Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

skkn một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn luyện từ và câu ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.35 KB, 33 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................1
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................................................1

II.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU..............................................................................................2

III.

PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.......................................................................2

IV.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................................................................................2

V.

PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU....................................................................2

PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................................................3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN..................................................................3
1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN............................................................................................................3

2.

CƠ SỞ THỰC TIỄN.......................................................................................................4


CHƯƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH NHẬN BIẾT VÀ VẬN DỤNG TỐT
CÁC PHÉP TU TỪ SO SÁNH......................................................................................................6
Biện pháp 1: Nghiên cứu cấu trúc, nội dung chương trình sách giáo khoa, phân nhóm
các dạng bài tập so sánh............................................................................................................6
Biện pháp 2: Tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của phép tu từ so sánh...................................7
Biện pháp 3: Giúp học sinh nhận biết các dạng bài tập về so sánh..................................10
Biện pháp 4: Giúp học sinh củng cố kiến thức về biện pháp so sánh qua hệ thống bài
tập mở rộng. 19
Biện pháp 5: Giúp học sinh nhận biết biện pháp so sánh thông qua các câu đố dân gian
23
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ........................................................................................................25
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.....................................................................................................28
1.

KẾT LUẬN........................................................................................................................28

2.

ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ:.....................................................................................28



PHẦN MỞ ĐẦU
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đối với học sinh Lớp 3, So sánh là mảng kiến thức mới song cũng phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học: giàu trí tưởng tượng, giàu cảm
xúc, cách suy nghĩ hồn nhiên, trong sáng…Biện pháp so sánh có khả năng khắc
họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động,

mặt khác so sánh cịn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn
đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư
tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như vậy so sánh trong văn học mang chức
năng nhận thức và biểu cảm. Học tốt biện pháp So sánh sẽ giúp các em hiểu và
cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong những câu văn, những bài văn, bài thơ. Qua
đó góp phần mở mang tri thức, làm phong phú tâm hồn để giúp các em viết được
những câu văn hay, gợi tả, gợi cảm và những bài văn giàu cảm xúc. Khơng chỉ có
vậy, nó cịn giúp cho các em học tốt thể loại văn miêu tả ở Lớp 4 và Lớp 5, thể
loại văn nghệ thuật sử dụng lời văn có hình ảnh và cảm xúc làm cho người nghe,
người đọc hình dung rõ nét, cụ thể, sinh động về các sự vật hiện tượng…
Hơn thế nữa, biện pháp So sánh còn giữ vai trị quan trọng trong việc diễn
đạt tư tưởng, tình cảm thích hợp với việc biểu đạt các đặc điểm, thuộc tính riêng
vốn có của các sự vật, hiện tượng… tạo nên những bức tranh sinh động với gam
màu ấn tượng bằng ngơn từ.
Chính vì vậy, dạy So sánh được rất nhiều giáo viên quan tâm, nhất là giáo
viên dạy lớp 3. Vấn đề được đặt ra là dạy như thế nào cho hợp lý nhất, học sinh
nắm bài tốt nhất để từ đó các em biết cách vận dụng vào những bài văn một cách
chính xác và đạt hiệu quả cao.
Qua thực tế ở trường mình dạy và trao đổi với các bạn bè đồng nghiệp ở
trường bạn, tôi thấy các giáo viên đều hiểu rõ tầm quan trọng của phân môn
Luyện từ và câu cũng như cái hay cái mới của phân mơn này. Do có những nét
mới trong phân môn này nên khi dạy về biện pháp tu từ so sánh, nhiều giáo viên
đã biến giờ học Luyện từ và câu thành một giờ “giảng văn” nhằm lột tả cái hay,
cái đẹp trong mỗi hình ảnh so sánh. Điều đó hồn tồn sai phương pháp đặc trưng
của phân môn, dẫn đến học sinh không không nắm được kiến thức trọng tâm của
bài, chính vì vậy mà các em không mấy hứng thú trong học tập dẫn đến hiệu quả
học tập không cao. Là một giáo viên dạy lớp 3 lâu năm, có kinh nghiệm, việc
nghiên cứu về nội dung và phương pháp dạy học không chỉ là trách nhiệm mà còn
là niềm say mê, sự yêu nghề của tôi.
Nhận rõ tầm quan trọng của việc dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh để

các em biết vận dụng vào nói và viết văn, ngay từ đầu năm học tơi đã đi sâu
nghiên cứu và tìm ra Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt
phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3
1


II.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đặc điểm của dạy Luyện từ và câu lớp 3 chính là giúp học sinh tiếp cận
kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được phương pháp rèn
luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Từ đó vận dụng linh
hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu một cách
hiệu quả nhất.
Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó
học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ.

III.

PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tôi chọn học sinh lớp 3A3 do tôi chủ nhiệm năm học 2018 - 2019 làm
đối tượng nghiên cứu, sĩ số học sinh là 45 em.

