Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

HOÀN THIỆN TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢNPHẨM TẠI XÍ NGHIỆP CƠ KHÍ 79

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.06 KB, 40 trang )

HOÀN THIỆN TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢNPHẨM TẠI XÍ NGHIỆP CƠ KHÍ 79
3.1. Nhận xét đánh giá công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại Xí nghiệp cơ khí 79
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, tổ chức công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm là công việc thường xuyên và rất quan trọng.
Nắm bắt tốt công tác này sẽ giúp cho doanh nghiệp theo sát, phân tích, đánh giá
được kế hoạch chi phí , giá thành cũng như tình hình thực hiện các định mức chi
phí và dự toán chi phí , tình hình sử dụng tài sản, vật tư lao động tiền vốn …Từ
đó mà doanh nghiệp có thể khai thác huy động mọi khả năng để mở rộng sản
xuất và nâng cao năng suất lao động , hạ giá thành sản phẩm. Với ý nghĩa như
trên, việc hoàn thiện công tác kế toán luôn được các doanh nghiệp quan tâm
nghiên cứu trong quá trình nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
3.1.1. Những ưu điểm cơ bản
Cùng với xu hướng thay đổi của nền kinh tế, những năm gần đây hoạt
dộng của Xí nghiệp đã có những chuyển biến tích cực. Điều này được thể hiện rõ
qua việc sắp xếp lại bộ máy quản lý, lực lượng lao động ở mọi bộ phận và
những nỗ lực của đội ngũ công nhân viên toàn nhà máy để khắc phục khó khăn,
vươn lên tự khẳng định mình. Trong quá trình ấy, hệ thống kế toán tài chính
không ngừng được đổi mới hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức và phương pháp kế
toán, điều này thể hiện rõ qua những ưu điểm sau:
Thứ nhất, là sự hoạt động đã và đang có hiệu quả của bộ máy kế toán đảm
bảo chức năng xử lý, cung cấp, kịp thời các thông tin cần thiết cho ban giám đốc
và các bộ phận liên quan. Thành công này trước hết là do nỗ lực của đội ngũ cán
bộ phòng kế toán với bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và trình độ nghiệp vụ cao.
Chỉ với năm người đảm nhận một khối lượng công việc rất lớn: từ ghi chép sổ
sách, lập báo cáo, kiểm kê sản phẩm hàng hoá đến việc giao dịch với khách
hàng, cấp trên…
Cơ cấu bộ máy kế toán được tổ chức một cách hợp lý, có sự phân công
phân nhiệm chuyên môn hoá cao các phần hành tạo điều kiện cho các kế toán
viên nâng cao trình độ nghiệp vụ và trách nhiệm trong công việc và có thể giám


sát lẫn nhau từ đó nâng cao hiệu quả chung. Thêm vào đó vơí bộ máy kế toán
gọn nhẹ, thích ứng nhanh với những thay đổi là cơ sở để hoàn thiện hơn nữa
công tác kế toán tại Xí nghiệp.
Thứ hai, trong điều kiện thực tế của công tác kế toán hiện nay, việc áp
dụng hình thưc Nhật Ký Chứng Từ là rất phù hợp để phản ánh hoạt động sản
xuất kinh doanh. Với đặc điểm đa dạng, phức tạp, với yêu cầu cao của việc quản
lý sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn và việc thực hiện kế toán thủ công thì các
bảng kê, nhật ký chứng từ, các bảng phân bổ là thích hợp nhất để theo dõi và
cung cấp số liệu về tình hình tài sản và sự vận động của tài sản.
Hơn nữa, phòng kế toán đã sử dụng khá đầy đủ hệ thống chứng từ sổ sách
theo đúng qui định của Bộ Tài Chính .Công tác hạch toán ban đầu được theo dõi
một cách chặt chẽ đảm bảo tính chính xác của số liệu. Quá trình luân chuyển
chứng từ, sổ sách giữa phòng kế toán với thống kê các phân xưởng và thủ kho
được tổ chức nhịp nhàng, quy củ tạo điều kiện thuận lợi cho kế toán thực hiện
chức năng giám sát, đặc biệt là cho việc hạch toán chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm.
Thứ ba, việc sử dụng Bảng kế hoạch giá thành và giá bán sản phẩm giúp
cho công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được tiến hành
thuận lợi, giúp cho việc theo dõi tình hình kế hoạch giá thành tại xí nghiệp từ đó
đề ra biện pháp, phương hướng nhằm phát hiện khả năng tiềm tàng và đặc biệt là
đề xuất những giải pháp để không ngừng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản
phẩm. Bảng này được xây dựng dựa trên cơ sở số liệu thực tế phát sinh qua các
năm và đã tính đến những biến động có thể có trong kì, do vậy đạt được độ
chính xác cao. Nó là căn cứ để xuất vật tư từ các kho chính cho các phân xưởng
sản xuất, tính lương sản phẩm và đưa ra những quyết định về giá bán sản phẩm
khi ký hợp đồng với khách hàng.
Thứ tư, với kì tính giá thành theo từng tháng, những thông tin cần thiết
được cung cấp kịp thời. Chính những thông tin này là cơ sở của Bảng kế hoạch
giá thành và giá bán sản phẩm đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho Xí nghiệp có
khả năng thích ứng nhanh với những biến động trên thị trường mà có những

