Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hội nông dân, Lực lượng lao động, Nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.53 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUẾ

VAI TRÕ CỦA HỘI NƠNG DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI
HĨA NƠNG NGHIỆP, NƠNG THƠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUẾ

VAI TRÕ CỦA HỘI NƠNG DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI
HĨA NƠNG NGHIỆP, NƠNG THƠN HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Mã số: 60 22 03 08

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Mẫn Văn Mai

HÀ NỘI - 2014




LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của TS. Mẫn
Văn Mai. Em xin được bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy.
Nhân đây, em xin chân thành cảm ơn tồn thể các thầy giáo, cơ giáo,
các cán bộ trong khoa Triết học, Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân
Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội - những người đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong
suốt thời gian qua.
Tơi cũng bày tỏ lịng biết ơn vơ hạn tới gia đình, bạn bè và những người
thân yêu đã luôn sát cánh, tạo điều kiện giúp đỡ cho Tôi trong suốt quá trình
học tập và thực hiện luận văn.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn khó tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp và nhận xét của các thầy giáo,
cơ giáo và các bạn để Tơi có thể phát triển đề tài này ở cấp độ cao hơn.

Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2014
Học viên

Nguyễn Thị Huế


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ Tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng vai trị của nông dân đối
với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Chính vì vậy, ngay trong những năm
đầu dành được độc lập, Người chỉ rõ: “Việt Nam là một nước sống về nông
nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong cuộc sống và xây dựng
nước nhà, Chính phủ trơng mong vào nơng dân, trơng cậy vào nơng nghiệp một

phần lớn. Nơng dân ta giàu thì nước ta giàu. Nơng dân ta thịnh, thì nước ta
thịnh!”[30, tr.3]. Đồng thời, Người đưa ra yêu cầu: “Đảng phải thu phục cho
được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng,
đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng phải làm cho các đồn thể thợ
thuyền và dân cày (cơng hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng
của bọn tư bản quốc gia. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nơng"[30, tr.3].
Quán triệt sâu sắc quan điểm trên, trong mọi thời kỳ cách mạng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các tổ chức của giai cấp nông dân mà trực tiếp là Hội
Nơng dân Việt Nam ln phát huy hết vai trị là tổ chức chính trị - xã hội, là
lực lượng nòng cốt khơi dậy lòng yêu nước để giai cấp nơng dân đồn kết với
mọi giai cấp, tầng lớp khác vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đứng lên đấu
tranh, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp của cách mạng.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung; cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết khác nhau đòi hỏi phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; trong đó, phát huy vai trị của nơng dân, các tổ chức của nông
dân mà cụ thể là Hội nông dân là nội dung cốt lõi, mang tính tất yếu khách
quan, đúng như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh là
1


vấn đề “có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững,
nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng bước có khả năng tham gia
sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối tồn cầu”[19, tr.193], cũng
như góp phần đưa đất nước ta thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng một nền nông nghiệp hiện đại, văn minh.
Đối với tỉnh Nam Định hiện nay, đây là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ
Sơng Hồng, có nhiều tiềm năng để phát triển. Nắm bắt được những điều kiện đó,

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh; Hội nơng dân tỉnh Nam Định đã biết phát
huy tốt vai trò của mình trong cơng tác giáo dục, động viên, định hướng, ...nông
dân; giúp nông dân của Tỉnh không ngừng lớn mạnh về mọi mặt; tích cực tham
gia và gặt hái được nhiều thành tựu trong quá trình đổi mới sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn góp phần khơng nhỏ vào mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của Tỉnh...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong giai đoạn hiện nay
Hội nơng dân tỉnh Nam định có thời điểm chưa thực sự phát huy hết vai trị
của mình vận vận động, giáo dục... nơng dân tham gia tích cực vào sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn. Điều này được thể
hiện rõ nông nghiệp, nông thơn của Tỉnh vẫn cịn nhiều hạn chế, bất cập như:
Nền kinh tế vẫn còn mang nặng dấu ấn sản xuất nhỏ, độc canh cây lúa là chủ
yếu; đời sống của người nơng dân cịn nhiều khó khăn, thiếu thốn; các phong
trào về “Xây dựng nơng thơn mới”, “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa”...chưa thực sự được người nơng dân hưởng ứng nhiệt tình, trách
nhiệm; tình trạng ô nhiễm môi trường; tình trạng khiếu kiện, khiếu nại, gây
mất ổn định về trật tự ở một số địa phương vẫn còn tiếp diễn...Đúng như Báo cáo
của Ban chấp hành Hội nông dân tỉnh Nam Định tại Đại hội lần thứ IX nhiệm kỳ
2013 – 2018 chỉ rõ: “Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho hội
viên, nông dân ở một số cơ sở chưa chú trọng đổi mới nội dung, hình thức...Việc
2


