Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Luận Văn Lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ KHÁNH LY

LÝ TƢỞNG THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG
SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60 22 03 01

HÀ NỘI – 2016

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ KHÁNH LY

LÝ TƢỞNG THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG
SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Tr ết ọc


Chuyên ngành
Mã số

: 60 22 03 01

Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn T u Ng ĩa

HÀ NỘI – 2016

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống, ai cũng đều có n

ng mục tiêu, n

ng lý tưởng tốt

đẹp để ướng tới. Mục tiêu ấy, lý tưởng ấy ướng con người đến cái hoàn
thiện, cái tốt đẹp. Lý tưởng là mục đíc sống, là ý ng ĩa của mỗi cuộc đời. Lý
tưởng quyết định sự thành bại của mỗi người nếu biết lựa chọn đúng. Lý
tưởng giúp con người tăng t êm sức mạnh và niềm tin để có thể thành công
trong cuộc sống và sự nghiệp, cũng n ư vượt qua được nh ng k ó k ăn và trở
ngại. Lý tưởng có nhiều loại, điển hình là lý tưởng thẩm mỹ và lý tưởng xã
hội. Lý tưởng thẩm mỹ khác với lý tưởng xã hội ở chỗ nó là cái tồn vẹn, cụ
thể, cảm tính, là một ìn tượng sin động, hấp dẫn, có khả năng tạo ra khối
cảm thẩm mỹ. Hìn tượng trung tâm trong mọi ìn tượng chính là mẫu
người lý tưởng. Lý tưởng thẩm mỹ là tổng thể p ương ướng cơ bản của đời

sống được đúc kết lại thành hình ảnh mẫu mực, cảm quan của sự hoàn thiện,
hoàn mỹ của con người và xã hội, là sự cố gắng, nỗ lực hoàn thiện của con
người, để giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc.
Lý tưởng thẩm mỹ thể hiện ở nhiều lĩn vực n ưng ng ệ thuật là lĩn
vực được thể hiện rõ ràng và tập trung nhất. Lý tưởng thẩm mỹ thể hiện qua
các ìn tượng, các nhân vật, các tình tiết trong nội dung mà nghệ thuật
truyền đạt. K i người nghệ sĩ có lý tưởng thẩm mỹ rõ ràng, đúng đắn sẽ có
thể c o ra đời nh ng tác phẩm nghệ thuật ý ng ĩa và có sức tồn tại lâu dài. Lý
tưởng thẩm mỹ đó có thể được các tác giả truyền tải qua các ìn tượng. Một
tác phẩm nghệ thuật àm c ứa lý tưởng thẩm mỹ sẽ mang một nội dung lành
mạn , có ý ng ĩa và sẽ đem lại c o người t ưởng thức nh ng bài học, nh ng
tư tưởng đúng đắn. K i có lý tưởng thẩm mỹ, hoạt động nghệ thuật sẽ xác
địn được cần thể hiện vấn đề gì, nội dung tác phẩm sẽ n ư thế nào, từ đó

3


tránh việc có nh ng tác phẩm khơng có nội dung hay nội dung mang ý ng ĩa
tầm t ường.
Trong giai đoạn nước ta đang lâm vào cảnh chiến tranh ác liệt, nội dung
mà các tác phẩm nghệ thuật ướng đến chính là nội dung về Tổ quốc, về đất
nước, về lý tưởng giải p óng dân tộc, giải p óng giai cấp, giải p óng con
người. Tình cảm lứa đơi được đặt trong tình u q ương, đất nước, u
chuộng hịa bình. Các tác phẩm ấy đã đi cùng thời gian, sống mãi trong lòng
bao thế hệ người dân Việt Nam để đến giờ khi nhìn lại ta vẫn thấy ở nh ng
tác phẩm ấy toát lên ý ng ĩa t ời đại. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay,
đứng từ góc độ lý tưởng thẩm mỹ có thể thấy, hoạt động sáng tạo nghệ thuật
c ưa mang trong mình nh ng nội dung n ư t ời kỳ trước. Nội dung mà nghệ
thuật hiện nay ướng đến chủ yếu là nh ng nội dung về con người cá nhân
chứ c ưa mang ý ng ĩa xã ội. Nh ng tác phẩm nghệ thuật hiện nay tuy nhiều

n ưng t iếu tính điển hình, thiếu ý ng ĩa, t iếu tín địn

ướng. Con người cá

nhân với nh ng tình cảm c ưa có yếu tố lý tưởng được sử dụng làm nội dung
chính của nhiều tác phẩm nghệ thuật. Có thể nhận thấy vấn đề này thể hiện rất
nhiều trong các ca khúc, truyện ngắn, tiểu thuyết, phim,.. Ở nhiều tác phẩm,
lý tưởng thẩm mỹ đã bị xem nhẹ, n ường chỗ cho việc bộc lộ cái tôi bản thân
quá cao. Họ đã quên đi cái lý tưởng mà xã hội đang cần k ơi dậy và ướng
đến. T ế ệ trẻ hiện nay tham gia trực tiếp vào các hoạt động sáng tạo, đán
giá và t ưởng thức nghệ thuật n ưng phần đơng lại c ưa có cái n ìn đúng đắn
về nghệ thuật thực sự, điều đó dẫn đến các tác phẩm nghệ thuật hiện nay rơi
vào trạng thái thiếu lý tưởng hay sai lệc lý tưởng. Vấn đề này là một trong
nh ng vấn đề quan trọng cần được giải quyết sớm để nghệ thuật nước nhà
phát triển t eo đúng địn

ướng mà Đảng và N à nước ta đề ra đó là tiên tiến

và đậm đà bản sắc dân tộc.

4


Hoạt động sáng tạo nghệ thuật hiện nay thiếu đi n

ng tác phẩm thực

sự, nh ng tác phẩm mang trong mìn lý tưởng thẩm mỹ. Các tác phẩm nghệ
thuật hiện nay cịn chạy theo số đơng, chạy theo vịng xốy của nền kinh tế thị
trường, chính vì thế c ưa có n iều tác phẩm tồn tại được lâu dài trong lịng

cơng chúng cũng n ư c ưa tạo được cho khán giả nh ng cái nhìn mới về hiện
thực cuộc sống, về tương lai và n

ng địn

ướng ý ng ĩa.