quyết định nhanh chóng hợp lý, phát huy lợi thế lớn của đơn vị trong quá trình
kinh doanh. Hơn nữa, việc phân tích giá thành thực tế hàng tháng cho phép tìm
ra những nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp dẫn đến sự biến động của giá thành.
Và cũng thông qua đó mà nhà nhà quản lý đưa ra những biện pháp thích hợp để
giải quyết nhằm tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành .
Thứ năm, các hình thức trả lương của đơn vị đảm bảo tính công bằng, hợp
lý và khuyến khích tăng năng suất lao động và hiệu quả công việc. Điều này thể
hiện ở hình thức trả lương theo sản phẩm, các định mức tiền lương được xây
dựng chi tiết tỉ mỉ giúp cho việc tính lương dễ dàng, chính xác và đặc biệt việc
tính lương sản phẩm này cũng chỉ áp dụng đối với sản phẩm đúng qui cách, chất
lượng kiểm nghiệm nhập kho, do đó đã tạo cho người lao động ý thức được tầm
quan trọng của chất lượng công việc, giảm thiểu các chi phí cho sản phẩm hỏng.
Đối với bộ phận gián tiếp phân xưởng việc trả lương theo thời gian găn với
KQKD vừa phản ánh được năng lực làm việc của họ lại vừa khuyến khích được
tinh thần làm việc của bộ phận này .Còn nhân viên các phòng ban thì việc trả
lương theo thời gian gắn với kêt quả kinh doanh trên cơ sở chức danh công tác là
chính sách khuyến khích những người có trình độ nghiệp vụ và khả năng lãnh
đạo để họ có thể phát huy hết khả năng của mình hoàn thành tốt công việc được
giao.
Thứ sáu là , phương pháp tính trị giá vật tư xuất kho của doanh nghiệp
hiện nay là pp bình quân cả kì tuy phương pháp này có nhược diểm là phải đến
cuối kì mới tính được đơn giá từ đó mới tính được trị giá thực tế của sản phẩm
xuất kho ,nhưng nó lại có ưu điểm là khối lượng tính toán sẽ được giảm đi so với
các phương pháp khác. Điều này rất cần cho doanh nghiệp trong tình hình hiện
nay khi mà doanh nghiêp chưa áp dụng hình thức kế toán máy vào phục vụ cho
công tác kế toán, việc tính toán ghi chép hoàn toàn thủ công .Cách tính này thực
sự đã làm cho việc tính toán được giảm nhiều, tránh được sai sót không đáng có.
3.1.2. Những tồn tại và nhược điểm cần hoàn thiện
Nhìn chung, tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở
xí nghiệp phần lớn đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho công tác này xét trên cả

