Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

skkn một số kỹ năng phụ đạo học sinh yếu lớp 2”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.94 KB, 20 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"RÈN HỌC SINH YẾU LỚP 2"

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc
phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo
viên khơng những chỉ biết dạy mà cịn phải biết tìm tịi phương pháp nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn
với khơng ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng
trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho
học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Thật vậy, tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục nhưng mỗi học
sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau, có điều kiện hồn cảnh sống và
sự quan tâm chăm sóc ở gia đình là khác nhau, có động cơ và thái độ học tập khác nhau,
môi trường giáo dục khác nhau mà trong đó có sự dạy dỗ của thầy cơ giáo thì năng lực
học tập, khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng phải khác nhau. Từ đó, dẫn
đến có học sinh yếu, kém. Vậy chúng ta phải rèn luyện các em học sinh này như thế nào?
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu khơng chỉ là trách
nhiệm mà cịn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc
phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, cơng tác duy trì sĩ số
mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở
địa phương.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng
dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc chỉ đạo, tư vấn các đơn vị trường chú trọng
giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy


đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình. Từ
những suy nghĩ trên, tơi đã chọn đề tài: “Một số kỹ năng phụ đạo học sinh yếu lớp 2” để
tiếp tục áp dụng vào thực tế học sinh khối 2 trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử nói riêng và
học sinh tồn huyện nói chung.
II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi
Một số Kỹ năng phụ đạo học sinh yếu lớp 2.
2. Đối tượng
Giáo viên và học sinh khối 2 trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử về việc giúp đỡ các em
là học sinh yếu.

2


III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí
lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan
tâm của gia đình, thầy cơ và có một mơi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say
mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp
các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn,
để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là
của tồn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm cơng việc “trồng người”
ln cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học
sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp.
- Nhằm giúp đỡ các em học sinh yếu, kém vươn lên trong học tập; nâng cao chất
lượng dạy, học; hạn chế tối thiểu tỉ lệ học sinh yếu, kém. Đồng thời cũng để trang bị cho
giáo viên kiến thức sau này áp dụng trong quá trình giảng dạy; hy vọng qua đề tài này sẽ
nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ phía các cấp lãnh đạo cũng như giáo viên trong và
ngoài trường.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1. Nghiên cứu lí luận
Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2.
2. Nghiên cứu thực nghiệm
Tìm hiểu thực trạng dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2; áp dụng một số kỹ
năng trong quá trình dạy học và rèn kĩ năng đối với học sinh yếu ở hai mơn Tốn và
Tiếng Việt tạo cơng cụ vững chắc cho trẻ học tập góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
3. Nghiên cứu ứng dụng
Đề xuất những giải pháp phù hợp mang tính khả thi nhằm áp dụng có hiệu quả để
nâng cao chất lượng dạy - học đối tượng học sinh yếu lớp 2.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Cơng tác quản lí:
- Qn triệt chủ trương của ngành về đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao
nhận thức cho cán bộ quản lý các cấp và giáo viên đứng lớp: “Tổ chức các giờ học, các
hoạt động giáo dục đảm bảo nhẹ nhàng - tự nhiên – hiệu quả và chất lượng” tránh tình
trạng để học sinh “ngồi nhầm lớp”.

3


- Tăng cường hoạt động kiểm tra chuyên môn, dự giờ rút kinh nghiệm và tổ chức
cho giáo viên giao lưu trao đổi và học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài trường.
- Tổ chức các cuộc thi giáo viên dạy giỏi các cấp về thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học, đánh giá đúng chất lượng dạy của giáo viên.
- Đổi mới cách đánh giá xếp loại học sinh.
1.Đội ngũ giáo viên:
Cần từng bước chuẩn hoá đội ngũ giáo viên: trang bị giáo viên những kiến thức về
đổi mới phương pháp dạy học cụ thể qua các chuyên đề, các loại bài học, các hình thức tổ
chức dạy học. Đổi mới sinh hoạt chuyên môn hàng tuần ở từng khối lớp, ở tổ chuyên
môn...