nắm bắt phản ánh dư luận của nơng dân cịn hạn chế, có lúc chưa kịp thời, chưa
thể hiện rõ chức năng giám sát và phản biện của tổ chức Hội”[2, tr.13].
Những hạn chế trên được bắt nguồn từ nhiều ngun nhân khác nhau,
trong đó Hội nơng dân chưa thực sự phát huy cao độ vai trị của mình là một
trong những nguyên nhân cơ bản. Vì vậy, việc phát huy vai trị của Hội nơng
dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đain hóa nơng
nghiệp, nơng thôn ở tỉnh Nam Định hiện nay không chỉ là vấn đề tất yếu

khách quan mà còn là đòi hỏi bức thiết của chính sự nghiệp đổi mới của đất
nước nói chung và phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Nam Định nói riêng.
Xuất phát từ vấn đề trên, tác giả chọn: “Vai trị của Hội nơng dân tỉnh
Nam Định trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn hiện nay” làm cơng trình nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát huy vai trị của Hội nơng dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung,
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, đây là vấn đề thu hút được nhiều nhà
khoa học, nhiều cơng trình nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ khác nhau.
Trước tiên, dưới góc độ nghiên cứu về kinh tế - xã hội nơng thơn có các
cơng trình nghiên cứu như: “Phát triển nông thôn” (1997) của Phạm Xuân Nam,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội; “Chính sách nơng nghiệp, nơng thơn Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XX và một số định hướng đến năm 2010” (2002) của tác giả Trần
Ngọc Bút, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hai cơng trình này tiếp cận
nghiên cứu vấn đề nơng thơn về dân số, kế hoạch hóa gia đình, lao động, việc
làm, chuyển dịch cơ cầu kinh tế nơng thơn...và xóa đói giảm nghèo.
Nghiên cứu dưới góc độ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn gần đây có các cơng trình nghiên cứu của các tác giả như: “Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn – một số vấn đề lý luận và
3


thực tiễn” (1998) do tác giả Hồng Vinh chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; “Phát triển nơng nghiệp, nơng thơn theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1998) gồm 2 tập của Hội Khoa học kinh tế Việt
Nam, Ban đào tạo và phổ biến kiến thức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn trong
thời kỳ mới” (2007) của Tiến sĩ Lê Quang Phi, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội... Bên cạnh đó cịn có các cơng trình như:“ Cơng nghiệp hố,

hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn đồng bằng Bắc Bộ và tác động của nó
đối với tăng cường sức mạnh phòng thủ tỉnh, thành phố thuộc khu vực
này”, Nguyễn Văn Bảy Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quân sự,
Hà Nội (2001); “Phát triển công nghiệp nông thôn – mấu chốt trong chiến
lược phát triển nhanh và bền vững nơng nghiệp, nơng thơn”, Nguyễn Đình
Bích, Tạp chí Cộng sản, số 17 (tháng 6 - 2003)...Các cơng trình này trên cơ
sở làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thôn ở nước ta đã nêu lên một số xu hướng biến đổi, vận động
của kinh tế nông nghiệp trong những năm đầu thế kỷ XXI, làm rõ nội dung,
chủ trương, giải pháp chủ yếu trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Nghiên cứu trực tiếp về nông dân cũng như các vấn đề xung quanh đến
khía cạnh nơng dân có đề tài cấp bộ “Tác động của tâm lý làng, xã trong việc
xây dựng đời sống kinh tế – xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ ở nước ta
hiện nay” (2001) do Tiến sĩ Lê Hữu Xanh chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Hà Nội; “Những căn cứ lý luận và thực tiễn cấp thiết để thực hiện
tốt liên minh cơng – nơng – trí thức ở nước ta hiện nay” (2001) của Viện chủ
nghĩa xã hội khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; “Để
nơng nghiệp, nơng thơn phát triển bền vững, nơng dân giàu hơn”, Nguyễn
Tuấn Dũng, Tạp chí Cộng sản, số 28 (tháng 10 – 2003)... Các cơng trình trên
đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau như đời sống vật chất, tinh thần, lối sống,
4


phong tục tập quán, xu hướng biến đổi của nông dân, quyền làm chủ của
người nơng dân và các chính sách hỗ trợ, khuyến khích nâng cao đời sống của
người nơng dân trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một số Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ: “Sự chuyển hướng của giai
cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (1991),
Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Đức Hưởng, Hà Nội; “Một vài suy nghĩ về
vấn đề nông dân trong xây dựng chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ định

hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta” (1995), Luận văn thạc sĩ Triết học,
của Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Hà Nội; “Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai
cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay”(2000), Luận án tiến sĩ Triết học,
Bùi Thị Thanh Hương, Hà Nội; “Thực hiện dân chủ ở nông thôn tỉnh Hải Dương
hiện nay” (2009), Luận văn thạc sỹ Triết học của Phạm Văn Hiền; “Tác động
của phát triển các khu công nghiệp đến việc làm của nông dân tỉnh Hưng Yên
hiện nay" (2012), luận văn thạc sĩ kinh tễ chính trị của Đào Khánh Hùng 2012;
“Lợi ích của nơng dân trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay” (2012) luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học của Nguyễn Văn Cường...
Các đề tài này bước đầu đi nghiên cứu chỉ rõ được những đặc điểm của giai
cấp nông dân trong giai đoạn đổi mới đất nước, làm rõ xu hướng biến đổi khách
quan của giai cấp nông dân Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo, trình bày một số
phương hướng đưa giai cấp nông dân Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Các đề tài này tuy bàn đến đối tượng là nơng dân dưới các góc độ tiếp
cận khác nhau nhưng chưa đi sâu vào nghiên cứu với câu hỏi: làm thế nào để phát
huy vai trị của nơng dân; Hội nông dân, cũng như việc phát huy vai trị của nơng
dân trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
Về phía tỉnh Nam Định, những năm qua cũng có nhiều đề tài nghiên cứu ở
các lĩnh vực khác nhau xung quanh đến các khía cạnh nhằm phát huy vai trò của
5


nơng dân trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nổi bật là các cơng
trình: “Giải pháp phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp tỉnh Nam Định” của Sở
công nghiệp (2002); “Cấp uỷ đảng cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo đẩy nhanh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn” của Ban tun giáo Tỉnh uỷ (2003); “Xây
dựng và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống” của
Sở Văn hoá và Thơng tin tỉnh (2004); “Chương trình thực hiện nghị quyết Trung
ương 7 khoá X của tỉnh Nam Định” của Tỉnh ủy Nam Định ( 2009); gần đây nhất có

luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Xuân Đại (2010) với đề tài “Vai trị nơng dân
tỉnh Nam Định trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn hiện nay”...Các cơng trình này, bên cạnh phân tích làm rõ lý luận xung quanh
các vấn đề về nông dân trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn ở hiện nay nói chung, ở Tỉnh Nam Định nói riêng, đã từng bước đề cập
đến các phương hướng, giải pháp khác nhau phù hợp với điều kiện của Tỉnh Nam
Định nhằm phát huy vai trò của nơng dân trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên có thể thấy, cho đến hiện nay chưa có bất kỳ cơng trình
khoa học nào nghiên cứu đề cập đến Hội nông dân Tỉnh Nam Định. Chính vì
vậy, tác giả chọn : “Vai trị của Hội nơng dân tỉnh Nam Định trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn hiện nay” là
cơng trình khoa học nghiên cứu độc lập, khơng trùng lặp với các cơng trình,
luận văn, luận án đã được cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn vai trị của Hội nơng dân tỉnh
Nam Định , trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản phát huy vai trò của
Hội nông dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
6


- Khái qt và phân tích vai trị của Hội nơng dân tỉnh Nam Định trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
- Đánh giá thực trạng vai trị của Hội nơng dân tỉnh Nam Định trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn hiện nay
- Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trị của Hội nơng dân
tỉnh Nam Định trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn trong những năm tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trị, hoạt động của Hội nơng dân tỉnh Nam
Định trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
*. Phạm vi về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vai trị Hội nơng
dân tỉnh Nam Định từ năm 2008 đến nay.
*. Phạm vi về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu chung ở Tỉnh
Nam Định, đồng thời khảo sát thực tế ở 3 huyện: Nam Trực, Giao Thủy,
Nghĩa Hưng… thuộc tỉnh Nam Định.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về những vấn đề xung quanh đến nông dân, hội
nông dân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn. Đồng thời,
đề tài còn được nghiên cứu dựa trên quan điểm hệ thống cấu trúc; logíc-lịch sử
và quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích các vấn đề có liên quan.
5.2. Cơ sở thực tiễn
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thực tiễn là tình hình kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội; sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn;thực
7


tiễn hoạt động của Hội nông dân tỉnh Nam Định.
- Qua các tư liệu, báo cáo, tổng kết của các cấp tỉnh Nam Định trong các
vấn đề có liên quan đến vai trị của Hội nơng dân tỉnh Nam Định trong sự
nghiệp CNH,HĐH cũng như khảo sát thực tế của tác giả.
5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên

cứu lý thuyết của khoa học xã hội và nhân văn, nổi bật là phương pháp logic,
lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh…
- Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
như: Phương pháp quan sát thực tiễn; phương pháp tọa đàm trao đổi; Phương
pháp điều tra; phương pháp chuyên gia và phương pháp thống kê tốn học..
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài chỉ ra một cách hệ thống những đặc điểm cơ bản, vai trị hoạt động
của Hội nơng dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp nơng thơn, góp phần chứng minh và khẳng định sự đúng đắn chủ
trương đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, lấy nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, là khâu đột phá trong việc phát triển kinh tế xã hội mà chủ thể trên lĩnh
vực nông nghiệp là giai cấp nơng dân mà tổ chức chính trị xã hội của nó là Hội
nơng dân. Qua đó, đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm tiếp tục phát huy
vai trị của giai cấp nơng dân, của Hội nơng dân trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài góp phần vào việc tạo được nhận thức đúng đắn về vai trị của
Hội nơng dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn. Từ đó cung cấp và luận chứng khoa học cho lãnh
đạo địa phương đưa ra những chủ trương, giải pháp giúp cho việc phát huy vai
trị của Hội nơng dân trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thôn ở tỉnh Nam Định hiện nay.
8


- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong cơng tác giảng dạy ở
trường chính trị Huyện, có thể dùng làm tài liệu tham khảo ở các cấp ủy Đảng, sở
nông nghiệp và phát triển nông thôn , Hội nông dân Việt Nam tỉnh Nam Định.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu gồm có 3 chương, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, và phần phụ lục.