hai khía cạnh tuân thủ đúng chuẩn mực kế toán qui định chung và phù hợp với
tình hình thực tế của đơn vị. Tuy nhiên, công tác kế toán của xí nghiệp vẫn đang
trong quá trình hoàn thiện và còn nhiều khó khăn đang ở phía trước. Một số tồn
tại trong công tác kế toán cần được khắc phục như: phương pháp tính trị giá vật
liệu xuất kho, kĩ thuật tính giá thành thành phẩm nhập kho, phương pháp đánh
giá sản phẩm dở dang cuối kì....
3.2 Một số vấn đề cần hoàn thiện về công tác kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp cơ khí 79:
3.2.1 Hoàn thiện kế toán công cụ dụng cụ của xí nghiệp
Tại xí nghiệp, chi phí công cụ dụng cụ phát sinh thường xuyên và có khối
lượng khá lớn trong quá trình sản xuất. Đối với chi phí này, khi phát sinh kế
toán tập hợp chi phí vào TK627, cuối kì phân bổ cho các sản phẩm cùng loại các
chi phí sản xuất chung khác. Vì vậy giá trị của tất cả các loại công cụ dụng cụ
đều được phân bổ một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong một kì. Cách
làm này tuy gọn nhẹ nhưng không phản ánh được đúng đối tượng chịu chi phí.
Tại đây có khá nhiều công cụ dụng cụ có giá trị lớn, phục vụ nhiều kì sản xuất
kinh doanh khi được tính chi phí chung một kì sẽ làm sai lệch kết quả kì đó.
Trước tình trạng trên em xin đề xuất giải pháp nhằm phân bổ hợp lý chi
phí công cụ dụng cụ cho các kì theo phương pháp phân bổ thích hợp dựa vào
đặc điểm thời gian sử dụng của từng loại. Sở dĩ em đưa ra phương pháp này vì
doanh nghiệp vẫn luôn theo dõi TSCĐ, CCDC về ngày đưa vào sử dụng, thời
hạn sử dụng của từng loại từng thứ TSCĐ và CCDC.
— Với những loại công cụ, dụng cụ có giá trị sử dụng thấp hoặc thời gian
sử dụng chỉ trong một kì kinh doanh thì áp dụng phương pháp phân bổ một lần
nghĩa là toàn bộ chi phí của chúng sẽ được tính vào chi phí chung của kì sản
xuất mà chúng phát sinh.
Ví dụ: Đối với những sản phẩm như là máy chuốt, fay vạn năng máy rà
vết tiếp xúc có giá trị không lớn khoảng 5-10 triệu đồng, thời hạn sử dụng dưới
1năm thì nên phân bổ một lần vào chi phí kinh doanh trong kì xuất dùng theo
đúng trị gía vốn thực tế của công cụ dụng cụ.