IV.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tơi mạnh dạn nghiên cứu,
học hỏi, tìm tịi, áp dụng những phương pháp sau:

1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu)

2. Phương pháp điều tra giáo dục.
3. Phương pháp phân tích tổng hợp.
4. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm (thông qua các chuyên đề ở tổ khối, dự
giờ rút kinh nghiệm của đồng nghiệp, rút kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy
của mình, khảo sát đối tượng học sinh.)
5. Phương pháp quan sát, đàm thoại, trò chuyện với giáo viên và học sinh lớp 3.
V.
PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
 Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 3A3
 Kế hoạch nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong hệ thống giáo dục, bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng, vì nó
là bậc học nền móng cho các bậc học tiếp theo.
Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng góp phần đào tạo
ra lớp người mới phát triển một cách tồn diện để có thể gánh trên vai sứ mệnh
lịch sử của ngành giáo dục. Ở Việt Nam, những năm gần đây giáo dục tiểu học
được quan tâm đặc biệt. Những năm qua đã có biết bao cơng trình nghiên cứu,
bao sáng kiến cải cách nội dung, đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp
với sự phát triển của xã hội.
Chương trình tiểu học mới địi hỏi người thầy ở khắp mọi miền Tổ quốc
phải nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, tích cực đổi mới phương pháp dạy
học để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.

Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là mơn học có chức năng “kép”
(vừa là mơn khoa học, vừa là môn công cụ) và là môn học chiếm nhiều thời
lượng nhất. Môn Tiếng Việt cung cấp một khối lượng kiến thức cơ bản cho
mỗi học sinh trước khi bước vào đời. Đồng thời, nó giúp học sinh rèn luyện,
nâng cao trình độ sử dụng một phương tiện học tập và lĩnh hội tri thức khoa
học, nâng cao kỹ năng sử dụng Tiếng Việt.
Học Tiếng Việt không chỉ dừng lại ở những hiểu biết về nó, mà điều quan
trọng là sử dụng nó ngày một thành thạo hơn, tốt hơn vào các hoạt động giao
tiếp đa dạng trong xã hội.
Để đạt được mục tiêu trên, phân môn Luyện từ và câu đã góp phần khơng
nhỏ, ngồi việc củng cố về các mẫu câu và mở rộng vốn từ cho học sinh thì
phân mơn Luyện từ và câu cịn giúp các em làm quen với các biện pháp tu từ,
trong đó có biện pháp tu từ so sánh. Đây là mảng kiến thức rất mới đối với học
sinh lớp 3. Qua các bài học, các em sẽ nhận biết được các hình ảnh so sánh,
các sự vật được so sánh với nhau trong mỗi khổ thơ, mỗi đoạn văn, các em cần
phân biệt được kiểu so sánh của mỗi hình ảnh so sánh ấy; thấy được ý nghĩa,
tác dụng của biện pháp so sánh trong biểu đạt ngôn ngữ làm cho sự vật hiện
lên sinh động và gần gũi hơn. Để viết được những câu văn hay, những bài văn
giàu hình ảnh và cảm xúc, các nhà thơ nhà văn phải có sự quan sát tinh tế và
kết hợp với các biện pháp nghệ thuật để tạo nên sự thành cơng của tác phẩm .
Nhờ những hình ảnh bóng bảy, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm
diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong
thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi.
3


Việc giúp các em tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong tác phẩm để qua đó dạy
các em biết cách sử dụng các biện pháp tu từ vào trong những bài học của
mình. Vậy, vấn đề đặt ra là: Giáo viên cần có những hình thức tổ chức, phương
pháp dạy học như thế nào để các em tích cực tham gia vào hoạt động học tập

và giờ dạy đạt hiệu quả cao.
2.

CƠ SỞ THỰC TIỄN
Để nắm rõ nguyên nhân và tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất cho
việc dạy và học biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tìm hiểu kĩ thực trạng việc dạy
và học biện pháp này ở giáo viên và học sinh.
Nhìn chung, nhiều giáo viên đã nắm được mục đích của việc dạy phép
tu từ so sánh, biết sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Một số giáo viên biết sử dụng linh
hoạt các phương tiện dạy học, giúp các em tiếp cận với phép so sánh một cách
dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, giáo viên và học sinh vẫn còn gặp một số khó khăn và hạn
chế khi dạy và học phép tu từ so sánh như sau:

2.1.Về phía giáo viên:
Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với bạn bè đồng nghiệp cho thấy:
Khi dạy về biện pháp tu từ so sánh một số giáo viên còn rất lúng túng trong việc nắm
vững mức độ nội dung của từng bài cụ thể dẫn đến việc dạy quá cao hoặc quá thấp so
với chương trình.
Giáo viên mới chỉ chú tâm vào việc dạy cho học sinh nhận biết phép tu từ
so sánh mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy học sinh cách cảm nhận và vận
dụng các kiến thức về so sánh vào việc nói và viết.
Phần lớn giáo viên chỉ tổ chức cho học sinh luyện tập những bài tập trong
sách giáo khoa, rất ít giáo viên sáng tạo ra các bài tập mới, các tình huống mới
hay tạo ra hoàn cảnh sử dụng từ của học sinh.
Vốn kiến thức của một số giáo viên còn hạn chế . Tài liệu tham khảo, mở
rộng vốn hiểu biết cho giáo viên và học sinh chưa nhiều.
Một số bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa chú trọng quan tâm đến việc lồng
ghép trong q trình dạy học giữa các phân mơn của môn Tiếng Việt với nhau,

để khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tị mị của phân mơn này với phân mơn
khác trong mơn Tiếng Việt.
2.2. Về phía học sinh
Khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản,
trực quan, vốn kiến thức văn học của học sinh rất ít ỏi nên việc cảm thụ nghệ
thuật tu từ so sánh còn hạn chế.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp mình phụ trách và tìm hiểu thêm về học
sinh lớp khác qua các đồng nghiệp, tơi thấy các em cịn mắc những lỗi sau:
 Học sinh nhầm lẫn giữa so sánh logic và so sánh tu từ

4


Ví dụ câu “ Trăng đêm nay sáng quá, trăng mai còn sáng hơn” là một
phép so sánh tu từ bậc hơn kém nhưng thực tế nó là phép so sánh logic.
 Nhận diện sai các yếu tố so sánh
Ví dụ câu: “ Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những
bóng đèn pha lê.” học sinh xác định các sự vật được so sánh với nhau là “ hạt
sương” so sánh với “ lá” như vậy là sai. Đáp án ở đây phải là “ hạt sương
sớm” được so sánh với “ bóng đèn pha lê”.
Hay trong các câu thơ sau:
Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung.
Các em thường xác định sai là
mùa đông so sánh với tủ ướp lạnh
mùa hè so sánh với bếp lị nung
 Tạo hình ảnh so sánh chưa hợp lý
Học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh “Con đường thẳng tắp như một

chiếc thước kẻ.” Hầu hết các em chỉ biết tạo ra hình ảnh so sánh mà thiếu đi
tính thẩm mĩ của nghệ thuật so sánh.
 Chưa cảm nhận được giá trị của phép so sánh.
Chẳng hạn với những câu hỏi như : Trong các hình ảnh so sánh có ở
trong bài, em thích hình ảnh nào? Vì sao? Các em chỉ nêu được hình ảnh so
sánh mình thích chứ khơng giải thích được vì sao thích.
Để kiểm tra khả năng nắm bài cũng như theo dõi sự tiến bộ của học
sinh, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trước khi áp dụng biện pháp mới. Sau
khi học xong tiết về so sánh ở tuần 1 và tuần 3, tôi đã chọn bài tập trong tiết
Luyện từ và câu của tuần 5 làm bài tập khảo sát.
Kết quả thu được như sau:
Mức độ

Số lượng học sinh

Tỉ lệ (%)

Nhận biết tốt biện pháp tu từ so sánh

10 em

22%

Nhận biết chưa tốt biện pháp tu từ so sánh

8 em

18%

Chưa nhận biết được biện pháp tu từ so sánh


27 em

60%

Băn khoăn trước kết quả còn thấp của học sinh lớp mình, tơi đã tìm hiểu
ra những nguyên nhân nêu trên và mạnh dạn đưa ra các biện pháp giúp học
sinh nhận biết và vận dụng tốt hơn phép tu từ so sánh.

5


CHƯƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH NHẬN BIẾT VÀ
VẬN DỤNG TỐT CÁC PHÉP TU TỪ SO SÁNH
Biện pháp 1: Nghiên cứu cấu trúc, nội dung chương trình sách giáo khoa,
phân nhóm các dạng bài tập so sánh
1. Nội dung chương trình sách giáo khoa:
Muốn giảng dạy tốt từng bộ mơn, phân mơn thì việc đầu tiên người giáo
viên phải nghiên cứu kỹ nội dung, chương trình sách giáo khoa để có phương
pháp và kế hoạch dạy học đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học,
khi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 3 tôi đã bắt tay ngay vào việc
nghiên cứu kỹ chương trình để có định hướng dạy tốt phân mơn Luyện từ và
câu, nhất là mảng kiến thức về phép tu từ So sánh.
Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 được dạy 1tiết/1 tuần trong đó có 7 tiết
dạy về So sánh (trong học kỳ I). Mục đích yêu cầu về nội dung, kiến thức mỗi
tiết cũng nâng dần mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, giúp học
sinh
2. từng bước nắm bắt, ghi nhớ và luyện tập có hiệu quả.
Yêu cầu và mức độ của mỗi tiết dạy được tơi cụ thể hóa trong bảng sau:
Tiết/tuần