Có thể thấy, hiện nay nhiều hoạt động sáng tạo nghệ thuật còn c ưa
đúng t eo ý ng ĩa mà nó cần có. Chính vì thế, cần có nh ng đán giá k ác
quan, nh ng giải p áp cơ bản để có thể đưa ng ệ thuật nước n à đến gần với
lý tưởng thẩm mỹ. Nhận thấy tầm quan trọng đó, luận văn ướng đến giải
quyết vấn đề “Lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở
Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu l ên quan đến đề tài
Lý tưởng thẩm mỹ nói chung và vai trò của lý tưởng thẩm mỹ trong
hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói riêng đã được nghiên cứu trên thế giới và
Việt Nam từ khá lâu.
A.Belich trong cuốn Mỹ học và thời đại ngày nay, Nxb Chính trị,
Matxcova, 1967, c ương I: “Thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ” có đề
cập đến nội dung lý tưởng thẩm mỹ. Trong bài này tác giả xem xét nội dung
của lý tưởng thẩm mỹ trong việc vạch rõ mối quan hệ của nó với lý tưởng xã
hội nói chung, làm rõ nguồn gốc của nó. T eo ơng, “lý tưởng thẩm mỹ là tài
sản của xã hội hiện tại, là một trong nh ng mặt của bộ mặt tinh thần của xã
hội” [2, tr.16], “lý tưởng thẩm mỹ khơng tồn tại n ư một cái gì đó cụ thể”.
N ư vậy, tác giả khẳng địn lý tưởng thẩm mỹ là lý tưởng thuộc về xã hội,
không chỉ là lý tưởng của từng cá nhân riêng lẻ. Tuy n iên đôi k i tùy vào
từng xã hội mà tồn tại nhiều lý tưởng thẩm mỹ song song, vậy đâu là lý tưởng
thẩm mỹ cao nhất, có ý ng ĩa n ất? T eo A.Belic “lý tưởng cộng sản chủ

5



ng ĩa là sự thể hiện cao nhất của cái đẹp, lý tưởng đó t u út vào trong mìn
tất cả cái đẹp tụ lại. Cái đẹp của lý tưởng cộng sản chủ ng ĩa k ông phải cái
đẹp ảo tưởng của một sự hồn thiện huyền thoại nào đó ay là của con người
nói c ung, mà là cái đẹp của các mặt quyết định (kinh tế, chính trị, pháp luật,
đạo đức của đời sống xã hội của người ta, của chủ ng ĩa n ân đạo” [2, tr.19].
N ư vậy, đối với Belich, lý tưởng cộng sản được coi là lý tưởng cao nhất, lý
tưởng chung nhất và có ý ng ĩa lớn.
Lý tưởng t ẩm mỹ được M.F.Ốpxiannhicốp đề cập đến trong cuốn Mỹ
học cơ bản và nâng cao, Nxb Văn óa Thơng tin, 2001. Ơng cho rằng, lý
tưởng thẩm mỹ là một bộ phận hợp t àn k ăng k ít trong lý tưởng của một
nhóm xã hội, một giai cấp, một xã hội nhất định [42, tr.163]. Đặc trưng của lý
tưởng thẩm mỹ, khác biệt của nó so với các lý tưởng k ác c ín là đối tượng
và p ương t ức phản ánh thực tại đang k ông ngừng phát triển [42, tr.168].
Lý tưởng thẩm mỹ là mức độ tổng hợp và khái quát hóa cao nhất, n ưng vẫn
là khái quát thẩm mỹ, chứ không biến thành khái niệm khoa học trừu tượng
và vẫn gi được tính trực quan, cụ thể cảm tín . Đồng thời, lý tưởng thẩm
mỹ, khi đã ìn t àn , lại trở thành tiêu chuẩn cao nhất để đán giá về mặt
tình cảm thẩm mỹ tất cả mọi ấn tượng thẩm mỹ sau này, t àn “k n vàng
t ước ngọc” qua đó người nghệ sĩ (cũng n ư người xem, người đọc, người
ng e) xem xét và đán giá t ực tại mà anh ta phản ánh [42, tr.178].
Ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến các cơng trình mỹ học của GS,TS.Đỗ
Huy . Ngồi việc chủ biên và đồng chủ biên một số cơng trình, tác giả Đỗ
Huy đã có n iều ấn phẩm mỹ ọc có giá trị. Đó là: Mỹ học với tư cách là một
khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Mỹ học khoa học về các
quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Đạo đức học, mỹ học
và đời sống văn học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, v.v..
Nghiên cứu lý tưởng thẩm mỹ được tác giả đề cập đến trong cuốn Giáo dục


6


thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Tác giả khẳng địn “con người
cần và phải có lý tưởng” [15, tr.132], lý tưởng là yếu tố khơng thể khơng có
trong mỗi người, “lý tưởng thẩm mỹ Mác - Lênin phản ánh các hoài bão, các
chiều ướng, các nội dung cơ bản của nh ng giá trị thẩm mỹ trong cuộc sống
và nghệ thuật. Nó là ngọn đèn soi tỏ cho mỗi người xây dựng ước mơ đúng
đắn và giúp nghệ sĩ sáng tạo ra nh ng tác phẩm mà nội dung của chúng biểu
hiện chủ ng ĩa lãng mạn cách mạng hợp quy luật” [15, tr.134]. N ư vậy, GS.
Đỗ Huy đưa ra các

iểu về lý tưởng thẩm mỹ Mác - Lênin, chủ ng ĩa Mác -

Lênin ướng con người t eo lý tưởng cách mạng, lý tưởng cách mạng là lý
tưởng cơ bản nhất, ý ng ĩa n ất. Đồng thời trong cuốn sách này cũng đề cập
đến việc “giáo dục lý tưởng thẩm mỹ chính là nhằm xây dựng các khả năng
sáng tạo phù hợp với quy luật về sự phát triển của con người mới và một xã
hội mới” [15, tr.151]. Ở đây tác giả đề cao việc giáo dục thẩm mỹ cho con
người bởi đây là các để mỗi người ướng đến các giá trị nghệ thuật trong
cuộc sống. Muốn vậy con người phải đi sâu vào cuộc sống để từ hiện thực
cuộc sống đó đưa ra ìn mẫu con người lý tưởng để tất cả đều có địn

ướng

phấn đấu cụ thể.
Cuốn Mấy vấn đề của mỹ học hiện nay do GS. Đỗ Huy chủ biên, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988 chỉ ra một trong nh ng vấn đề cơ bản của mỹ
học hiện nay là xây dựng các tình cảm thẩm mỹ mới c o n ân dân lao động.
Có thể nói, mỹ học góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng con người

mới. Vấn đề xây dựng các tình cảm thẩm mỹ hay xây dựng con người mới
đều cần bắt đầu từ xây dựng lý tưởng thẩm mỹ, “k i địn

ướng các tình cảm

thẩm mỹ mới c o n ân dân lao động, ánh sáng xuyên suốt các quá trình thẩm
mỹ, các quan hệ thẩm mỹ của xã hội mới - đó là lý tưởng thẩm mỹ. Giáo dục
lý tưởng thẩm mỹ trở thành vấn đề trung tâm của mỹ học hiện nay” [16, tr.37].