— Đối với những loại công cụ dụng có giá trị sử dụng lớn, thời gian sử
dụng dài hơn một kì sẽ áp dụng phương pháp phân bổ nhiều lần.
+ Trường hợp xuất dùng theo phương pháp phân bổ 50%:
TK153
TK627,641,642
(1)0
(2)0 (3)0
TK142
Khi xuất dùng công cụ dụng cụ, kế toán căn cứ vào giá trị thực tế để phản
ánh vào TK142, đồng thời tiến hành phân bổ 50% giá trị công cụ dụng cụ vào
chi phí của kì xuất dùng.
Khi báo hỏng công cụ dụng cụ, kế toán phân bổ nốt giá trị còn lại vào chi
phí của kì báo hỏng.
+ Trường hợp áp dụng phương pháp phân bổ nhiều lần :
Khi xuất dùng công cụ dụng cụ kế toán căn cứ vào giá trị thực tế của công
cụ dụng cụ ghi vào TK142, định kì phân bổ công cụ dụng cụ xuất dùng vào chi
phí sản xuất kinh doanh.
Qúa trình kế toán công cụ dụng cụ xuất dùng có thể khái quát theo sơ đồ
sau:
Sơ đồ 3- :Kế toán công cụ dụng cụ xuất dùng
(1) Gía trị công cụ xuất dùng theo phương pháp phân bổ một lần
(2) Gía trị công cụ xuất dùng theo phương pháp phân bổ nhiều lần
(3) Định kì phân bổ giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng vào chi phí kinh
doanh trong kì
3.2.2 Hoàn thiện kế toán sửa chữa TSCĐ:
Vì là một đơn vị sản xuất cơ khí nên máy móc thiết bị chiếm tỉ trọng rất
lớn trong TSCĐ, tập trung ở các phân xưởng sản xuất. Tuy nhiên do có nhiều
máy móc đã được sử dụng từ rất lâu rồi nên tình trạng xuống cấp hỏng hóc
thường xuyên xảy ra. Xí nghiệp phải thường xuyên sữa chữa bảo dưỡng nhằm
phục hồi chức năng hoạt động của máy móc, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, phương pháp kế toán chi phí sửa chữa TSCĐ tại xí nghiệp là:
Nếu chi phí sửa chữa phát sinh nhỏ thì phản ánh trực tiếp vào chi phí sản kinh
doanh của kì, nếu chi phí sửa chữa lớn thì cho vào chi phí chờ phân bổ (TK142).
Việc tập hợp chi phí sửa chữa vào TK142 là do doanh nghiệp không biết được
khi nào thì máy móc thiết bị sẽ hỏng hóc, và việc phân bổ dần vào chi phí sản
xuất kinh doanh trong kì sẽ làm cho cho phí của kì phát sinh chi phí không bị
tăng lên đột ngột đẩy giá thành tăng cao. Tuy nhiên biện pháp này chỉ thích hợp
trong trường hợp chi phí sửa chữa nhỏ xí nghiệp có thể đáp ứng ngay được hoặc
máy móc còn sử dụng tốt, phần lớn là máy mới ít xảy ra sự cố, còn trong tình
hình hiện nay của xí nghiệp thì biện pháp này trở nên rất bị động và gây nhiều
khó khăn cho sản xuất. Bởi lẽ khi máy móc bị hỏng nặng, chi phí sửa chữa mà
lớn thì ngay lúc đó xí nghiệp khó có thể đáp ứng kịp thời được, máy móc chưa
được sửa chữa nằm chết tại phân xưởng. Dẫn đến phân xưởng có thể sẽ không
theo kịp tiến độ đã định. Tình trạng này không phải là không có mà xảy ra khá
nhiều vì phần lớn máy móc của nhà máy đã được sử dụng từ lâu, vì vậy gây ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến độ công việc mà còn làm tăng chi phí khấu hao trên
một đơn vị sản phẩm bởi lẽ phòng kế toán vẫn tiến hành trích khấu hao cho máy
móc bị hỏng đó.
Như vậy để đảm bảo cho quá trình sản xuât được diễn ra liên tục, máy nóc
phát huy công suất cao thì xí nghiệp nên tiến hành lập kế hoạch định kì sửa chữa
TSCĐ đối với những TSCĐ đã sử dụng lâu năm, thường hỏng hóc chi phí sửa
chữa lớn. Việc trích trước chi phí sửa chữa sẽ giúp cho xí nghiệp tránh được tình
trạng bị động kịp thời phục hồi chức năng cho máy móc thiết bị nhằm đáp ứng
nhu cầu sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Mặt khác cũng gây ảnh hưởng đến
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong một kì.
Hàng tháng, căn cứ vào dự toán chi phí sửa chữa TSCĐ, kế toán trích
trước chi phí sửa chữa vào các đối tượng sử dụng tài sản và khi công trình sửa
chữa hoàn thành, giá thành thực tế của nó được kết chuyển vào TK335.
Đến cuối năm kế toán căn cứ vào chi phí đã trích theo kế hạch và khoản