2.Cơ sở vật chất:
Trang bị đầy đủ sách khoa, đồ dùng học tập cho cho học sinh, tăng cường sách
hướng dẫn giảng dạy, thiết bị dạy học tối thiểu cho giáo viên.
Trở về với mỗi giáo viên, hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học đang thu hút
và tác động đến từng cá nhân. Mỗi tiết dạy để đảm bảo sự thành công, việc đổi mới
phương pháp dạy học ở tiểu học đang được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, cần lựa chọn
sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh
Với nhu cầu của một xã hội hố GD địi hỏi ngành GD phải đổi mới
phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu
sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong cơng việc. Nhìn lại việc
học của con em ở địa phương, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều
hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít, điều kiện học tập cịn nhiều thiếu thốn.
Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không
ham học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn khoăn
là làm thế nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học
sinh trong học tập. Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện
nhanh và đúng cách để những thế hệ do chúng ta đào tạo là những người
làm chủ tương lai, đất nước, biết xây dựng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn
dân đi lên. Đặc biệt là giáo dục ở các vùng miền núi.
Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các em học sinh,
dân tộc thiểu số mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá
việc học của mình cũng như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn

4


khác. Từ đó các em có tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu
thi đua nhau để việc học có kết quả cao hơn.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi:

Cơ sở vật chất ngày càng được ổn định; các chế độ cho học sinh nghèo theo QĐ
112, chế độ cho học sinh bán trú dân nuôi được đảm bảo kịp thời, đội ngũ cán bộ quản lý
và giáo viên phần đa trẻ khoẻ, nhiệt tình năng nổ, có tâm huyết và trách nhiệm với nhiệm
vụ được phân cơng.
2. Khó khăn:
2.1. Thực tế về địa bàn:
- Trường Tiểu học số 2 Pa Vệ Sử thuộc xã Pa Vệ Sử là một xã dân cư là 100% dân
tộc La Hủ cịn nhiều khó khăn về mặt kinh tế, nên ảnh hưởng lớn đến việc học của học
sinh từ đó gây khó khăn trong việc thực hiện dạy và học của nhà trường.
- Phần lớn kinh tế gia đình học sinh cịn nhiều khó khăn, tỷ lệ học sinh thuộc hộ
nghèo tồn xã cịn nhiều.
2.2. Thực tế về phụ huynh học sinh (PHHS):
- Do tình hình khó khăn như nêu ở trên, nên phụ huynh học sinh phần lớn không
quan tâm đến việc học của con em mình, phó thác cho nhà trường và thầy cơ giáo (có
nhiều phụ huynh đã được nhà trường và giáo viên chủ nhiệm mời nhiều lần đến để trao
đổi, bàn bạc về việc học tập của con em mình nhưng vẫn khơng đến). Do đó, hầu hết các
em học sinh của xã thường khơng có ý thức trong học tập thậm chí các em không hề xem
bài hay học bài ở nhà. Mà như ta đã biết, học sinh học tốt hay khơng cịn phụ thuộc vào
bản thân của các em có tự giác trong học tập hay khơng?, giáo viên có nắm được đặc
điểm tâm sinh lí của học sinh hay khơng?, trong q trình giảng dạy giáo viên có đề ra
các biện pháp, phương pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí đối tượng học
sinh hay khơng?. Đó là vấn đề mà nhiều giáo viên trong ngành gặp rất nhiều khó khăn
trong trong cơng tác giảng dạy cho đối tượng học sinh này.
2.3. Thực tế về học sinh:
- 100% số học sinh là học sinh dân tộc La Hủ, vì vậy các em đến trường, học
tập bằng tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ 2. Các em học tiếng Việt - một ngôn ngữ
mới và học bằng công cụ mới. So với học sinh dân tộc Kinh, học sinh dân tộc thiểu số sử
dụng tiếng Việt- ngôn ngữ học tập một cách khó khăn vì:

5



- Học sinh học ngơn ngữ thứ hai nói chung bằng tư duy giao tiếp, thông qua việc
tiếp cận - từ việc hiểu ngơn ngữ có chủ định (qua bài học) đến việc vận dụng nó trong
sinh hoạt hằng ngày, do đó học sinh thường khơng tự tin nên dẫn đến học lực yếu.
- Hầu hết việc học bài ở nhà của học sinh hình như khơng có nếu có thì cũng chỉ học
qua loa cho xong.
- Trong một lớp học tỉ lệ học sinh yếu, kém chiếm khá đông, dẫn đến tiến trình học
tập chậm rãi.
- Tính tự quản, tự giác của học sinh trong học tập còn rất nhiều hạn chế chưa nhận
thức đúng đắn về động cơ và mục đích học tập, các em cịn ham chơi, lười học.
 Xuất phát từ tình hình khó khăn thực tế như đã nêu ở trên dẫn đến có nhiều học
sinh yếu, kém trong một lớp học.
2.4. Khảo sát chất lượng đầu năm học:
Giỏi
Mơn