7


Cuốn Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2000 cũng có đề cập đến các vấn đề lý tưởng thẩm mỹ và nghệ thuật.
Tác giả Đỗ Huy đã c ỉ ra định ng ĩa ng ệ thuật t eo quan điểm Mác - Lênin:
“ng ệ thuật là một hình thái ý thức, ra đời từ lao động và chiến đấu, từ các
nhu cầu miêu tả, tín ngưỡng đán giá và rút ra n ưng bài ọc về cuộc sống.
Vì thế, nghệ thuật có một vai trị và ý ng ĩa xã ội rất sâu sắc và rộng lớn”
[18, tr.326]. Con người trở thành trung tâm của nghệ thuật, nghệ thuật là sản
phẩm của hoạt động sáng tạo của con người. Con người nhờ nghệ thuật có thể
làm chủ các tình cảm của mình, xâm nhập vào các quy luật khách quan một
cách tự do. Hìn tượng nghệ thuật chủ yếu được thể hiện qua ba tư các : tư
các p ương tiện phản án , tư các sản phẩm của sáng tạo và tư các đối
tượng t ưởng thức thẩm mỹ. Nghệ thuật góp phần quan trọng vào việc truyền
tải hiện thực đồng thời ướng con người đến nh ng yếu tố tốt đẹp trong tương
lai tươi sáng, ướng con người tới đấu tran vì tương lai đó.
Ngồi ra, ở Việt Nam cuốn Mỹ học Mác - Lênin của Vĩn Quang Lê, đã
trình bày nh ng vấn đề tóm tắt nhất về lý luận mỹ học và quá trình sáng tạo
nghệ thuật. Đặc biệt, cuốn sách diễn giải các vấn đề liên quan đến sáng tạo
của nghệ sĩ và n


ng tư liệu nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới. Ở đây, tác giả

đã đưa ra địn ng ĩa về lý tưởng thẩm mỹ: “lý tưởng thẩm mỹ là lý tưởng về
cái đẹp mà chủ thể thẩm mỹ và con người thẩm mỹ hướng tới” [30, tr.36].
Khơng chỉ vậy, tác giả cịn nêu ra đặc điểm riêng của lý tưởng thẩm mỹ: gắn
liền với xã hội tiên tiến, vai trò của lý tưởng thẩm mỹ là đán giá và sáng tạo
ra các giá trị thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ là mục tiêu mà con người ướng
đến, lý tưởng thẩm mỹ có tính tổng hợp, tính tồn diện, nó gắn với suy ng ĩ
tự do độc đáo của chủ thể, lý tưởng thẩm mỹ Mác -Lênin có vai trị sáng tạo
ra cái đẹp của mỗi nghệ sĩ đồng thời làm cho nghệ thuật ngày càng phát triển
hoàn thiện.

8


Bên cạn các sác được xuất bản, cũng có rất nhiều bài viết trên tạp
c í, báo điện tử đề cập đến vấn đề lý tưởng thẩm mỹ:
Trên trang Blog của mình, tác giả Đào Duy T an đưa ra n

ng khái

niệm cơ bản về lý tưởng thẩm mỹ. T eo ông, “lý tưởng thẩm mỹ biểu hiện tập
trung cao nhất của nhu cầu thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ;
hay nói một các k ác lý tưởng thẩm mỹ là giai đoạn cao nhất của nhận thức,
đán giá và sáng tạo thẩm mỹ. Mọi xúc cảm, biểu tượng, p án đoán, đán giá,
cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ đều do lý tưởng thẩm mỹ chi phối và tập trung ở
lý tưởng thẩm mỹ” [69]. N ư vậy, có thể thấy ở đây Đào Duy T an coi lý
tưởng thẩm mỹ là yếu tố cao nhất của ý thức thẩm mỹ, mọi hoạt động thẩm
mỹ đều ướng đến yếu tố này. Đây được coi n ư một điểm đíc để chúng ta

ướng đến. Lý tưởng thẩm mỹ nói lên sự hồn thiện của sự vật, hiện tượng
trong cuộc sống con người. Tác giả có lý k i coi lý tưởng thẩm mỹ có thể chi
phối mọi vấn đề về xúc cảm, biểu tượng… bởi lý tưởng là cái đi trước, được
địn

ìn trước trong mỗi người và con người có khát vọng ướng đến nh ng

điều tốt đẹp mà họ mong muốn. Trong bài viết này, bên cạnh viêc chỉ ra quan
điểm về lý tưởng thẩm mỹ, tác giả cịn tập trung p ân tíc lý tưởng thẩm mỹ
của các giai đoạn nghệ thuật. Việc nghiên cứu này c ưa làm rõ được một cách
toàn diện về lý tưởng thẩm mỹ mà mới dừng lại ở việc chỉ ra các biểu hiện
của lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật.
Trên trang t ông tin điện tử của “Tạp chí Cộng sản” ngày 29/04/2012
có bài viết “Giáo dục về lý tưởng để thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 khóa XI” của Trần Trọng Tân, Nguyên UVTW Đảng, Trưởng ban
TTVH Trung ương. Bài viết đặt vấn đề bằng dẫn chứng hiện nay có một bộ
phận khơng nhỏ cán bộ đảng viên gi vị trí lãn đạo suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống. Điều đó được biểu hiện cụ thể qua sự phai nhạt lý
tưởng, chính vì vậy giáo dục lý tưởng là điều cần phải làm. Trong bài viết, tác

9


giả chỉ ra: “Lý tưởng Cộng sản Chủ ng ĩa được hiểu một các tóm lược có 3
mặt, đó là lý tưởng xã hội, lý tưởng đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ” [70]. N ư
vậy, lý tưởng thẩm mỹ được coi là một bộ phận quan trọng trong lý tưởng
Cộng sản, nó kết hợp và tạo thành bộ ba lý tưởng v ng chắc c o lý tưởng
cộng sản. Tác giả cũng đi đến địn ng ĩa về lý tưởng thẩm mỹ: “lý tưởng
thẩm mỹ của chủ ng ĩa cộng sản là một giai đoạn cao nhất và mới về chất
trong sự phát triển thẩm mỹ của loài người. Cơ sở của lý tưởng thẩm mỹ ấy là

sự phát triển toàn diện và hoàn chỉnh của sức sáng tạo của mỗi người, kết hợp
trong mình một cách hài hịa sự phong phú về tinh thần, sự trong sạch về đạo
đức và hoàn thiện về thể chất. Trong nghệ thuật lý tưởng thẩm mỹ biểu hiện
tập trung nhất ở ìn tượng nghệ thuật được sáng tạo trong mọi hoạt động của
con người, được dùng làm tiêu chuẩn đán giá cái đẹp trong đời sống và trong
nghệ thuật…” [70]. N ư vậy có thể thấy lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật
cũng được nêu và nhận định rõ ràng trong quan hệ với lý tưởng cộng sản.
Người làm nghệ thuật cần nắm được yếu tố lý tưởng thẩm mỹ để có thể cho ra
đời một tác phẩm có ích, mang giá trị cao. Hìn tượng nghệ thuật trong một
tác phẩm có ý ng ĩa p ải là ìn tượng được sáng tạo trong hoạt động của con
người, được dùng làm tiêu chuẩn để đán giá cái đẹp trong đời sống cũng n ư
trong nghệ thuật.
Nghiên cứu về lý tưởng thẩm mỹ ở nước ta trong mấy năm gần đây
không thể không kể đến các luận án tiến sĩ, luận văn t ạc sĩ:
Luận án tiến sĩ triết học “Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng lực
sáng tạo của con người”, Nguyễn Ngọc Thu, Viện Triết học đã c o t ấy vai
trò của thẩm mỹ đối với sự phát triển năng lực sáng tạo của con người. Tác
giả đi đến làm rõ năng lực sáng tạo của con người là gì từ đó đưa ra n
dung để giải quyết vấn đề cơ bản mà luận án đề cập đến.