thực tế đã phát sinh để tiến hành điều chỉnh:
— Nếu chi phí sửa chữa thực tế lớn hơn tổng chi phí trích trước theo kế
hoạch và các khoản thực tế phát sinh để tiến hành điều chỉnh:
Nợ TK627,641,642
Có TK335
— Nếu chi phí sửa chữa thực tế nhỏ hơn tổng chi phí trích trước thì khoản
chênh lệch được ghi tăng chi phí khác
Nợ TK335
Có TK711
Phương pháp kế toán cụ thể được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:
(1)Trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ vào sản xuất kinh doanh.
Chênh lệch thực tế lớn hơn chi phí đã trích
(2)Gía thành thực tế công trình sửa chữa lớn TSCĐ hoàn thành
(3)Kết chuyển chênh lệch chi phí thực tế < chi phí trả trước
Ví dụ: Máy búa 250 MB-4134 , nguyên giá ban đầu là 254.259.000
VNĐ, thời hạn sử dụng là 15 năm. Doanh nghiệp đã sử dụng được 6 năm, đã
khấu hao luỹ kế được 78.120.400VNĐ, nhưng hiện nay máy rất hay hỏng và rất
hay phải sửa chữa. Chí phí sửa chữa thường rất lớn như tháng 2/2005 là hơn 20
triệu, tháng 3/2005 lên đến gần 40 triệu do phải thay thế một số phụ tùng. Chi
phí sửa chữa lớn như vậy nên đơn vị chưa thể đáp ứng ngay được khiến máy bị
nằm lại phân xưởng mất hơn 1tháng liền làm cho trong tháng đó năng suất sản
xuất của phân xưởng giảm mất 25%, làm doanh thu của xí nghiệp giảm mất
khoảng hơn 60 triệu, đó là chưa kể còn nhiều máy khác cũng có tình trạng tương
tự làm doanh thu của xí nghiệp trong 3 tháng đầu năm giảm đi rõ rệt (khoảng
hơn 500 triệu trong khi doanh thu quí 1 là 12.530.179.365VNĐ so với quí 4 là
13.530.179.365VNĐ).
Gỉa sử trong từng tháng 1,2,3/2005 xí nghiệp dựa vào dự toán chi phí sửa
chữa trích trước là 200 triệu vào chi phí (cho các đối tượng sử dụng)
Nợ TK627,641,642 : 200.000.000
Có TK335 : 200.000.000

Khi phát sinh chi phí thực tế là 158.420.800 thì xí nghiệp lại hạch toán ghi
tăng chi phí khác là :41.579.200. Như thế thực chất xí nghiệp chỉ bị mất một
khoản là 158.420.800 so với số doanh thu bị giảm hơn 500 triệu số chênh lệch là
rất lớn. Nếu làm theo cách này sẽ có lợi hơn cho xí nghiệp rất nhiều.
Dự toán chi phí sửa chữa máy móc thiết bị do phòng kĩ thuật lập vào cuối
tháng.
Nếu có thể xí nghiệp nên xem xét đến việc thanh lý những máy móc hiệu
quả sản xuất kém, hay xảy ra sự cố, thay thế chúng bằng những máy móc hiện
đại hơn cho hiệu quả sử dụng cao hơn.
3.2.3 Hoàn thiện kế toán chi phí sản phẩm hỏng:
Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất
lượng và đặc điểm kĩ thuật được xây dựng cho từng loại sản phẩm. Tại xí
nghiệp, mỗi một loại sản phẩm cũng có một định mức chi phí riêng. Sản phẩm
hỏng tính trong định mức được tính vào chi phí sản xuất cho sản phẩm còn
những sản phẩm hỏng ngoài định mức sẽ được xem xét nguyên nhân để qui
trách nhiệm cho người liên quan trực tiếp. Về mặt này kế toán dã thực hiện đúng
các chuẩn mực ban hành song trong thực tế toàn bộ sản phẩm hỏng đều được coi
là sản phẩm hỏng không sưảe chữa được và được tính vào chi phí sản xuất
chung. Tình trạng này thực sự đã gây ra sự lãng phí cho xí nghiệp vì một số sản
phẩm hỏng vẫn có thể sửa chữa được với chi phí thấp và việc sửa lại sẽ đem lại
hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với việc chỉ coi những sản phẩm ấy như là
những phế liệu có thể thu hồi được. Vậy biện pháp em xin đề nghị ở đây là xí
nghiệp hãy cố gắng tận dụng tối đa khả năng sửa chữa sản phẩm hỏng để tiết
kiệm chi phí tạo ra chúng. Muốn làm được diều đó trước hết xí nghiệp cần phân
loại mức độ của các sản phẩm hỏng để có thể biết được sản phẩm hỏng nào có
thể sửa chữa được, sản phẩm hỏng nào thực sự không thể sửa chữa được bị coi
là phế liệu.Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được khi xí nghiệp đã có phòng
KCS là phòng kiểm soát chất lượng sản phẩm với đội ngũ cán bộ nhân viên có
trình độ và phần lớn là lớp trẻ rất nhiệt tình với công việc.Hàng tháng khi kiểm
kê số lượng sản phẩm hỏng thì các kĩ thuật viên của phòng này sẽ có nhiệm vụ

