1. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO - Open Market Operations) được áp dụng đầu tiên
bởi Ngân hàng Anh (BoE - Bank of England) từ những năm 30 của thế kỷ 19. Vào thời
gian này, lãi suất chiết khấu của BoE được sử dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm
soát lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, nó tỏ ra kém hiệu lực khi khi lãi suất thị trường tiền
tệ giảm liên tục vượt khỏi sự chi phối của lãi suất chiết khấu. Do đó BoE phải tìm kiếm
công cụ hiệu quả hơn để diều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn.
Cách thức đầu tiên được áp dụng nhằm tăng lãi suất trên thị trường là :
- Bán chứng khoán Chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một nó vào một ngày
xác định trong tương lai.
- Vay trên thị trường được đảm bảo bằng chứng khoán Chính phủ.
- Bán hẳn các chứng khoán Chính phủ.
- Vay trực tiếp từ các Ngân hàng thương mại (NHTM).
Bằng cách này, lượng tiền trên thị trường giảm đi tương ứng với khối lượng vay hoặc
bán chứng khoán, vì thế làm tăng lãi suất thị trường.
Cùng thời gian này, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Thụy Sĩ cũng dùng nghiệp vụ
bán chứng khoán Chính phủ nhằm tu hút lượng vốn khả dụng dư thừa. Vào năm 1913,
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cũng sử dụng OMO như một công cụ bổ sung cho chính
sách tái chiết khấu. Tuy nhiên, trong và sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất OMO được sử
dụng để huy động nguồn lực tài trợ cho chi phí quân sự và khắc phục tổn thất.
Đến năm 1920, OMO vẫn được xem là công cụ bổ trợ cho lãi suất tái chiết khấu.
Nhưng hiệu quả và tầm quan trọng dần tăng lên và ngày nay OMO đã trở thành một công
cụ đắc lực của Chính phủ khi điều tiết nền kinh tế. Điều này xuất phát từ : hạn chế của lãi
suất tái chiết khấu; sự mở rộng và hoàn thiện của thị trường tài chính; sự gia tăng về
lượng của chứng khoán Chính phủ và các chứng khoán có thanh khoản cao.
1.2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Tùy theo quy định mà mỗi quốc gia có một định nghĩa riêng về OMO, nhưng nói
chung OMO là hành vi giao dịch các chứng khoán của NHTW trên thị trường mở. Tuy
nhiên, khác với các khía niệm có phạm vi và công cụ giao dịch rõ ràng như thi trường
chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị trường mở ở các nước khác nhau về phạm vi, về
các loại giấy tờ và thời hạn của chúng.
Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm chứng khoán nợ ngắn hạn và chỉ
có các tổ chức tín dụng được phép tham gia. Như vậy, ở Nhật thị trường mở là một bộ
phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại ở Mỹ và Đức cho phép giao dịch cả chứng khoán
dài hạn.
Tại Việt Nam, theo Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN, nghiệp vụ thị trường mở là
việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc mua, bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá với
các tổ chức tín dụng.
2. Cơ chế tác động của OMO
2.1. Tác động về mặt lượng (cơ số tiền tệ)
Hành vi mua, bán các chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng ngay
lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM, từ đó ảnh hưởng đến khả năng cho vay cuối
cùng tác động đến mức cung tiền.
2.2. Tác động mặt giá (lãi suất)
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp
đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn
NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương thay
đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông
qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới
các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường
xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết
định.
NHTW
bán
Dự trữ
NHTM
Khả năng
cho vay
giảm
m giảm
MS
giảm
Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về
loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh
lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn trong
các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở
lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng.
Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm lãi suất
ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị trường. Bên cạnh
đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở sẽ làm tăng cung tín
phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm
ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự
chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch
chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt
động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm.
Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng
đến lượng tiền cung ứng.
3. Thành viên tham gia thị trường mở
3.1. Ngân hàng trung ương
Cung TPKB
tăng
NHTW bán
TPKB
Dự trữ NH
giảm
Đầu tư giảm
Cung của quỹ
cho vay giảm
Lãi suất ngắn
hạn tăng
Lãi suất thị
trường tăng
Giá TPKB
giảm
LS thị trường
tăng
tăng
NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở theo các
mục tiêu chính sách tiền tệ. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại OMO
và tần suất sử dụng OMO. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán các giấy
tờ có giá nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng và gián tiếp tác động đến các
lãi suất thị trường theo mục tiêu. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết
thông qua thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo
đủ phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng cũng như nhu cầu tín dụng của nền
kinh tế.
Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để
quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện theo các
mục tiêu xác định của nó.
3.2. Các đối tác ngân hàng trung ương gồm các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt
động theo Luật các tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện sau:
- Có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước
hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố).
- Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia nghiệp vụ thị trường mở gồm máy FAX,
máy tính có nối mạng internet.
- Có giấy đăng ký tham gia nghiệp vụ thị trường mở.
Ngân hàng Nhà nước cấp giấy công nhận là thành viên tham gia thị trường mở cho
các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện.
4. Các loại giấy tờ có giá sử dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở
4.1. Các giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch với Ngân hàng Nhà nước
- Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước
- Trái phiếu Chính phủ, bao gồm :
Tín phiếu Kho bạc.
Trái phiếu Kho bạc.
Trái phiếu công trình Trung ương.
Công trái xây dựng Tổ quốc.
Trái phiếu Chính phủ do Ngân hàng Phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ Hỗ
trợ phát triển) được Thủ tướng Chính phủ chỉ định phát hành.
- Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm:
Trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành được Chính phủ bảo
lãnh thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn.
Trái phiếu do Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo
lãnh thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn.
- Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy
ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
4.2. Các giấy tờ có giá quy định tại khoản 1 trên đây phải có đủ các điều kiện sau
- Lưu ký tại Ngân hàng Nhà nước
- Thuộc quyền sở hữu hợp pháp của tổ chức tín dụng.
- Tổ chức phát hành không được sử dụng các loại giấy tờ có giá do tổ chức đó phát
hành để tham gia giao dịch với Ngân hàng Nhà nước.
5. Cơ chế hoạt động của thị trường mở
5.1. Các phương thức mua hoặc bán giấy tờ có giá
5.1.1 Giao dich không hoàn lại (mua hoặc bán hẳn)
Các giao dịch này bao gồm nghiệp vụ mua, bán theo phương thức mua đứt, bán đoạn
trên cơ sở giá thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với
các chứng khoán là đối tượng gia dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các
NHTM là dài hạn và giấy tờ có giá phải là công cụ nợ có mức rủi ro thấp.
5.1.2 Giao dịch có hoàn lại
Phương pháp này có nghĩa là chỉ mua, bán tạm thời các giấy tờ có giá. Nó tồn tại dưới
hai dạng :
- Mua bán theo hợp đồng mua lại : là việc NHTW ký hợp đồng mua giấy tờ có giá
với người giao dịch và người đó đồng ý mua lại vào một ngày xác định trong
tương lai với mức giá thỏa thuận.
- Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược NHTW bán giấy tờ có giá và cam kết
sẽ mua lại trong tương lai với giá thỏa thuận.