10

ng nội


Luận văn Hoạt động giáo dục nghệ thuật của các đơn vị nghệ thuật
biểu diễn quốc gia trên địa bàn Hà Nội của tác giả Phạm Bích Huyền đã đề
cập đến vấn đề giáo dục nghệ thuật. Đây là một vấn đề quan trọng bởi nếu giáo
dục nghệ thuật k ông đúng ướng sẽ tạo ta một nghệ thuật lệch lạc, sai trái.
Luận án triết học Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần con

người của tác giả Đào Duy T an được thực hiện tại Viện Triết học, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam năm 2000, đã từ góc độ triết học, mỹ học để lý
giải và làm rõ vai trò của nghệ thuật trong một số lĩn vực cơ bản nhất. Từ
luận án này, ta có thể thấy được nghệ thuật có vai trị quan trọng trong cuộc
sống con người, chính vì thế có nh ng cách tiếp cận phù hợp.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã tiếp
cận lý tưởng thẩm mỹ từ các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề “Lý tưởng
thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay” c ưa
được đề cập đến. Vì thế, tác giả mong muốn có một sự đóng góp n ất định
vào việc phản ánh, phân tích, làm rõ nội dung ý ng ĩa của lý tưởng thẩm mỹ
trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đíc và n ệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực
trạng cùng một số nhân tố tác động đến lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động
sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm góp p ần địn

ướng lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng

tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đíc trên, luận văn giải quyết
nh ng nhiệm vụ c ín sau:
+ Trìn bày quan điểm của một số nhà mỹ học tiêu biểu trong lịch sử
mỹ học về lý tưởng thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo nghệ thuật;

11


+ Trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về lý tưởng thẩm mỹ và hoạt
động sáng tạo nghệ thuật: khái niệm, bản chất, nội dung;

+ Phân tích thực trạng lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ
thuật ở Việt Nam hiện nay; Chỉ ra một số nhân tố tác động đến lý tưởng thẩm
mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay. Tập trung làm
rõ trong loại hình nghệ thuật: văn c ương, âm nhạc và điện ảnh.
+ Đề xuất một số giải pháp góp p ần địn

ướng lý tưởng thẩm mỹ

trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
4. Đố tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt
động sáng tạo nghệ thuật.
Phạm vi luận văn ng iên cứu vấn đề lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động
sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, tập trung vào lĩn vực âm nhạc, văn
c ương và điện ản .
5. Cơ sở lý luận và p ƣơng p áp ng ên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ ng ĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ C í Min và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
lý tưởng, lý tưởng thẩm mỹ và văn óa nghệ thuật.
Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên p ương p áp luận biện chứng duy
vật, luận văn sử dụng các p ương p áp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy
nạp, logic - lịch sử, k ái quát, đối chiếu, so sán …
6. Ý ng ĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp p ần vào việc tìm hiểu nội dung, vai trị của lý tưởng
thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có t ể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng
dạy mỹ học, nghệ thuật học tại các trường Đại học, các trường chuyên nghiệp.

12



7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 c ương và 6 tiết.

13


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LÝ TƢỞNG THẨM MỸ VÀ
HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
1.1. Lý tƣởng thẩm mỹ
1.1.1. Một số quan điểm về lý tưởng thẩm mỹ trong lịch sử mỹ học
Mỹ học là khoa học nghiên cứu đời sống thẩm mỹ của con người, của
xã hội loài người. Ngay từ thời xã hội nơ lệ cổ đại đã có n

ng mầm mống

của việc nghiên cứu mỹ học. Nh ng n à tư tưởng cổ đại nghiên cứu và tổng
kết kinh nghiệm t ẩm mỹ thực tiễn tạo ra nh ng cơ sở đầu tiên trong lĩn vực
này. Ngay trong chính cuộc sống sinh hoạt của xã hội loài người cũng xuất
hiện vấn đề mỹ học, nó phản ánh tính chủ quan của con người vào sự vật hiện
tượng hay còn gọi là mỹ cảm thẩm mỹ. Từ đó dần dần phát triển lên thành ý
thức thẩm mỹ, nghệ thuật…
Mỹ học là khoa học nghiên cứu các quan hệ thẩm mỹ và hoạt động
thẩm mỹ của con người, nhằm khám phá, phát hiện ra nh ng giá trị thẩm mỹ
trên cơ sở quy luật của cái đẹp, trong đó có ng ệ thuật là giá trị cao nhất. Mỹ
học nghiên cứu ý thức thẩm mỹ của con người, nh ng cấp độ hoạt động của ý
thức thẩm mỹ của con người với tư các là c ủ thể thẩm mỹ bao gồm: đặc
điểm của ý thức thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, quan điểm
thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ. Mỹ học nghiên cứu các phạm trù mỹ học n ư

nh ng công cụ tư duy n ằm nhận thức, đán giá các hiện tượng thẩm mỹ
trong đời sống và trong nghệ thuật.
N ư vậy, mỹ học là khoa học gắn với đời sống hiện thực của con
người. Nhiệm vụ của mỹ học không chỉ k ái quát c o con người biết đâu là
cái đẹp, cái đẹp là gì mà cịn đưa ra một hình mẫu, một địn

ướng hay nói

cách khác là ướng chúng ta đến một lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp. Chính lý

14


tưởng thẩm mỹ đó đã góp p ần quan trọng vào việc địn

ướng t ẩm mỹ cho

đông đảo quần c úng n ân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Nghiên cứu mỹ học không phải hoạt động mới mẻ mà đã có cả một lịch
sử lâu dài từ thời Hy Lạp cổ đại đến nay. Ngay cả vấn đề về lý tưởng thẩm
mỹ cũng được nh ng nhà triết học cổ đại Hy Lạp nghiên cứu từ khá sớm.
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia nổi tiếng Hy Lạp đã bắt đầu hình thành
nh ng tư tưởng có giá trị về lý tưởng. Người đầu tiên có nh ng tư tưởng về
vấn đề này là Platôn (427 - 347 TCN). Ông là nhà triết học và mỹ học duy
tâm Hy Lạp cổ đại, là học trị của Xơcrát. Platơn cũng là một trong nh ng nhà
triết học có tư tưởng đối địch sâu sắc nhất đối với Đêmơcrít và chủ ng ĩa duy
vật. Lênin đán giá ông là một trong số các nhà triết học quan trọng đã tạo ra
hẳn một đường ướng xuyên suốt trong lịch sử triết học.
Triết học của ông là triết học duy tâm, đường ướng triết học duy tâm
điển hìn này tương p ản với đường ướng triết học duy vật điển hình của