9


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA HỘI NƠNG DÂN
TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA NƠNG
NGHIỆP, NƠNG THƠN
1.1. Hội nơng dân và sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn
1.1.1. Những vấn đề chung về giai cấp nông dân và Hội nông dân
Việt Nam
1.1.1.1. Quan niệm về giai cấp nông dân
*. Khái niệm về giai cấp nông dân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nông dân hay những người “tiểu nông”
là “một khối

quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên đều sống trong một hoàn cảnh

như nhau nhưng lại không nằm trong mối quan hệ nhiều mặt đối với nhau. Phương thức sản
xuất của họ không làm cho họ liên hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau”[27,
tr.264]. V.I. Lênin cũng đưa ra quan niệm về giai cấp nông dân (tiểu nông) “người tiểu
nơng tức là những dân cày, ít ruộng, có riêng hay lĩnh canh được những mảnh đất nhỏ,
khiến khi họ cày cấy để cung cấp cho nhu cầu gia đình và nhu cầu sản xuất của họ, họ
khơng phải th nhân cơng bên ngồi”[25, tr.209]. Hồ Chí Minh quan niệm: Giai cấp
nông dân là cộng đồng những người lao động, nhân tố chủ yếu của lực lượng sản xuất
và là những người tư hữu nhỏ. Người khẳng định: “Nước ta là nước nông nghiệp, hơn
9/10 dân ta là nông dân. Hơn 9/10 nông dân là trung, bần và cố nông”[32, tr.710].

Trong Từ điển “Chủ nghĩa cộng sản khoa học”, khái niệm giai cấp nông

dân cũng được khái quát như sau: “Nông dân là một giai cấp chuyên sản xuất
những sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hợp tác xã về
tư liệu sản xuất và tham gia sản xuất bằng lao động của chính mình”[42, tr.227].
10


Từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với sự vận động phát
triển của đất nước, cơ cấu xã hội - giai cấp nói chung và giai cấp nơng dân Việt
Nam nói riêng đang diễn ra rất phức tạp. Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Trương Thị
Tiến: “Giai cấp nông dân Việt Nam gồm nông dân nhận ruộng khốn của các
doanh nghiệp nơng nghiệp Nhà nước, hộ nông dân trong các hợp tác xã nông
nghiệp đã chuyển đổi và hộ nông dân cá thể” [41, tr.65]. Tiến sĩ Đỗ Ngọc Sơn
quan niệm: “Giai cấp nông dân Việt Nam là cộng đồng những người lao động,
mà hoạt động của họ gắn liền với sản xuất nông nghiệp ở trình độ sản xuất nhỏ
là phổ biến dưới hình thức hộ gia đình, dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân, hoặc sở
hữu hợp tác xã về tư liệu sản xuất”[38, tr.25].
Từ những vấn đề trên có thể khẳng định: Giai cấp nông dân Việt Nam là một lực lượng
xã hội to lớn, địa bàn cư trú của họ ở nông thôn, gồm những người lao động sản xuất
trên lĩnh vực nông nghiệp trong khu vực kinh tế hợp tác và kinh tế cá thể, tiểu chủ.
*. Vai trò của giai cấp nông dân
Từ quan niệm về giai cấp nông dân, với phương pháp luận khoa học C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhận thấy rõ vai trò to lớn của nông dân trong sự phát triển
của xã hội cũng như trong các cuộc đấu tranh cách mạng. Ở mọi quốc gia “người nông
dân đều là một nhân tố rất cơ bản của dân cư, của nền sản xuất và của lực lượng chính
trị” [29, tr.715].
Giai cấp nơng dân là lực lượng chủ yếu của khối liên minh công nhân - nơng
dân - trí thức, nền tảng của khối đại đồn kết toàn dân tộc, nhân tố cơ bản bảo đảm
thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân không thể thắng lợi nếu không liên minh
được với giai cấp nông dân. Tổng kết cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp (1848 - 1850), C.Mác

đã viết: “Công nhân Pháp không thể tiến lên được một bước nào và cũng không thể đụng đến
một sợi tóc nào của chế độ tư sản, trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản, tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản nổi dậy chống chế độ tư sản, chống sự thống trị
của tư bản, chưa bị tiến trình của cách mạng buộc phải đi theo những người vơ sản coi là đội tiên
phong của mình”[28, tr.30].

