cập trong chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cần khách quan đánh giá lại cơ sở
chính trị-xã hội của Đảng trong quần chúng: 1) Ai là lực lượng thật sự chống
quan liêu, tham nhũng; 2) Ai là lực lượng bị kích động, lơi kéo chống chính
quyền. Đồng thời với tổng kết, rút kinh nghiệm xử lý điểm nóng, thực hiện dự
báo tình hình và áp dụng các biện pháp để điểm nóng khơng tái phát. Để cơng
tác dự báo có kết quả, cần dự báo theo những thông số thu thập được về các
mặt kinh tế - xã hội; theo những kịch bản nhất định, kể cả những kịch bản xấu
nhất. Cũng cần dự báo cả phương thức xử lý nếu điểm nóng tái phát.
Xung đột xã hội là hiện tượng vẫn tồn tại cùng với quá trình vận
động và phát triển của xã hội. Giải quyết, giải tỏa và quản lý tốt xung đột xã
hội theo xu hướng phát triển khách quan thì xung đột xã hội khơng sinh ra
những tình huống chính trị - xã hội hoặc diểm nóng chính trị - xã hội.
Mặc dù vậy, các tình huống chính trị - xã hội và điểm nóng chính
trị-xã hội, dù khơng mong muốn vần sẽ là một hiện tượng tồn tại trong đời
sống xã hội và đời sống chính trị, đặc biệt là khi xà hội còn phân chia giai
cấp, còn những khác biệt về lợi ích, cịn bất bình đẳng trong q trình hiện
thực hóa các lại ích, trong thụ hưởng những thành quả phát triển chung và

những phúc lợi xã hội. Điểm nóng chính trị - xã hội cịn là một hiện tượng


gắn liền với những chuyến biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, khi
mà sự phát triển vượt ra ngồi tầm kiểm sốt của Nhà nước và xã hội v.v.
Tính chất, quy mơ, hình thức biểu hiện, phương thức xử lý của các
xung đột xã hội, cũng như các tình huống chính trị-xã hội, các điểm nóng
chính trị-xã hội rất đa dạng mn hình, mn vẻ. Kinh nghiệm cho thấy, khi
điểm nóng chính trị - xã hội nổ ra, người lãnh đạo biết phát huy vai trò lãnh
đạo của tổ chức đảng, của các đoàn thể nhân dân, biết tin dân và dựa vào dân,
có kỹ năng xử lý tốt thì khơng những điểm nóng sớm giải tỏa, sớm ổn định
tình hình, mà cịn tránh được hậu quả nặng nề kéo dài về sau.

Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích các bước trong quy trình xử lý điểm nóng chính trị - xã
hội. Theo đồng chí trong quy trình đó, bước nào là quan trọng nhất?
2. Phân tích những phương thức cảnh báo và giải tỏa xung đột xã
hội?
3. Vai trò của dự báo và kịch bản dự báo điểm nóng chính trị - xã
hội?

Tài liệu tham khảo
1. Viện Chính trị học và FES: Các kỹ năng lãnh đạo quản lý, Nxb.
Chính trị - Hành chính, H.2013.
2. Hồng Chí Bảo và GS, TS Lưu Văn Sùng (Chủ biên): Tập bài
giảng xử lý tình huống chính trị, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002.
3. Phan Xuân Sơn: Xung đột xã hội, Tạp chí Thơng tin khoa học
chính trị - hành chính, số 12-2012.



4. Phan Xuân Sơn: Nghiên cứu xung đột trong khoa học Xã hội,
Tạp chí Thơng tin khoa học chính trị - hành chính, số 3-2013



×