Đêmơcrít. Platơn được biết đến khơng chỉ với vai trị của một nhà triết học,
một nhà chính trị mà cịn là một nhà mỹ học với nh ng tư tưởng tiến bộ và có
ý ng ĩa. Ơng có n iều tác phẩm, trong các tác phẩm đều ít nhiều đề cập đến
mỹ học và nghệ thuật n ưng lại mang đậm mầu sắc của siêu hình học. Các tác
phẩm mỹ học chủ yếu của ông n ư: Hippiat Anh, Bữa tiệc, Timê, Ion, Đối
thoại, hà nước lý tưởng,..
Do ản

ưởng của chế độ xã hội lúc bấy giờ Platôn đã đưa nhà triết học

lên vị trí àng đầu, cịn nh ng người dân lao động k ông được ông đề cao, họ
nằm ở hàng cuối cùng trong bậc thang xã hội. Điều này do hoàn cảnh xã hội
lúc bấy giờ quy định, c ưa có sự t ay đổi nào mang tính tổng thể. Chính bởi
thế, khi nh ng nghệ sĩ có tâm ồn nhạy cảm, xót t ương cảnh ngộ của nhân
dân mà đưa ra n

ng bức tranh lột tả hiện thực xã hội đều bị ông kịch liệt

phản đối và đòi đưa ọ ra khỏi n à nước lý tưởng của ông. Lý tưởng thẩm mỹ

15


về con người đẹp mà Platon xây dựng đó là ìn ảnh một thầy tu uyên bác
phát ngôn cho lý trí của thần t án . Lúc đó yếu tố thần quyền được đề cao
ơn n iều các yếu tố hiện thực xã hội. Cũng do ản

ưởng của chế độ xã hội

lúc bấy giờ mà mặc dù Platon coi t ường nghệ thuật phản ánh cuộc sống,

“ng ệ sĩ k ông có tri t ức thật trước sự vật được miêu tả, sáng tạo nghệ thuật
chủ yếu dựa vào linh cảm”[22, tr.93]. Platon một mặt cho rằng nghệ thuật có
hại với tơn giáo do nó đả kích thần, khêu gợi tình dục, một mặt ơng phản đối
tính dân chủ trong nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Trong n à nước này, nghệ thuật
phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ, n à nước chỉ cho phép một số loại hình nghệ
thuật tồn tại, đó là n

ng loại hình góp phần tạo ra tín dũng cảm và chân

thực của người cơng dân biết phục tùng. Với quan điểm bảo thủ, Platon đòi
gạt tất cả các n à t ơ ra k ỏi n à nước lý tưởng của ơng vì t ơ ca có ại cho
sự nghiệp giáo dục của ơng.
Sự ra đời của các quan niệm về lý tưởng thẩm mỹ ở giai đoạn Hy Lạp
cổ đại đã đặt nền móng c o sự p át triển của các quan niệm về lý tưởng t ẩm
mỹ ở các giai đoạn sau. Đến giai đoạn cổ điển Đức, mỹ học đã có sự phát
triển ơn với đại diện là I. Kant, Hegel…
I. Kant (1724 - 1804) là nhà triết học Đức có nhiều đóng góp lớn trong
nền triết học nhân loại. Ơng đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp triết học.
Ba tác phẩm thể hiện toàn bộ hệ thống triết học của Kant là Phê phán lý tính
thuần túy (1781), Phê phán lý tính thực tiễn (1788) và Phê phán năng lực
phán đốn (1790). Trong ba tác phẩm đó Phê phán năng lực phán đoán là tác
phẩm thể hiện nh ng quan điểm của Kant về mỹ học. Đây cũng được đán
giá là tác phẩm hoàn thiện về hệ thống triết học Kant, là “viên đá đỉn vịm”
của tồ nhà triết học Kant.
Là một n à mỹ ọc duy tâm c ủ quan, Kant cho rằng, lý tưởng thẩm
mỹ chỉ có ở cá nhân: “mẫu điển ìn cao n ất, cái ìn mẫu nguyên t ủy của

16



sở t íc là một

niệm đơn t uần mà mỗi người p ải tạo ra trong c ín mìn

và dựa t eo đó mà p ải ìn t àn p án đốn của mìn về tất cả n

ng gì dù

đó là đối tượng của sở t íc , một điển ìn của sự p ê p án về sở t íc

ay cả

bản t ân sở t íc p ổ biến của mọi người… Lý tưởng là biểu tượng về một cá
t ể n ư là

u t ể tương ứng trọn vẹn với một

đẹp, một lý tưởng dù ta k ông sở

niệm… Lý tưởng của cái

u được song ta luôn nỗ lực để tạo nó

trong ta” [25, tr.109-110]. Kant khẳng định, lý tưởng thẩm mỹ không tồn tại
n ư một lý tưởng chung của xã hội mà mỗi người sẽ có một lý tưởng riêng
mà theo họ là đúng. Lý tưởng thẩm mỹ mang tính cộng đồng, dân tộc đối với
Kant là khơng hề có. Lý tưởng thẩm mỹ cá n ân được Kant chú trọng và quan
tâm. Điều đó xuất phát từ nền tảng “vật tự nó” của ơng. Khái niệm “vật tự nó”
của Kant về p ương diện nhận thức là bản chất của sự vật khách quan. Nó tồn
tại khơng phụ thuộc vào nh ng hình thức nhận thức logic của con người. Con

người không bao giờ nhận thức được “vật tự nó”. N ư vậy, lý tưởng thẩm mỹ
là cái con người chỉ dám đưa ra n

ng p án đốn, n

ng suy luận về nó chứ

khơng có một “k oa ọc” ay nói các k ác là k ơng đưa ra tín c ín xác
tuyệt đối về nó. Q trìn con người đưa ra n

ng lý tưởng thẩm mỹ là q

trình nhận thức về “vật tự nó”.
Tiếp theo sự phát triển của mỹ học Kant, Hegel cũng có n

ng tư

tưởng xuất sắc về lý tưởng thẩm mỹ.
Hegel (1770 - 1831) là nhà triết học cổ điển Đức nổi tiếng, mỹ học của
ông là đỉnh cao của mỹ học duy tâm cổ điển Đức và là đỉnh cao của mỹ học
duy tâm trước Mác.
Hegel đã có n ưng tư tưởng về xã hội mang ý ng ĩa rộng ơn, đã c ú ý
ơn đến mặt xã hội, lịch sử của lý tưởng thẩm mỹ, tuy nhiên ông lại tuyệt đối
hóa vai trị của lý tưởng thẩm mỹ. Ơng đi tìm lý tưởng thẩm mỹ ở “ý niệm
tuyệt đối”, t eo ơng, lý tưởng thẩm mỹ chính là sự hoàn thiện hoàn mỹ của