11


Phát triển những tư tưởng này V.I.Lênin đã khẳng định ý nghĩa chiến lược của vấn đề
nông dân, Người chỉ rõ: “Nếu khơng liên minh với nơng dân thì khơng thể có được chính
quyền của giai cấp vơ sản, khơng thể nghĩ được đến việc duy trì chính quyền đó”[26, tr.57].
Theo Lênin, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân không chỉ quan
trọng ở giai đoạn giành chính quyền mà cịn có ý nghĩa to lớn trong q trình giữ chính
quyền, xây dựng xã hội mới. Khi giành được chính quyền, giai cấp vơ sản phải thiết lập nền
chun chính vơ sản dựa trên nền tảng liên minh cơng nơng, đây chính là điều cần và đủ
cho sự vững mạng của chính quyền Xơ viết. V.I.Lênin chỉ rõ: “Nguyên tắc tối cao nhất của
chuyên chính vơ sản là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp
vô sản có thể giữ được vai trị lãnh đạo chính quyền nhà nước”[26, tr.57]. Sau nội chiến,
V.I.Lênin đã thực hiện chính sách Kinh tế mới, trong đó chọn giải pháp “bắt đầu từ nông
dân”, từ khôi phục nông nghiệp, từ cải thiện đời sống nơng dân để ổn định tình hình đất
nước, phát triển kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu kế thừa và phát triển quan điểm về vai trò giai cấp nông dân của chủ nghĩa
Mác N - Lênin và thông qua thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, Hồ Chí Minh là người
đầu tiên nhìn thấy khả năng cách mạng to lớn của nông dân. Theo Người, nông dân Việt Nam
rất yêu nước, họ là lực lượng đông đảo, hùng hậu trong dân tộc chống đế quốc, chống phong
kiến, là bạn đồng minh chiến lược của giai cấp công nhân trong đấu tranh cách mạng dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân. Người chỉ rõ: “Nông dân lao động là lực lượng rất to lớn của
dân tộc, một đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công nhân”[33, tr.23].
Theo Hồ Chí Minh sức mạnh đồn kết tồn dân - trong đó chủ yếu là nơng dân - là

nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nếu giai cấp công
nhân và Đảng Cộng sản không lôi kéo được lực lượng cách mạng đơng đảo nhất này trong
dân tộc về phía mình thì khơng thể đưa cách mạng đi đến thành cơng: “Cách mạng muốn
thành cơng thì phải lấy dân chúng (cơng nơng) làm gốc”[32, tr.280]. Khẳng định vai trị to
lớn của nơng dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “lực lượng của chúng ta là hàng chục triệu đồng bào
nông dân lao động. Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo, thì lực lượng ấy sẽ làm xoay trời, chuyển đất,
bao nhiêu thực dân và phong kiến cũng sẽ bị lực lượng to lớn ấy đánh tan”[33, tr.23].
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh nơng dân là người trực tiếp
thực hiện và cụ thể hố đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần to lớn vào
xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội mới tốt đẹp. Hồ Chí Minh viết: “Việt Nam là một nước
sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng
12


nước nhà Chính phủ trơng mong vào nơng dân, trơng cậy vào nông nghiệp một phần lớn.
Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nơng dân ta thịnh thì nước ta thịnh”[31, tr.215].
Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, nông dân là lực lượng xã hội đông đảo, trực tiếp thực
hiện vai trị quan trọng trong nơng nghiệp. Lao động nông thôn không chỉ là nguồn nhân
lực chủ yếu và quyết định trong phát triển sản xuất và kinh tế nơng thơn mà cịn có đóng
góp quan trọng trong các hoạt động kinh tế - xã hội khác của cả nước, nhất là trong việc
cung cấp nguồn lao động cho cơng nghiệp, đơ thị hóa. Cư dân nơng thơn chiếm đa số dân
cư cả nước, tạo nền tảng của xã hội và lực lượng chính trị của chế độ. Vai trị quan trọng
của của nơng dân Việt Nam khơng chỉ được thể hiện trong phát triển kinh tế nông nghiệp,
xây dựng nơng thơn mới mà cịn trong tồn bộ tiến trình đổi mới, phát triển và hiện đại hóa
xã hội Việt Nam nói chung, nhất là trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay.
Thực tiễn lịch sử cách mạng nước ta qua các giai đoạn dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chứng minh vai trị của giai cấp nơng dân là vơ cùng quan trọng.
Hiện nay, nông dân vẫn là lực lượng đơng đảo và giữ vai trị quan trọng, kề vai sát cánh
cùng các giai tầng xã hội khác lập nên những kỳ tích thật đáng tự hào, góp phần quan trọng

đưa nơng nghiệp nước ta phát triển tồn diện, thúc đẩy đổi mới và thực hiện thắng lợi mục
tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước.