phân loại sản phẩm hỏng theo 2 loại sau (dựa vào máy kiểm tra chất lượng sản
phẩm) :
— Sản phẩm hỏng không sửa chữa được là những sản phẩm hỏng về mặt
kĩ thuật không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng xét thấy chi
phí bỏ ra lớn hơn lợi ích kinh tế do sản phẩm đó đem lại. Như vậy cách tốt đối
với loại sản phảm này là đem nhập kho phế liệu để sử dụng cho việc tái chế
phục vụ sản xuất hoặc có thể bán
— Còn những sản phẩm mà về mặt kĩ thuật có thể sửa chữa được và việc
sửa chữa này có đem lại lợi ích về kinh tế thì được coi là sản phẩm hỏng có thể
sửa chữa được. Đối với loại sản phẩm này cần phải xác định được nguyên nhân
do đâu mà hỏng, hỏng ở khâu nào, mức độ hỏng ra sao để từ đó có biện pháp xử
lý cho phù hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Sản phẩm sau khi sửa
chữa xong đạt yêu cầu kiểm soát chất lượng thì đem nhập vào kho thành phẩm
bình thường như những thành phẩm khác.
Các chi phí sửa chữa lúc này sẽ được tập hợp vào TK142— chi phí trả
trước. Sau đó sẽ căn cứ vào nguyên nhân cụ thể để tiến hành xử lý phân bổ hay
tính trực tiếp vào chi phí khinh doanh trong kì.
Phòng KCS có nhiệm vụ giúp phòng kế toán phân loại sản phẩm hỏng (có
giấy báo kiểm nghiệm ) để kế toán vào sổ chi tiết sản phẩm hỏng thành 2 loại
như trên.
3.2.4 Hoàn thiện công tác phân bổ chi phí sản xuất chung:
`Tiêu thức được áp dụng để phân bổ chi phí sản xuất chung tại xí nghiệp
hiện nay là tiền lương công nhân sản xuất. Tiêu thức này rất phù hợp với các chi
phí như tiền lương, BHXH, chi phí bằng tiền khác...Tuy nhiên với một số khoản
chi phí chung như: khấu hao máy móc thiết bị, tiền điện, chi phí động lực thì nó
tỏ ra chưa thực sự hợp lý. Xuất phát từ đặc điểm sản xuất của xí nghiệp là vừa
làm bằng máy lại vừa làm bằng tay nên có một số sản phẩm phải mất nhiều giờ
máy mới hoàn thành nhưng có những sản phẩm lại mất nhiều giờ tay hơn để
hoàn thành, việc phân bổ theo tiền lương công nhân sản xuất lúc này không phản
ánh đúng chi phí bỏ ra cho từng loại. Các sản phẩm có số giờ tay cao hơn vẫn