17


tinh thần trong triết học chứ khơng phải tín đến mối tương quan xã ội. Tư

tưởng mỹ học của ông vừa mang yếu tố duy tâm vừa mang yếu tố biện chứng.
Ông thấy được sự thống nhất gi a lý trí và tình cảm, nội dung và hình thức.
Phạm trù lý tưởng của Hegel là cái hoàn thiện, cái đáng mong muốn thể
hiện khát vọng vươn tới chân lý của con người. Lý tưởng n ư vậy ln mang
hình thức cái đẹp đặc thù, mặc dù nó đã là sự k ái qt có tín vượt trước.
Hegel k ơng xét lý tưởng n ư một phạm trù độc lập mà xét lý tưởng trong
quan hệ với cái đẹp hoàn mỹ của nghệ thuật. Có thể thấy rằng ơng c ú ý đến
nghệ thuật lý tưởng.
Tsernysevski (1828 - 1889) là nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga.
Thời đại của ông là thời đại phát triển cao của lý luận nghệ thuật duy vật
trước Mác. Nhiều quan niệm của các nhà dân chủ cách mạng Nga về đối
tượng, chức năng của nghệ thuật đã có sự tiếp cận với mỹ học mácxít. Mỹ học
Tsecnysevski đã đặt nền tảng cho quan niệm duy vật về nghệ thuật, ơng tìm
cái đẹp trong thực tại, trong cuộc sống, nghệ thuật chỉ là p ương tiện nhận
thức cuộc sống ấy. Lý tưởng thẩm mỹ của ơng cũng k ơng là gì k ác mà
chính là cuộc sống đẹp.
Nh ng quan niệm trên về lý tưởng thẩm mỹ của các nhà triết học trước
Mác tuy còn sơ k ai và c ưa được oàn toàn đầy đủ, chính xác, nhưng cũng
đã trở thành tiền đề lý luận c o tư tưởng mỹ học Mác - Lênin ra đời. Với tư
duy biện chứng đồng thời có sự tiếp thu các thành tựu triết học, mỹ học thời
kỳ trước, Mác và Ăngg en đã tạo ra một hệ thống mỹ học mới. Nh ng quan
điểm mỹ học của các ơng có sự gắn bó mật thiết với triết học, kinh tế chính trị
học, chủ ng ĩa xã ội khoa học do hai ông khởi xướng.
Mác và Ăngg en khơng có tác phẩm nào bàn riêng về mỹ học, tuy
nhiên khi nghiên cứu các tác p ẩm của các cơng, ta có thể tìm thấy rất nhiều
tư tưởng mỹ học sâu sắc. Nội dung mỹ học của Mác và Ăngg en được trình

18



bày trong nhiều tác phẩm n ư Hệ tư tưởng Đức, Tư bản, Chống Đuy-rinh…
Mỹ học k i được gắn với triết học, kinh tế chính trị học, chủ ng ĩa xã ội
khoa học thì mang mầu sắc ồn tồn k ác, k ơng cịn n ư mỹ học duy tâm
hay mỹ học duy vật trước Mác n a. Các ông đã bỏ bức màn của nh ng gì
thần thánh, u tối khỏi mỹ học, t ay vào đó là bức tran lao động thực tiễn,
làm c o mỹ học trở nên gần gũi và dễ hiểu ơn.
Lý tưởng thẩm mỹ t eo quan điểm Mác - Lênin là bộ phận của lý tưởng
xã hội, được hình thành theo qui luật xã hội. Nó cũng bao gồm nhu cầu, động
cơ, ứng thú, hiệu quả và thế giới quan tiên tiến. Lý tưởng thẩm mỹ khác với
lý tưởng xã hội ở chỗ nó là cái tồn vẹn - cụ thể - cảm tính, là một ìn tượng
hoặc một hệ thống ìn tượng sin động, hấp dẫn, có khả năng tạo ra khối
cảm thẩm mỹ. Hìn tượng trung tâm của mọi ìn tượng chính là mẫu người
lý tưởng. Nhu cầu lý tưởng thẩm mỹ là khát vọng hoàn thiện, oàn mĩ, sống
đẹp. Động cơ mang tín cá t ể, chủ quan, sin động. Thế giới quan của lý
tưởng thẩm mỹ theo chủ ng ĩa Mác - Lênin là hình ảnh thế giới mẫu mực, hấp
dẫn, tấm gương sáng.
N ư vậy, có thể nói, lý tưởng thẩm mỹ theo chủ ng ĩa Mác - Lênin là
tổng thể p ương ướng cơ bản của đời sống được đúc kết lại thành hình ảnh
mẫu mực, cảm quan của sự hoàn thiện hoàn mỹ của con người và xã hội, là
cuộc sống trên đà p át triển, là khát vọng và àn động nhằm hoàn thiện vô
tận cuộc sống bằng cách giải quyết nh ng nhu cầu, mâu thuẫn thực tại để giải
p óng con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho mọi người trên cơ sở chủ
ng ĩa n ân văn iện đại.
1.1.2. Khái niệm v đặc trưng của lý tưởng thẩm mỹ
Theo Từ điển tiếng Việt có địn ng ĩa “Lý tưởng là mục đíc cao n ất,
tốt đẹp nhất mà người ta phấn đấu để đạt tới” [43, tr.590] ay cũng có t ể

19



hiểu là “lý tưởng là sự hoàn hảo, tốt đẹp nhất n ư trong trí tưởng tượng hoặc
trên lý thuyết” [43, tr.590].
Từ điển tiếng Việt trên mạng thông tin giáo dục tlnet.com.vn địn ng ĩa:
“Lý tưởng là điều thỏa mãn tới mức tuyệt đối một ước vọng cao đẹp” [67].
Từ điển triết học của tác giả Cung Kim Tiến biên soạn đưa ra định
ng ĩa đầy đủ ơn về lý tưởng. Lý tưởng t eo ng ĩa tiếng Anh là “Ideal” “Là
hình mẫu, sự hồn thiện, mục tiêu tối cao của ý nguyện và hoạt động thực
tiễn, mơ hình tuyệt vời trong thực tế đối với một cá nhân, một n óm người
hay một xã hội” [53, tr.686]. Ở đây, Từ điển cũng c ỉ rõ rằng, “Trong xã ội
hiện tại có nhiều hình thức lý tưởng: lý tưởng xã hội, chính trị, kinh tế, nhận
thức, tinh thần… Lý tưởng mang tính lịch sử về bản chất, nó có thể tiến bộ
hay phản động tùy thuộc vào hình thái của các mối quan hệ xã hội. Lý tưởng
là một hình thức tư tưởng do một giai cấp hay xã hội đặt ra, tạo thành một
thành phần quan trọng trong thế giới quan của cá nhân, nó gi một vai trị
quan trọng trong điều chỉn các àn động, đạo đức của cá nhân hay xã hội
h u quan, đặc biệt là p ương p áp mà cá n ân ay n iều người chọn lựa để
thực hiện mục đíc của mìn ” [53, tr.686].
Cụm từ “lý tưởng” là cụm từ thiên về tính chất xã hội của con người,
gồm lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức, lý tưởng thẩm mỹ,… gọi chung là
lý tưởng. Nó xuất hiện trong ngơn ng cổ Hy Lạp với ng ĩa đầu tiên là hình
tượng một sự hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người muốn đạt được. N ư n à
văn M. Gorki viết: “K i tự n iên tước mất của con người cái khả năng đi bốn
c ân t ì đồng thời nó cấp c o con người cây gậy chống đó là lý tưởng” [11,
tr.428], nếu con vật cần bốn c ân để di chuyển, để thực hiện nh ng mục đíc
của nó t ì con người tiến hóa hồn thiện cần đến lý tưởng để thực hiện cơng
việc có mục đíc của mình. Hay nói cách khác, lý tưởng là một trong nh ng