Khá

Trung bình Yếu

TSHS
SL

%

SL

%


SL %

Tiếng Việt 44

0

0%

4

9,09%

12 27,2% 28

63,71%

Toán

0

0%

5

11,3%

15 34,09% 24

54,61%


44

SL

%

Căn cứ kết quả xếp loại học lực cuối năm học qua, so sánh với kết quả khảo sát
chất lượng học sinh đầu năm học này từ đó nắm được số liệu về học sinh yếu của trường.
3. Tìm hiểu ngun nhân học sinh học yếu:
3.1. Về phía học sinh:
- Mơi trường học tiếng Việt bị bó hẹp. học sinh dân tộc hầu như khơng thể có được số
lượng và mật độ các cuộc giao tiếp bằng tiếng Việt nhiều như học sinh người Kinh. Ở
trường học, học sinh dân tộc chỉ tiếp xúc duy nhất với thầy, cô giáo - những người nắm
vững tiếng Việt. Do số học sinh trong lớp thì đơng mà lại chỉ có một giáo viên nên cơ hội
giao tiếp bằng tiếng Việt giữa học sinh và giáo viên rất có hạn. Nguyên nhân trên ảnh
hưởng không nhỏ đến học lực của học sinh.
- Lười biếng, chán học.
- Hồn cảnh gia đình khó khăn.
- Cha mẹ không quan tâm.

6


- Xa điểm trường, đi lại khó khăn.
- Mất cha (mẹ).
- Nhiều nguyên nhân khác…
3.2. phía giáo viên:
Nguyên nhân học sinh học yếu khơng phải hồn tồn là ở học sinh mà một phần
ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trị giỏi. Ngày nay, để có
thể thực hiện tốt trong cơng tác giảng dạy thì địi hỏi giáo viên phải khơng ngừng học tập

nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây khơng phải giáo viên nào có
trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà quan trọng giáo viên phải
biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với
từng nội dung kiến thức.
Qua quá trình cơng tác bản thân nhận thấy, vẫn cịn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa
chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tịi nhiều
phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự
quan tâm tìm hiểu đến hồn cảnh gia đình của từng học sinh.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản thân
nhận thấy trong q trình làm cơng tác chun mơn. Qua việc phân tích những ngun
nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp, kỹ năng để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu.
Trong phạm vi của bài viết, tôi chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở hai mơn
cơng cụ: Tốn và Tiếng Việt và công tác chủ nhiệm.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Những biện pháp chung
1.1 Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn
nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản
thân mình.
Giáo viên ln tạo cho bầu khơng khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, khơng đánh
mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo
viên mà hãy làm cho học sinh thương u và tơn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực.
Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà
em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu

7



thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Bông hoa điểm
tốt”, “Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”…
1.2 Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn
có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của
từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu
bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát, vốn từ tiếng Việt hạn chế…
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách
nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức
năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm
tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học
bài: Bảng chia 3 (Toán–lớp 2 ), đối với các em học sinh yếu thì các em chỉ cần nắm mục
tiêu thứ nhất: “Học sinh thuộc bảng chia 3 và biết vận dụng bảng chia 3 để tính nhẩm
đúng” là đạt yêu cầu rồi.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối
tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được
tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình
trong tập thể. u cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hồn thành 1,
2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
Ngồi ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện
pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi
trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi,
hoạt động ngồi giờ lên lớp nhằm lơi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải,
nặng nề.
1.3 Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú
trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên
nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan
trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm

tịi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hồn cảnh gia đình
và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trị chơi có lồng
ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm

8


cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia
đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do. Bản thân giáo viên cần phân tích để các
bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình,
thầy cơ sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
1.4 Kèm cặp học sinh yếu:
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu
là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 2 điểm trường Thị ma, Seo Thèn B, Sín
Chải A, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 100% học sinh yếu và lên kế
hoạch phụ đạo cho các em.
Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt đến
những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu
hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…

DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP 2

STT

ọ và tên

Tiếng Việt

Tốn


Đọc
yếu

Khơng
biết
tính

Viết
yếu

Điểm
bản
Tính
yếu

1

Phùng Lỳ Phơ x

x

x

2

Ly Phý Lu

x


x

x

Con
(bà)

Phùng
Phạ

ơng

Lỳ Thị Ma
Thị Ma



2. Những biện pháp để giảm dần số lượng học sinh học yếu mơn Tốn.
2.1. Với đối tượng loại 1:

9


Vì kiến thức ở lớp dưới của các em bị hổng, không thể nào bù đắp ngay được trong
một thời gian ngắn. Giáo viên phải đặt quyết tâm trong suốt cả năm học, đặc biệt là học
kì I để giúp nhóm học sinh loại này lấp dần các lỗ hổng kiến thức. Đối với những học
sinh này phải có thêm thời gian học dưới sự hướng dẫn lại tỉ mỉ những kiến thức cơ bản,
trọng tâm theo một hệ thống riêng và yếu tố dẫn đến thành công là nắm chắc, luyện kĩ.
Trong các buổi học trên lớp thường được kiểm tra, rà soát và củng cố các kiến thức, chấm
bài song song trong tiết luyện tập, thường xuyên khích lệ động viên mỗi khi các em được

điểm cao hơn. Do đó các học sinh này có nhiều tiến bộ; cụ thể là: thích học tốn, hay
xung phong lên bảng…
2.2. Với đối tượng loại 2:
Vấn đề cơ bản là giúp các em lấy lại lòng tự tin, phát huy được những tố chất cơ bản
đang tiềm ẩn trong mỗi em trong việc học tập mơn Tốn. Phương pháp trực quan, hệ
thống các bài tập từ dễ đến khó, tìm các cách giải khác nhau cùng với các câu hỏi vừa
sức, các bài toán vui, các bài toán gắn với thực tế chính là chìa khố để giải quyết vấn đề.
2.3. Với đối tượng loại 3:
Những học sinh này trong lớp thường không chú ý nghe giảng, mỗi khi làm bài
kiểm tra tại lớp thường cẩu thả, khơng có ý thức kiểm tra lại bài làm. Cơ giáo nhắc nhở
thì xem lại qua loa cho xong chuyện. Bài tập và bài học ở nhà không chuẩn bị chu đáo
trước khi đến lớp. Tóm lại, đối với diện học sinh này cần có sự kết hợp chặt chẽ với phụ
huynh nhằm quản lý việc học ở nhà và việc kiểm tra nhắc nhở thường xuyên ở lớp để
từng bước đưa các em vào nền nếp học tập.
2.4. Với đối tượng loại 4:
Các em này thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm. Giáo viên bố trí thời gian kèm cặp,
lấp dần lỗ hổng kiến thức, hình thành dần phương pháp học tốn cho các em. Ln khích
lệ động viên để các em không bị mặc cảm, tự ti mà tự tin vào bản thân mình để từ đó
vươn lên trong học tập. Với các em này, cơ giáo phải hết lịng thương u, giúp đỡ. Cơ là
chỗ dựa tinh thần và tình cảm của các em. Sự tiến bộ của các em chính là phần thưởng vơ
giá đối với người giáo viên chủ nhiệm.
Riêng những học sinh phát triển thể chất bình thường nhưng năng lực tư duy yếu thì
giáo viên phải mất rất nhiều thời gian kèm cặp các em mới đạt được mức trung bình.
3. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp
khắc phục:

10


+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 2, nhưng trong khối còn một số em đọc rất yếu. Như

em Phùng Lỳ Phơ, em Lý Go Xá Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa
đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu (em Xá), ví dụ: đọc tiếng
“bng” thành “bn”, “bão” thành “báo”… chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp
2, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào
khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trơi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một văn bản còn hạn
chế.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu
thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của
từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa
đúng nên dẫn đến viết sai.
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
+ Tập làm văn:
Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết.
Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp
khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thơng qua các
kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn.
4. Biện pháp cụ thể để giúp học sinh yếu có kỹ năng học tập ở mơn Tiếng Việt.
4.1 Tập đọc:
Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần:
Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên
gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện
đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học khơng đủ thì giáo viên có thể tranh thủ
cho các em luyện đọc thêm vào buổi 2.
Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập
đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét đánh
giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh
thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách
học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp
đỡ.
Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích

đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của
mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự

11


tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em
rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc.
Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy
thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và
hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc,
từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
4.2. Chính tả:
Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần:
Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày
viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh
viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em
viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo
viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời.
Nếu có điều kiện thì u cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em
sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết
đúng chính tả.
Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa,
giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho
các em có chọn từ để luyện viết thêm.
Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với u cầu nên có thể
chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả.
4.3 Luyện từ và câu:
4.3.1. Hướng dẫn HS làm bài tập
- GV giúp HS nắm vững yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi, bằng lời giải thích).

- GV giúp HS chữa một phần của bài tập làm mẫu (một HS chữa mẫu trên bảng lớp
hoặc cả lớp làm bài vào vở hay bảng con).
- HS làm bài vào bảng con hoặc vào vở. GV uốn nắn.
- GV tổ chức cho HS trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ về tri
thức.
4.3.2. Cung cấp cho HS một số tri thức sơ giản về từ, câu và dấu câu
- Về vốn từ: Ngoài những từ được dạy qua các bài tập đọc, những thành ngữ được
cung cấp qua các bài tập viết, tăng cường tiếng Việt cho HS theo chủ điểm, ví dụ:

12


+ Đơn vị thời gian (ngày, tháng, năm, năm học …);
+ Đơn vị hành chính (xã, (phường), huyện (quận));
+ Đồ dùng học tập;
+ Đồ dùng trong nhà;
+ Việc nhà;
+ Họ hàng;
+ Vật nuôi.
4.3.3. Cách cung cấp tri thức:
Học sinh ở đây, đặc biệt là học sinh yếu, khi giao tiếp các em thường nói
khơng đầy đủ câu, ví dụ: Em học lớp mấy? - Học sinh: lớp ba,….Vì vậy, giáo viên cần
phải tăng cường tiếng Việt cho học sinh để giúp các em hoàn thiện về câu và biết sử dụng
từ đúng.
Về từ loại: nhận ra và biết dùng các từ chỉ người, con vật, dồ vật, hoạt động, trạng
thái, đặc điểm để đặt câu; bước đầu có ý niệm và biết viết hoa tên riêng.
Về kiểu câu: nhận ra và biết đặt các kiểu câu đơn Ai là gì?, Ai làm gì?, Ai thế nào?
Về dấu câu: có ý thức và bước đầu biết đặt câu dấu chấm, chấm hỏi, chấm than,
phẩy vào đúng chỗ.
Các tri thức nói trên được cung cấp qua các bài tập. GV chỉ cần nêu những tổng kết

ngắn như trong SGK, tránh giải thích dài dịng hoặc sa vào lí thuyết
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.
Hướng dẫn các em đối với những từ khó hiểu phiên dịch ra tiếng mẹ đẻ, giúp các
em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu (tránh lạm dụng tiếng mẹ đẻ).
4.4. Tập làm văn:
Đối với học sinh đặc biệt là học sinh yếu, giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan
trong tiết học thật sinh động, hướng dẫn các em một cách cụ thể, chi tiết rõ ràng và tăng
cường tiếng Việt cho các em để các em có vốn từ khi làm văn.
Các loại bài Tập làm văn được bố trí xen kẽ trong từng tuần, góp phần tô đậm nội
dung chủ điểm học tập của từng tuần. Vì thế dạy Tập làm văn cần gắn với dạy các phân
môn Tiếng Việt khác trong tuần (đặc biệt là Tập đọc , Luyện từ và câu (LTVC ) nhằm
mục đích giúp HS nắm và vận dụng tốt hơn các kiến thức đã học ở các phân môn Tiếng
Việt khác ứng dụng vào phân môn Tập làm văn.