1.1.1.2. Hội nông dân Việt Nam
*. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Hội nông dân Việt Nam
Hội nông dân Việt Nam được thành lập 10/1930 với tên gọi tiền thân là
Tổng Nông hội Đông Dương. Hội được thành lập với mục đích ban đầu là
“Thống nhất hết thảy Tổng Nơng Hội Đông Dương để đấu tranh, bênh vực
quyền lợi hàng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa”
Trong suốt thời kỳ đấu tranh giành độc lập của đất nước, Hội nông dân
Việt Nam đã thay đổi nhiều tên gọi khác nhau cho phù hợp với từng nhiệm vụ,
giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Trong đó có các tên như: 06/8/1949
lấy tên gọi là “Ban Nơng vận Trung ương”; sau đó đến 07/12/1949 có tên gọi
“Ban liên lạc nơng dân tồn quốc” có nhiệm vụ vận động nông dân: tăng gia

13


sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã, hồn thành
giảm tơ, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mùn chữ.
Sau hơn 20 năm được thành lập, “Ban liên lạc nơng dân tồn quốc” đã
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần khơng nhỏ vào sự
nghiệp dành được độc lập dân tộc (1945) và công cuộc đánh thắng thực dân
Pháp xâm lược (1954). Tuy nhiên, trong những năm 1954 – 1975, đất nước ta
tiến hành thực hiện 2 nhiệm vụ song song là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền bắc và đánh thắng giặc Mĩ ở Miền nam để thống nhất đất nước. Chính
nhiệm vụ này đã chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động của “Ban liên lạc nơng
dân tồn quốc”. Do đó, để đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn trên, Ngày
21/4/1961, “Ban liên lạc nơng dân tồn quốc” đã thành lập thêm “Hội nơng
dân giải phóng miền Nam Việt Nam”. Hội này chính thức lần đầu tiên được

xác nhận là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Sự ra đời của Hội là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ chức nông
dân, mà trên thực tế hàng ngàn cơ sở Nông hội cứu quốc ở các khu, tỉnh,
huyện, xã đã được phục hồi đồng khởi. Trong thời gian dài được thành lập,
“Ban liên lạc nơng dân tồn quốc” nói chung, “Hội nơng dân giải phóng
miền Nam Việt Nam” nói riêng đã góp phần quan trọng trong việc phát triển
thế trận chiến tranh du kích, đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng, vùng căn cứ
và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm đời sống và cung cấp
hậu cần cho bộ đội. Hội tập trung vận động, tuyên truyền nơng dân cùng với
tồn Đảng, tồn dân thực hiện thành công công cuộc kháng chiến chống Mỹ
thống nhất nước nhà.
Sau khi đất nước giành được thống nhất và tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội, để đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới,
Ngày 27/9/1979, Ban Bí thư đưa ra Chỉ thị số 78 – CT/TƯ về việc tổ chức Hội
Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam. cũng trong thời gian này, Bộ Chính trị
14


đã quyết định thành lập tổ chức thống nhất của nơng dân lao động trong cả
nước, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, lấy tên là “Hội Liên hiệp Nơng
dán tập thể Việt Nam” với mục đích là phát triển sản xuất nơng nghiệp, lâm
nghiệp và đồn kết nông dân lao động, đưa nông thôn nước ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Đồng thời, Hội cũng có chức năng, nhiệm vụ tập hợp, đồn kết
nơng dân để giáo dục, vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta, hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội kết nạp tất cả nông dân hăng hái phấn đấu vào con
đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa, theo nguyên tắc tự nguyện.
Quán triệt tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng tồn qc lần thứ VI,
nhằm đẩy mạnh các hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thế Việt

Nam, ngày 24/3/1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 05/CTTW về tổ chức “Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam” thành “Hội
Nông dân Việt Nam”.
Từ ngày 28 đến 29/3/1988 tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
nhất “Hội Nông dân Việt Nam” được tổ chức, Đại hội đánh dấu cột mốc quan
trọng, một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử trong sự phát triển của phong trào
nông dân: Cho đến hiện nay, tên gọi“Hội Nông dân Việt Nam” được giữ
ngun, Hội ln là một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông
dân được chính thức thành lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở; khẳng
định những quan điểm cơ bản của Đảng ta về vai trị, vị trí của giai cấp nông
dân và của “Hội nông dân Việt Nam” trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời đề
ra những mục tiêu, nội dung hoạt động của hội, thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, nhất là trong giai đoạn thực hiện thắng lợi mục tiêu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay.
*. Quan niệm về Hội nông dân Việt Nam
15


Theo điều lệ của Hội nông dân Việt Nam chỉ rõ: “Hội nơng dân Việt
Nam là tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp nông dân, do Đảng Cộng Sản
Việt Nam lãnh đạo, là thành viên của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, cơ sở
chính trị của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Từ quan niệm này chỉ rõ các vấn đề cơ bản sau:
Một là, vị trí, vai trị của Hội nơng dân Việt Nam: Hội nơng dân Việt
Nam là một tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo; là thành viên của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đại diện
cho giai cấp nông dân, phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp nơng dân; đồn
kết, tập hợp nơng dân cùng với các giai cấp, tầng lớp, các lực lượng xã hội
khác thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Hai là, chức năng của Hội nông dân Việt Nam: Theo Điều 1 của Điều
lệ Hội nông dân Việt Nam đã chỉ rõ 3 chức năng cơ bản, đó là:

1. Hội nơng dân Việt Nam có chức năng tập hợp, vận động, giáo dục
hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập, nâng cao trình
độ, năng lực về mọi mặt.
2. Hội nơng dân Việt Nam đại diện giai cấp nông dân tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết dân tộc.
3. Hội nông dân Việt Nam chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nơng dân, tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn hỗ trợ
nông dân trong sản xuất và đời sống.
Ba là, nhiệm vụ của Hội nông dân Việt Nam: Theo Điều 2 của Điều lệ
Hội nông dân Việt Nam đã chỉ rõ 6 nhiệm vụ cơ bản, đó là:
1. Tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, nông dân hiểu và tích cực thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị
quyết, chỉ thị của Hội. Khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, ý chí cách
mạng, tinh thần tự lực, tự cường, lao động sáng tạo của nông dân.
16


2. Vận động, tập hợp, làm nòng cốt tổ chức các phong trào nơng dân phát
triển kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh; xây dựng nơng thơn mới.
3. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân. Trực
tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh
tế, văn hố, xã hội nơng thơn; hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập
thể trong nơng nghiệp, nông thôn. Tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ
trợ, dạy nghề, khoa học công nghệ giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống, bảo vệ mơi trường.
4. Đồn kết, tập hợp đơng đảo nơng dân vào tổ chức Hội, phát triển và
nâng cao chất lượng hội viên. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh về mọi mặt;
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội đáp ứng u cầu, nhiệm vụ thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
5. Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tham

gia giám sát và phản biện xã hội theo quy chế; tham gia xây dựng cơ chế,
chính sách phát triển nơng nghiệp, nơng dân, nơng thôn. Kịp thời phản ánh
tâm tư nguyện vọng của nông dân với Đảng và Nhà nước; bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nơng dân. Thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, giữ gìn đồn kết trong nội bộ nơng dân; góp phần xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội;
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.
6. Mở rộng hoạt động đối ngoại theo quan điểm, đường lối của Đảng,
tăng cường hợp tác, trao đổi, học tập kinh nghiệm, tiến bộ khoa học kỹ thuật,
quảng bá hàng hố nơng sản, văn hố Việt Nam với tổ chức nơng dân, tổ chức
quốc tế, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong khu vực và trên thế giới
Bốn là, mối quan hệ giữa Hội nông dân với các thành tố của hệ thống
chính trị - xã hội ở Việt Nam

17


- Mối quan hệ giữa Hội nông dân với Đảng Cộng sản Việt Nam: Trong
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chỉ rõ: “Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đồng thời, trong điều lệ của Hội Nông dân Việt
Nam cũng đã khẳng định: “Hội nông dân Việt Nam là đồn thể chính trị - xã
hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính
trị của Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy có thể thấy, mối quan hệ giữa Đảng cộng sản Việt Nam với
Hội nông dân là mối quan hệ lãnh đạo và phục tùng lãnh đạo. Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo Hội nơng dân thơng qua nhiều hình thức, phương pháp

khác nhau tùy theo đặc điểm, hoàn cảnh, nhiệm vụ của Hội trong mỗi giai
đoạn như: Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về cơ cấu, tổ chức và
hoạt động của Hội nông dân các cấp; Đảng lựa chọn cán bộ để giới thiệu, bố
trí sắp xếp vào các chức vụ trong Hội; Đảng thường xuyên theo dõi kiểm tra
hướng dẫn chỉ đạo Hội hoạt động theo đúng đường lối chủ trương chính sách
của mình; Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo thơng qua các tổ chức cơ sở Đảng
trong Hội do Đảng thành lập và các đảng viên làm việc Hội.
Đối với Hội nông dân thể hiện sự phục tùng lãnh đạo của Đảng thông
qua tuyệt đối trung thành, quán triệt, thực hiện sâu sắc mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng đã đề ra. Các đảng viên trong Hội thực hiện
nghiêm túc các điều lệ Đảng, các quy định trong Hội đề ra...
- Mối quan hệ giữa Hội nông dân với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Theo
điều lệ của Hội nông dân Việt Nam chỉ rõ: “Hội nông dân Việt Nam là thành
viên của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước cộng hòa
18


xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, Hội nông dân Việt Nam cũng như các
tổ chức chính trị xã hội khác là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Mối quan hệ giữa Hội nông dân Việt Nam với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
mối quan hệ giữa thành viên với tổ chức.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập và thực hiện dựa trên cơ sở
tự nguyện tán thành, hiệp thương dân chủ, đoàn kết chân thành, phối hợp và
thống nhất hành động của các tổ chức chính trị, xã hội, trong đó có Hội nơng
dân Việt Nam. Do đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức trực tiếp có vai
trị rất quan trọng trong củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết giữa Hội nơng
dân với các tổ chức chính trị, xã hội khác, tạo nên sự nhất trí về chính trị và
tinh thần trong các giai cấp, tầng lớp khác nhau và trong toàn thể nhân dân;
thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi
cơng cuộc đổi mới.