20



dấu hiệu để phân biệt con người với loài vật, con vật àn động theo bản năng
nó có, cịn trái lại, con người àn động theo mục đíc , t eo lý tưởng.
Có t ể nói, lý tưởng là vấn đề có ý ng ĩa lớn đối với con người. Nó
t úc đẩy con người chinh phục tự nhiên, xây dựng cuộc sống và cải tạo chính
bản thân mình, tiếp đó là địn

ướng các mối quan hệ xã hội. Con người cần

có khát vọng, cần có sức mạn để giải quyết k ó k ăn, và cũng cần có sự định
ướng đúng đắn để tiếp tục phát triển. N ư vậy, khơng có gì khác ngồi lý
tưởng sẽ thực hiện nhiệm vụ đó cùng con người.
Đã nói đến lý tưởng là nói đến nhiệm vụ hiện thực óa lý tưởng đó, nếu
khơng nó chỉ là ý tưởng viển vơng, khơng có giá trị. Lý tưởng bao gồm hai
yếu tố hiện thực và tương lai hợp thành với một tỉ lệ hợp lý. Nói cách khác, lý
tưởng bao gồm cả tính hiện thực và tính lãng mạn trong quan hệ biện chứng
với nhau. Chính vì thế, con người cần điều chỉnh tỉ lệ đó để đạt hiệu quả trong
cơng việc. Đồng thời hiệu quả của lý tưởng cũng p ụ thuộc phần lớn vào yếu
tố kinh nghiệm cá nhân, dân tộc, giai cấp, khả năng…
Cũng t eo Từ điển triết học của tác giả Cung Kim Tiến, “Lý tưởng
thẩm mỹ - sự thống nhất ài òa đầy đủ nhất trong lịch sử của chủ thể và
khách thể của con người và toàn thể xã hội (cũng n ư tự n iên), được thể hiện
trong sự phát triển tự do và toàn diện của nh ng lực lượng sáng tạo của con
người với tính cách là mục đíc tự t ân. Lý tưởng thẩm mỹ được thực hiện cả
dưới hình thức khách quan - trong thực tiễn lao động và trong toàn bộ thực
tiễn xã hội, lẫn dưới hình thức chủ quan - trong tình cảm, trong cảm thụ, trong
ìn tượng, trong thị hiếu, trong đán giá, trong k ái niệm của cá nhân với tư
cách là một con người hoàn chỉnh. Trong nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ được
biểu hiện tập trung nhất trong ìn tượng nghệ thuật”[53, tr.685].
Khái niệm lý tưởng thẩm mỹ được nhiều người nhắc đến, các nhà mỹ
học duy vật và duy tâm đều có nh ng nhận định về lý tưởng thẩm mỹ. Tuy


21


nhiên, luận văn đi sâu ng iên cứu nội dung lý tưởng thẩm mỹ của Mác và
Ăngghen t eo quan điểm của chủ ng ĩa duy vật biện c ứng, chống lại nh ng
quan điểm duy tâm thần bí và chủ ng ĩa k ông tưởng.
Nếu cảm xúc thẩm mỹ nảy sinh từ cái đẹp trong thực tế được cảm nhận
bởi con người t ì lý tưởng thẩm mỹ lại ướng con người tới cái đẹp trong sự
mong muốn, khát vọng, nó xây dựng nên nh ng mẫu ìn tượng chuẩn mực,
về nh ng giá trị thẩm mỹ mà con người cần có và sẽ có nếu có sự cố gắng
thực hiện. C ín vì trong lý tưởng thẩm mỹ chứa đựng cái c ưa có mà là
mong muốn sẽ có nên rất cần tình cảm chân thành của chủ thể thẩm mỹ đối
với nó thì mới có thể hiện thực óa lý tưởng được. Khi chủ thể thẩm mỹ đặt
tình cảm vào lý tưởng thẩm mỹ đã đặt ra thì chủ thể ấy mới có thể hết sức để
đạt được lý tưởng thẩm mỹ đó. Lý tưởng đó t ường là nh ng vấn đề k ó đạt
tới nên cũng tồn tại khá nhiều nh ng lý tưởng k ông được thực hiện bởi chủ
thể k ông đủ kinh nghiệm cũng n ư điều kiện.
T eo quan điểm chủ ng ĩa duy vật biện chứng, lý tưởng thẩm mỹ trước
hết phải là sự phản ánh khách quan các nhu cầu và lợi ích của các giai cấp
trong xã hội. Nó bao gồm cả phản án dưới hình thức lý luận cũng n ư p ản
án dưới hình thức cụ thể cảm tín , đơn n ất. T eo GS.Đỗ Huy, “Lý tưởng
thẩm mỹ là sự biểu hiện vươn tới cái đẹp, làm nhẹ và xóa bỏ nh ng mâu
thuẫn kéo dài. Nh ng mâu thuẫn xuất hiện càng mạnh mẽ, thì nh ng lý tưởng
thẩm mỹ càng tràn đầy tình cảm, khát vọng đạt tới sự thực hiện trong thực
tiễn nh ng lý tưởng ấy càng tăng t êm” [19, tr.228].
Khi xã hội lồi người hình thành mâu thuẫn t ì cũng là lúc con người
tìm cách xóa bỏ nh ng mâu thuẫn đó, tìm ra cái đúng, cái sai ay nói các
k ác đó là lúc lý tưởng được ìn t àn trong tư duy con người. Tuy nhiên lý
tưởng mang tín tương đối, có thể đối với giai đoạn này, thời đại này là đúng