phải chịu chi phí khấu hao, động lực, tiền điện...như các sản phẩm có giờ máy
chiếm đa số. Và tình trạng trên khiến giá thành sản phẩm thường bị đẩy cao hơn,
làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Với mục làm giảm sự bất hợp lý về cơ cấu giá thành do phân bổ chi phí
máy móc thiết bị, động lực ...kế toán đơn vị thì có thể tiến hành điều chỉnh tiêu
thức phân bổ là số giờ máy hoạt động.
Theo tiêu thức này, những sản phẩm có số giờ máy hoạt động nhiều sẽ
chịu chi phí khấu máy móc thiết bị, chi phí động lực cao hơn những sản phẩm sử
dụng nhiều giờ tay, từ đó đảm bảo cơ cấu sản xuất.
Ví dụ: Theo Bảng tính và phân bổ khấu hao (Biểu 2-12) và Bảng TTHĐ
sản xuất và giá thành phân xưởng (Biểu 2-15b), tại PXGCN:
Tổng chi phí khấu hao phát sinh: 1.900.000
Tổng tiền lương công nhân sản xuất: 66.673.300
Tiền lương CNSX bánh răng côn xoắn Ben la: 6.870.000
Tiền lương CNSX bánh răng Z55m4 HST D15: 1.565.000
Tổng giờ máy hoạt động sản xuất sản phẩm tại phân xưởng CK3:250 giờ
Số giờ máy hoạt động sản phẩm bánh răng côn xoắn Benla:15 giờ
Số giờ máy hoạt động sản phẩm bánh răng Z55 m4 HST D15: 50 giờ
*Nếu phân bổ chi phí khấu hao theo tiền lương CNSX:
T ng chi phí kh u hao 1.900.000ổ ấ
H s phân b = = = 0,285ệ ố ổ
chi phí kh u hao T ng ti n l ng CNSX 66.673.300ấ ổ ề ươ
Chi phí khấu hao cho từng loại sản phẩm:
+ Bánh răng côn xoắn Benla: 0,285 x 6.870.000 = 1.957.950
+ Bánh răng Z55 m4 HST D15: 0,285 x 1.565.000 = 446.025
*Nếu phân bổ theo số giờ máy:
Khi đó chi phí khấu hao phân bổ cho từng loại sản phẩm sẽ là:
+ BRCX Benla: 7.600 x 15 = 114.000
+ BR Z55m4 HST D15: 7.600 x 50 = 380.000
Như vậy, theo cách thứ nhất, chi phí khấu hao phân bổ cho bánh răng côn

xoắn Ben la lớn hơn còn theo cách thứ hai thì ngược lại. Giữa hai cách có sự
thay đổi về cơ cấu chi phí khấu hao, cách phân bổ thứ hai phản ánh đúng cơ cấu
chi phí khấu hao vì số giờ máy sản xuất bánh răng Benla nhỏ hơn số giờ máy
sản xuất bánh răng Z55
Việc xác định giờ máy hoạt động của các sản phẩm theo kế hoạch có thể
dựa vào định mức giờ máy, giờ tay trong Bảng kế hoạch giá thành và giá bán
sản phẩm với độ tin cậy cao. Riêng những sản phẩm chưa xây dựng kế hoạch,
giờ máy sẽ được theo dõi bởi các tổ trưởng ở các tổ sản xuất của mỗi phân
xưởng.
T ng Chi phí kh u hao 1.900.000 ổ ấ
H s phân b = = =7.600 ệ ố ổ
3.2.4 Hoàn thiện phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở và công tác
tính giá thành:
3.2.4.1 Đối với phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở:
Cách đánh giá sản phẩm làm dở mà đơn vị sử dụng hiện nay thì đó là
phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở theo chi phí nguyên vật liệu chính trực
tiếp. Theo cách đánh giá này thì chỉ tính cho sản phẩm làm dở chi phí nguyên
vật liệu chính trực tiếp, còn những chi phí khác không tính vào giá trị của sản
phẩm làm dở.
Gía trị
VLC
tiêu hao
=
trị giá VLC
tồn đầu kì
+ trị giá VLC
nhập trong kì
x
số
lượng