Bên cạnh đó, Hội nơng dân Việt Nam là thành viên trong Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Do đó, Hội nơng dân Việt Nam phải chấp hành, thực hiện
triệt để các nghĩa vụ trong điều lệ, chương trình Mặt trận đã đề ra, đồng thời
phải có trách nhiệm, tích cực trong tham gia xây dựng tổ chức mặt trận ngày
càng phát triển và thực hiện tốt vai trị của mình.
- Mối quan hệ giữa Hội nơng dân với Nhà nước: là một tổ chức chính
trị, xã hội đại diện của giai cấp nông dân Việt Nam, cho nên mối quan hệ cơ
bản giữa Hội nông dân với Nhà nước là mối quan hệ hợp tác. Ðiều này xuất
phát từ sự thống nhất mục đích là xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao tính
tích cực xã hội của công dân, bảo vệ các quyền, tự do cơ bản của công dân.
Sự hợp tác thể hiện rõ trong các nội dung như: hợp tác phát sinh trong
quá trình thiết lập các cơ quan Nhà nước; hợp tác phát sinh trong quá trình xây
dựng pháp luật; hợp tác trong lĩnh vực thực hiện pháp luật và hợp tác trong
kiểm tra lẫn nhau: Hội nơng dân có thể kiểm tra hoạt động của các cơ quan
19


Nhà nước, ngược lại các cơ quan Nhà nước kiểm tra sự hợp pháp trong việc
thành lập, hoạt động của chính Hội nơng dân.
- Mối quan hệ giữa Hội nơng dân với các tổ chức chính trị - xã hội
khác: là một tổ chức chính trị xã hội; cơ sở chính trị của Nhà nước cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cùng với các tổ chức chính trị xã hội khác trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, do đó mối quan hệ giữa Hội nơng dân với các tổ
chức chính trị - xã hội khác là mối quan hệ hợp tác bình đẳng, đồn kết chân
thành, tơn trọng lẫn nhau, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành
động để cùng thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phịng, an ninh, đối ngoại của Nhà nước ta.
1.1.2. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn ở Việt Nam hiện nay
1.1.2.1. Quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng ta về cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thôn trong giai đoạn hiện nay
Từ cuối năm 1986 đến giữa năm 1996, đất nước Việt Nam đã trải qua
10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng với hai kế hoạch kinh tế xã hội
5 năm. Trong 10 năm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã
phát huy cao độ nội lực của dân tộc, kiên trì mục tiêu cách mạng xã hội chủ
nghĩa vì độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh và giành được những thành tựu to lớn. Tuy còn một số mặt yếu kém,
chưa vững chắc, song đất nước ta cơ bản đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, đồng thời có điều kiện để chuyển sang thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Chính vì vậy, trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định cẩn tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến
lược, đó là: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó nhấn mạnh: “Mục tiêu của cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xây dựng đất nước ta thành một nước cơng nghiệp có cơ
20


sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.
Bước sang thế kỷ 21, trước xu thế phát triển của thế giới cũng như yêu
cầu, nhiệm vụ của đất nước trong thời kỳ mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh và
đề cao vai trị của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn. Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Công nghiệp hố,
hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”[13, tr.94]; đồng thời xác
định rõ: "Trong nhiều năm tới, vẫn coi cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp và nơng thơn là một trọng điểm cần tập trung sự chỉ đạo và các nguồn
lực cần thiết"[13, tr.32].

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn, giải quyết
đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Sau hơn 20 năm đổi
mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đúng đắn vị trí và vai trị quan trọng của
nơng nghiệp, nơng dân và nơng thơn trong phát triển đất nước. Do vậy, tại
Nghị quyết TW 7 khoá X (2008) đã đề ra quan điểm, mục tiêu và những giải
pháp chủ yếu để phát triển toàn diện và vững chắc nơng nghiệp, nơng dân, nơng
thơn, vì lợi ích của người dân, vì sự phát triển cộng đồng và thực hiện đoàn kết
dân tộc - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đến Đại hội XI của Đảng, Đảng ta đã xác định đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn là một trong năm định hướng cần
thực hiện nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và
bền vững đất nước. Trong đó chỉ rõ: “Phát triển nơng nghiệp tồn diện, hiệu
quả, bền vững theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy ưu thế của
21


nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nơng dân, nơng
thơn. Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ,
phát triển sản xuất nơng nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng hiệu
quả cao...Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nông dân...”[19, tr.38 – tr.39].
1.1.2.2. Quan niệm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn ở nước ta hiện nay
Theo Nghị quyết TW7 Khố VII Đảng ta đã đưa ra khái niệm cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: “Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa là q
trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa

học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Từ quan niệm này có thể khẳng định:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp: là q trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với cơng nghiệp chế
biến và thị trường; thực hiện cơ khí hố, điện khí hố, thuỷ lợi hố, ứng dụng thành
tựu khoa học công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và
công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng nơng sản hàng hố trên thị trường.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng thơn: là q trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động
nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông
thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản

22


×