13


Ví dụ1:
Tuần 12: Bài Tập đọc: Điện thoại rất có tác dụng trong việc giúp HS học giờ Tập
làm văn: Gọi điện.
Ví dụ 2:
Tuần 16: LTVC: Bài:Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào? Mở rộng vốn từ: từ ngữ
về vật nuôi.
Qua giờ LTVC, HS quan sát tranh vẽ các con vật nuôi, nắm được một vốn từ phong
phú hơn về vật ni. Đó chính là những kiến thức cần thiết giúp các em học tốt giờ Tập
làm văn: Khen ngợi. Kể ngắn về con vật. Lập thời gian biểu.
Không chỉ kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác trong Tiếng Việt mà khi dạy Tập
làm văn người GV cần kết hợp chặt chẽ với các môn học khác như: Đạo đức, Tự nhiên xã
hội ( TNXH )…
Vì thế nếu các em nắm vững được những kiến thức này thì khi học Tập làm văn các

em sẽ thấy rất nhẹ nhàng, quen thuộc và gần gũi.
Khi dạy các bài Tập làm văn về bốn mùa, kể về người, con vật (thú, chim… ), cây
cối GV có thể cho HS xem thêm tranh (ảnh ) hoặc băng hình về các chủ đề này nhằm
giúp HS nắm được rõ hơn về các hình ảnh của các sự vật. Từ đó làm cho bài văn của các
em thêm sống động, có hình ảnh.
Cung cấp thêm cho HS những đoạn văn hay về các chủ đề (bốn mùa, người, con vật,
cây cối… ) để HS học tập về bố cục đoạn văn, cách kể (cách tả ) sao cho sinh động, phù
hợp với đối tượng cần kể (tả ).
Ví dụ:
Ngay giữa sân trường, sừng sững một cây bàng. Mùa đông, cây vươn dài những cành
khẳng khiu, trụi lá. Xuân sang, cành trên cành dưới chi chít những lộc non mơn mởn. Hè
về, những tán lá xanh um che mát một khoảng sân trường.Thu đến, từng chùm quả chín
vàng trong kẽ lá.
Thơng qua các câu đố cho HS học tập được cách kể (cách tả ) về bốn mùa, người,
con vật, cây cối.
Ví dụ:
Câu đố:

Đầu xanh mũ vua
Mình vàng áo giáp
Một trăm con mắt

14


Nhìn quanh bốn bề.
Câu đố trên nói về quả dứa. Cho HS nêu nhận xét: quả dứa có màu vàng, cuống
xanh có vài cái lá non chĩa ra như cái mũ của vua (vương miện ) nhờ câu: Đầu xanh mũ
vua; mình vàng áo giáp .Quanh vỏ có nhiều mắt (Một trăm con mắt nhìn quanh bốn bề ).
4.5. Tập viết:

Để hướng dẫn các em viết đúng, giáo viên nghiên cứu các nét cơ bản cấu tạo chữ,
nắm vững các vị trí các chỗ đặt bút và vị trí của điểm dừng bút, trong một chữ hoa
thường xuyên luyện tập để khi dạy tập viết được nhanh và thành thạo – yêu cầu học sinh
phải nắm vững kích cỡ của từng chữ hoa, viết được những chữ cái hoa cũng như chữ viết
thường nào có cùng độ cao.
Giờ tập viết học sinh luyện tập trên bảng con, giáo viên luôn quan tâm kiểm tra học
sinh đặc biệt là học sinh yếu viết đúng qui trình trên dịng kẻ của bảng con đã kẻ sẵn dành
cho học sinh luyện viết, chú ý điểm đặt bút và dừng bút của nét chữ đó đã đúng vị trí
chưa, nếu chưa đúng cho viết lại một lần nữa để tập viết đúng trên bảng con trước khi
thực hành vào vở. khi tập viết trong vỡ giáo viên luôn nhắc nhở học sinh chú ý điểm đặt
bút ( đã chấm sẵn trên vỡ ) hay cầm tay đối với học sinh chưa định hình được điểm đặt
bút để học sinh trình bày bài viết được đúng, đẹp.
Trong quá trình thực hành, cần chú ý theo dõi học sinh về cách cầm bút, tư thế ngồi
viết, kỹ thuật viết, tốc độ viết tuỳ theo nhóm học sinh mà giáo viên có kế hoạch cụ thể
cho phù hợp.
5. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ mơn Tốn và biện pháp khắc
phục.
Trong khối lớp 2 của trường có nhiều em hầu như là khơng biết tính khi học tốn.
Ngun nhân thì có rất nhiều, tơi chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu:
Tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng chậm
Năng lực tư duy yếu
Phương pháp học tập toán chưa tốt
Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà
Vậy, đối với những học sinh khơng biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các
em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ,
giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực
hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với
những em khơng thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào

15



sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo
thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.
Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các
bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có
các chữ số thuộc cùng một hàng.
Ví dụ: 12 + 13
Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.
Ví dụ: 56 + 9
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn
hoặc từ lớn đến nhỏ thì mới tính tốn chính xác được.
Bên cạnh những học sinh khơng biết tính thì có những em tính cịn yếu. Ngun
nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia
trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính tốn chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các
phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia.
Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả
theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải
toán. Các em rất sợ các bài tập về giải tốn vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và khơng
biết tính hoặc tính thiếu chính xác.
Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần:
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức
độ đơn giản.
Khi giải tốn, giáo viên có thể u cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và
trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số
và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ rèn vào buổi chiều. Khi
các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời.
Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản.
Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.
Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.

Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn
thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần.
Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem
trước bài mới.

16


Lập danh sách các lỗi sai để làm rõ nguyên nhân gây ra những khó khăn trong tính
tốn của học sinh.
Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và
động viên kịp thời.
6. Dùng phương pháp động viên khích lệ học sinh trong quá trình dạy học:
Như chúng ta biết, tâm lý của các em học sinh lớp 2 rất nhạy cảm, các em muốn
được khen và rất hiếu thắng. Vì thế giáo viên cần phải có nhiều lời khen trong quá trình
dạy học, nhưng tuỳ từng đối tượng học sinh để khen.
Ví dụ: Với những học sinh chậm, yếu, kém thì giáo viên cần phải tìm được những
điểm tiến bộ tuy nhỏ để động viên các em.
- Bên cạnh việc khen, giáo viên cũng phải hết sức tế nhị trong vấn đề nhắc nhở, phê
bình học sinh. Làm sao để các em thấy được nhược điểm, sai sót của mình để cố gắng
khắc phục, vươn lên. Tránh tình trạng làm cho các em mặc cảm, thu mình, tự ti,...
7. Trong công tác chủ nhiệm:
- Như ta đã biết, mỗi đối tượng học sinh; mỗi con người thì có đặc điểm tâm sinh lý
khác nhau. Nhất là đối với đối tượng học sinh yếu thì tâm sinh lí của các em càng khác
thường hơn. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng học tập của các em thì nhất thiết người
giáo viên phải hiểu rõ về em đó. Từ việc tìm hiểu và thống kê đặc điểm tâm sinh lí của
từng đối tượng học sinh yếu, nó sẽ giúp giáo viên đề ra các biện pháp và phương pháp
dạy học thích hợp.
- Bên cạnh việc tìm hiểu tâm sinh lí học sinh thì cơng tác liên hệ với PHHS cũng góp
phần rất quan trọng. Chính vì vậy, đầu năm học thơng qua buổi họp PHHS giáo viên nên

tranh thủ tìm hiểu về việc làm, nơi làm việc của PHHS để tiện cho việc liên lạc. Nhưng
do đặc điểm kinh tế địa phương, thường thì trong mỗi lớp số PHHS đi làm xa rất nhiều và
khó liên lạc. Đối với những PHHS đi làm xa để con ở nhà với người thân thì giáo viên
u cầu mỗi tháng ít nhất PHHS phải đến lớp 1 lần để gặp giáo viên chủ nhiệm (GVCN).
Tranh thủ thời gian đó giáo viên báo cáo về tình hình học tập của học sinh đồng thời phối
hợp với PHHS đề ra các biện pháp giáo dục hay đưa ra các giải pháp để giải quyết vấn
đề. Nhờ đó mà PHHS đã hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong công tác rèn học sinh yếu.
 Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta phối hợp một cách nhịp nhàng và chặt chẽ giữa gia
đình và nhà trường thì dù các em có học yếu, kém và khơng có ý thức trong học tập cỡ
nào thì dưới tác động của gia đình và nhà trường nhất định rằng việc học của các em
sẽ dần tiến bộ.