n ưng đến với giai đoạn khác lại c ưa ẳn là lý tưởng. Điều đó là do tín

22


c ân lý tương đối của việc giải quyết vấn đề. K i đi tới chỗ lý tưởng được
hiện thực óa t ì lúc đó một mâu thuẫn nhất địn cũng sẽ chấm dứt, mâu
thuẫn này mất đi n ường cho một lý tưởng khác xuất hiện và cùng với đó
cũng là mâu t uẫn mới hình thành. Sở dĩ k ơng có lý tưởng nào là tuyệt đối
và cũng k ơng có mâu t uẫn nào là tĩn tại bởi mọi sự vật hiện tượng trên thế
giới đều vận động khơng ngừng, mâu thuẫn cũng ln biến đổi, chính vì thế
lý tưởng cũng p ải có sự phù hợp với xã hội hiện tại.
Lý tưởng thẩm mỹ có tính biện chứng sâu sắc. Là con người, ai cũng
mong ướng tới, chạm tới cái đẹp, cái hoàn thiện, k i có được nó rồi thì mâu
thuẫn sẽ được giải quyết. Cũng từ đó k át vọng về cái đẹp cao ơn, cái đẹp
trọn vẹn ơn lại bộc lộ ra, chính vì thế, chúng ta lại buộc phải phấn đấu vươn
tới để chiếm lĩn . Đây c ín là oạt động biện chứng của lý tưởng thẩm mỹ.
Trong cơ cấu của ý thức thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ được coi là hình
thái cao nhất của ý thức thẩm mỹ. Lý tưởng thẩm mỹ vừa bao hàm các nhân
tố tình cảm, thị hiếu, vừa gồm các yếu tố lý trí, tri thức, quan niệm. Lý tưởng
thẩm mỹ không chỉ phản án cái đang có mà t ường sẽ phản ánh cái có thể có
hoặc cần phải có.
Lý tưởng thẩm mỹ gồm nh ng đặc trưng nhất địn n ư sau:
Lý tưởng thẩm mỹ là sự khái quát những kinh nghiệm thẩm mỹ của con
người, của các giai cấp trong xã hội, trong thời đại một cách khách quan và
sâu sắc. Lý tưởng thẩm mỹ cũng xuất phát trên cơ sở thực tiễn thẩm mỹ của
con người và xã hội, trên cơ sở nh ng thụ cảm và xúc cảm thẩm mỹ t ường
lặp đi lặp lại trên cơ sở nh ng thị hiếu thẩm mỹ. Lý tưởng thẩm mỹ hình
thành chỗ dựa cho thị hiếu thẩm mỹ, của mọi thụ cảm và xúc cảm thẩm mỹ.
Con người đi từ mông muội đến tinh khơn, cùng với thời gian đó bắt

đầu xuất hiện nh ng chọn lọc trong xã hội. Nh ng điều đúng được con người
áp dụng và chọn lọc để ìn t àn nên lý tưởng. N ư vậy, lý tưởng không

23


phải theo một khuôn mẫu nào địn trước hay không phải xuất hiện một cách
tự phát mà mang tính xã hội.
K i lý tưởng thẩm mỹ được hình thành và xã hội cơng nhận t ì đại bộ
phận con người đều có nh ng nhận định và cảm xúc t eo lý tưởng đó. Có t ể
nh ng cảm xúc, thụ cảm đó k ơng sao c ép ý ngun ìn mẫu lý tưởng
n ưng về cơ bản nó đều hoạt động theo quy chuẩn đã có đó. Điều này làm
cho xã hội theo một trật tự và cũng tạo điều kiện cho hoạt động quản lý được
dễ dàng ơn.
Phương thức để đạt tới các mục tiêu của mỗi loại lý tưởng có chỗ khác
biệt. Nếu lý tưởng đạo đức đã nêu lên n

ng mục tiêu lớn về đạo đức trong

chuẩn mục, nh ng phạm trù, nh ng nguyên tắc, nh ng quy phạm của tư duy
logic t ì lý tưởng thẩm mỹ lại khái quát sự vận động của các hiện tượng thẩm
mỹ và nêu lên nh ng mục tiêu ấy bằng hình tượng thẩm mỹ.
Cách thức để lý tưởng thẩm mỹ đi vào iện thực rất dễ hiểu và dễ tiếp
thu. Nó khơng phải bằng nh ng quy chuẩn, nh ng pháp chế áp đặt mà bằng
nh ng ìn tượng thẩm mỹ, thông qua nh ng loại hình nghệ thuật. Lý tưởng
thẩm mỹ k ông đặt nặng về vấn đề dư luận, tâm lý mà sẽ truyền đạt theo cách
tuyên truyền bằng các ìn tượng thẩm mỹ để từ đó con người sẽ nhận thấy
được cái tốt, cái xấu từ đó biết nên đi t eo mẫu hình nào, chuẩn mực nào. Đây
là một p ương t ức dễ đi vào lịng người bởi nó khơng mang tính ép buộc,
cưỡng chế mà theo ý muốn của chính bản t ân con người. K i con người

xem, ng e, t ưởng thức một vở kịch có nh ng vai phản diện và chính diện,
đặc biệt họ biết được cái kết của câu chuyện là gì thì từ đó ọ sẽ biết được đâu
là lý tưởng mà đông đảo xã hội ướng tới. Có thể tác phẩm nghệ thuật đó
khơng có nh ng chi tiết t eo đúng cái mà mỗi người muốn n ưng về tổng thể
khán giả đã nắm được nội dung, t ông điệp mà người nghệ sĩ truyền tải. Dần dần

24


nh ng tác phẩm nghệ thuật với nhiều loại ìn k ác n au được đưa đến tay khán
giản và cùng đó ìn t àn nên n ng lý tưởng thẩm mỹ trong mỗi người.
Đối tượng phản án và p ương t ức phản ánh thực tại của lý tưởng
thẩm mỹ đang k ông ngừng phát triển. Lý tưởng thẩm mỹ phản ánh các khía
cạnh thẩm mỹ của thực tại. Khách thể phản ánh thẩm mỹ trước hết là bản thân
hiện tượng trong tính tồn vẹn và cụ thể cảm tín xác định của nó. Bởi vậy
khách thể phản ánh của lý tưởng thẩm mỹ là con người thuộc một thời đại
nhất định, một giai cấp nhất địn , được xét trong tính tồn vẹn, qua tất cả mọi
biểu hiện cụ thể cảm tính của họ.
Nếu trước kia đối tượng phản ánh của lý tưởng thẩm mỹ đa số là phản
ánh chung về cuộc sống giai cấp thống trị, cuộc sống giai cấp bị trị và ước
muốn của họ t ì đến nay đối tượng phản án đã được mở rộng ra rất nhiều.
Từng góc nhỏ của đời sống được đi sâu tìm tịi và k ai t ác ay n

ng vấn đề

mang tín vĩ mơ cũng được tác giả đề cập. Cái mà lý tưởng thẩm mỹ phản
ánh ngày một rộng cũng là do sự giao lưu văn óa gi a các nước trên thế giới
ngày một mạnh mẽ và được ủng hộ.
N ư vậy, có thể iểu, lý tưởng thẩm mỹ là ước mơ, k át vọng về một
tương lai tốt đẹp c o xã ội, con người và ng ệ t uật được xây dựng nên từ

iện t ực cuộc sống, là động lực t ôi t úc n

ng oạt động sáng tạo ra cái

đẹp, cái cao cả của cá n ân, giai cấp, dân tộc và t ời đại.
1.2. Hoạt động sáng tạo nghệ thuật
Nếu lý tưởng thẩm mỹ đưa ra c o con người nh ng mục tiêu cao cả, nh ng
địn

ướng tốt đẹp c o con người thì nghệ thuật lại đóng vai trị đặc biệt quan trọng

trong việc thể hiện lý tưởng thẩm mỹ, bởi khơng gì khác mà chính nghệ thuật tạo ra
nh ng hình mẫu, ìn tượng nghệ thuật về hiện thực hoàn thiện.

25


×