thành
phẩm
số lượng
VLC tồn
đầu kì
+
số lượng VLC
nhập trong kì


Theo như công thức trên thì công thức tính vật tư chính tiêu hao chính là
dựa vào đơn giá bình quân của vật liệu chính và số lượng sản phẩm hoàn thành,
điều này là vô lý vì vật liệu và số lượng sản phẩm hoàn toàn khác nhau.Vật liệu
có thể là cái, kg, chiếc....còn sản phẩm hoàn thành chỉ có thể là thành phẩm(cái,
chiếc), nói chung chúng không đồng chất với nhau. Chính từ việc tính không
đúng vật tư tiêu hao dẫn đến kết quả tính giá thành cũng không đúng. Nhưng
nếu tính theo đúng công thức vật liệu chính tiêu hao phải nhân đơn giá bình
quân với khối lượng vật liệu chính đã tiêu hao, nhưng vấn đề ở đây là không thể
Giá tr s n Giá tr Chi phí v t Giá tr v tị ả ị ậ ị ậ
Ph m d dang = s n ph m + li u chính - li u chính ẩ ở ả ẩ ệ ệ
Cu i kì d dang phát sinh tiêu haoố ở
u kì trong kì trong kì đầ
biết chính xác được khối lượng vật liệu chính vì các phân xưởng không theo dõi
trong quá trình sản xuất mà chỉ biết được khối lượng vật liệu chính định mức
cho từng phân xưởng theo phiếu xuất kho vật liệu.Chính vì vậy nên xí nghiệp
mới sử dụng công thức trên để tính ra giá trị vật tư chính tiêu hao. Tuy nhiên khi
lập Bảng TTHĐ và tính giá thành cho từng phân xưởng lại không tính đến chi
phí sản xuất chung phân bổ cho từng phân xưởng mà chỉ tính chi phí sản xuất
cho từng thành phẩm hoàn thành. Theo cách này thì không thể nhận biết dược là
các phân xưởng có khoản chi phí sản xuất chung để phục vụ sản xuất hay không

mà trên thực tế các phân xưởng chắc chắn sử dụng khoản chi phí này. Để khắc
phục tình trạng trên thì xí nghiệp nên tập hợp chi phí sản suất chung theo từng
phân xưởng rồi tổng hợp lên chi phí sản xuất chung của toàn xí nghiệp và tiến
hành phân bổ cho từng sản phẩm như bình thường. Cách làm này vừa giúp đơn
vị có thể tiến hành tính giá thành sản phẩm một cách dễ dàng vừa giúp cho việc
thanh toán hợp đồng với các phân xưởng được chính xác hơn.
Ví dụ: việc lập Bảng TTHĐ và giá thành sản xuất lập theo cách tập hợp
chi phí sản xuất của phân xưởng GCN được thể hiện qua Biểu2-19
Mặt khác khi xem xét cụ thể với sản phẩm phức tạp như BRCX BenLa lại
gặp phải vấn đề đó là không đảm bảo được độ chính xác cao của các khoản mục
chi phí do chi phí nhân công và chi phí chế biến khác chiếm một tỷ trọng không
nhỏ và phát sinh trong tất cả các giai đoạn, còn chi phí NVL chính chỉ phát sinh
một lần ở giai đoạn đầu.
Theo Bảng thanh toán HĐSX và GTSX chi phí nhân công và chi phí chế
biến khác của BRCX Benla tại phân xưởng GCN là 40%, ở phân xưởng cơ khí 3
là 45% một tỷ lệ tương đối lớn. Để giải quyết tình hình trên xí nghiệp có thể sử
dụng phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo mức độ hoàn thành tương
đương sẽ thích hợp hơn:
Ví dụ: đối với sản phẩm BRCX Benla có khối lượng sản phẩm dở dang
tương đối đồng đều ở các khâu sản xuất nên có thể giả sử mức độ hoàn thành là
50%, còn chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp bỏ vào một lần ngay từ đầu qui
trình sản xuất nên có thể coi mức độ hoàn thành là 100%, ta có chi phí sản phẩm
dở dang được tính như sau:
Tại PX GCN:
+ CPVLTT tính cho sản phẩm dở dang:
CPVLCTT =
7.250.000 + 25.525.000
x 3 = 3.933.000
22 + 3
+ Chi phí vật liệu phụ trực tiếp:

CPVLP
TT
=
2.578.000
x 3 x 50% = 164.553
22
+ 3 x 50%
+ Chi phí vật liệu khác ngoài vât liệu chính và vật liệu phụ:
CPVL
khác
=
320.000 + 1.975.800
x 3 x 50% =
22
+ 3 x 50%
=146.640
+Chi phí nhân công trực tiếp:
CPVLCTT =
6.870.000
x
3 x 50% =
22 + 3 x 50%
= 438.510
+Chi phí sản xuất chung:
CPSX
C
=
6.112.400
x 3x50% = 390.153
22

+ 3x50%
Vậy chi phí sản phẩm dở dang cuối kì của sản phẩm BRCX Benla là:

×