17


Theo kinh nghiệm những năm giảng dạy và làm công tác chun mơn Phịng Giáo dục
của mình, tơi cho rằng 02 biện pháp sau đây là quan trọng nhất mà người giáo viên phải
nắm chắc là:
- Xây dựng động cơ học tập cho các em.
- Trong công tác chủ nhiệm.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Đối với giáo viên:
Hiểu rõ được tầm quan trọng của việc rèn học sinh yếu để nâng cao chất lượng giáo
dục.
Tập trung vào sự phát triển của học sinh và vào việc học sinh biểu hiện kết quả học
tập như là một phần của quá trình học tập; coi đánh giá kết quả học tập là nguồn thơng tin
hữu ích để phản hồi lại cho việc dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh; công
nhận thành công trong học tập của học sinh hơn là nhấn mạnh sự thất bại.
2. Kết quả về chất lượng:
Giỏi

Mơn

Khá

Trung bình Yếu

TSHS
SL

%

Tiếng Việt 44

1

Tốn

4

44

SL

%

SL %

SL

%


2,27% 8

18,1%

33 75%

2

4,63%

9%

27,2%

27 61,3% 1

12

2,5%

PHẦN KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Đầu năm học, giáo viên phải kiểm tra khả năng.
2. Tìm hiểu và theo dõi tâm sinh lí của từng đối tượng học sinh. Động viên các em học
yếu thông qua các tấm gương phấn đấu trong học tập của các lớp đàn anh đi trước.
3. Tổ chức nhiều trò chơi hứng thú cho học sinh.
4. Lựa chọn cho các em những bài tập phù hợp từ đơn giản đến khó dần.
5. Động viên, khuyến khích các em khi có sự chuyển biến tốt (dù chỉ là rất nhỏ).


18


6. Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đồn thể trong nhà trường, với
chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Tóm lại: nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học
sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì
chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy
khả năng tự học của mình. Cùng với lịng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ
lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến
với các em. Và có lẽ rằng, vai trò của chúng ta:
“ Người Thầy của mọi trị” đã hồn thành.
II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy và
làm cơng tác chun mơn Phịng Giáo dục. Đây cũng là một phần khơng thể thiếu góp
phần giúp tơi hồn thành tốt trong q trình cơng tác và “ nâng cao chất lượng việc rèn
học sinh yếu.- Ngồi ra vẫn cịn nhiều vấn đề đặt ra để nhằm nâng cao chất lượng việc
rèn học sinh yếu.
Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên giáo viên
luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết,
học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người cơng dân có ích cho xã hội. Bản
thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong cơng tác phụ
đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày
một được nâng cao.
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương
châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẻ
của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh
yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết
thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.
III. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG, TRIỂN KHAI

Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc Tiểu học đã tạo điều kiện
cho chúng tôi phát huy sở trường trong công tác chuyên môn, mạnh dạn trong việc đề ra
những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó
giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những
hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi
mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc đổi
mới dạy và phụ đạo học sinh yếu khối 2 trên toàn huyện đạt hiệu quả.

19


IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
Để cuối năm xóa hết được số học sinh yếu lớp 2 tơi có một số kiến nghị như sau :
- Về phía phụ huynh cần quan tâm đến việc học của con em, ngay từ lớp mầm non
cần cho các em đi học đúng độ tuổi và chuyên cần. Đến lớp cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ
học tập, sách vở để các em có điều kiện học tốt .
Tạo mọi điều kiện để con em đi học chuyên cần , thường xuyên trao đổi với giáo
viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình học tập của con em mình.
- Về phía nhà trường cần tổ chức phụ đạo riêng số học sinh yếu đọc ngay từ đầu
năm học .Trang bị thêm tranh ảnh, đồ dùng phục vụ dạy học.
- Về phía giáo viên phải thực sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo khơng khí vui
để học giúp các em học yếu u thích mơn học .Vận dụng linh hoạt các hình thức ,
phương pháp dạy học tích cực để các em có cơ hội phát triển kiến thức của mình .Cần
tăng cường rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động học tập.
- Về phía học sinh phải đi học chuyên cần , thực hiện tốt các yêu cầu của cô giáo .
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương
châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân làm cơng tác
chun mơn phịng Giáo dục và sự chia sẻ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân ln hồn
thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa
bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn. Kính mong các cấp lãnh đạo, quý

thầy, cơ đóng góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả khả thi cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

20



×