Tiết 1 (Tuần 1)

Nội dung
Học sinh bước đầu làm quen với biện pháp tu từ So sánh
Học sinh biết cách tìm những hình ảnh so sánh trong các

Tiết 2 (Tuần 3)

câu thơ, câu văn và nhận biết các từ chỉ sự so sánh trong các
câu văn đó
Học sinh nắm bắt được kiểu so sánh: So sánh hơn kém, so

Tiết 3 (Tuần 5)

sánh ngang bằng. Biết cách thêm các từ so sánh vào những
câu văn chưa có từ so sánh.

Tiết 4 (Tuần 7)
Tiết5 (Tuần10)

Học sinh tìm hiểu thêm một cách so sánh: so sánh sự vật với
con người, con người với sự vật.
Học sinh nắm bắt thêm cách so sánh: So sánh âm thanh với
âm thanh.

Tiết 6 (Tuần 12)

Học sinh biết cách so sánh hoạt động với hoạt động.

Tiết 7 (Tuần 15)


Học sinh đặt được câu văn có hình ảnh so sánh.

6


Tồn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập 1 dạy về So sánh gồm 7 tiết với
các mơ hình sau:
 Mơ hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật
 Mơ hình 2: So sánh Sự vật - Con ngƣời
 Mơ hình 3: So sánh Hoạt động - Hoạt động
 Mơ hình 4: So sánh Âm thanh - Âm thanh
Đặc trưng của phân mơn Luyện từ và câu có những điểm mới so với sách
giáo khoa cũ là học sinh tự rút ra kiến thức qua việc thực hành làm các bài tập.
Vì vậy, dựa vào nội dung, chương trình như trên tơi đã khái qt lại chương
trình thành các dạng bài tập về biện pháp so sánh như sau:
2. Các dạng bài tập về biện pháp so sánh:
Nhận biết những sự vật so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc điểm
so sánh và những từ so sánh trong câu: Tiết 1, 2, 3, 4, 5, 6.
Cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh, tập đặt câu có sử dụng phép so
sánh: Tiết 7
Như vậy, mỗi tiết học về so sánh có yêu cầu khác nhau. Tiết học sau đòi
hỏi kiến thức cao hơn tiết học trước, mỗi tiết học cung cấp một mảng kiến
thức, một dạng bài tập. Vì thế tơi tìm hiểu kỹ nội dung, mức độ kiến thức cần
truyền đạt của từng tiết để tạo thành mạch kiến thức có liên kết một cách chặt
chẽ logic.
* Một số yêu cầu cơ bản khi dạy so sánh
Học sinh Tiểu học với nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng nên việc hướng dẫn các em tìm hiểu những biện pháp tu từ không phải
là dễ. Bởi vậy, khi dạy phép so sánh trong phân môn luyện từ và câu cho học

sinh, tôi đã chú ý đến những yêu cầu cơ bản sau:
Sử dụng đồ dùng trực quan và thơng qua các ví dụ cụ thể để dẫn dắt học
sinh dần dần hiểu, nắm bắt, vận dụng biện pháp tu từ so sánh theo mức độ từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để từ đó nâng dần khả năng tư duy, óc
sáng tạo cho học sinh.
Thơng qua các bài tập nhận biết, học sinh được luyện tập và vận dụng
biện pháp tu từ so sánh trong khi nói và viết. Bên cạnh đó, học sinh cịn cần
được tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật để biết cách cảm thụ cái hay, cái đẹp
của thơ văn.
Biện pháp 2: Tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của phép tu từ so sánh
Để dạy tốt kiến thức về so sánh thì người giáo viên phải nắm vững kiến
thức về phong cách học nói chung và phép so sánh tu từ nói riêng. Có như vậy
giáo viên mới chủ động trong bài giảng cũng xử lý tốt các tình huống.

1. Khái niệm: So sánh tu từ là biện pháp tu từ trong đó người ta đối chiếu các
sự vật với nhau miễn là giữa các sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi
ra hình ảnh cụ thể,những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc và
người nghe.
7


Khi so sánh phải có ít nhất hai sự vật trở lên. Trong đó có sự vật so sánh
(A) và sự vật được so sánh (B). Hai sự vật này phải có ít nhất một nét tương
đồng. Hiệu quả của phép tu từ so sánh là gợi ra những hình ảnh cụ thể, những
cảm xúc thẩm mĩ.
2. Phân biệt sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh logic:
So sánh logic là một biện pháp nhận thức trong tư duy của con người, là
việc đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm
ra sự giống nhau và khác biệt giữa chúng.
Ví dụ:

Cái lưng cịng của ơng cụ sao giống lưng ông nội thế.
Cơ sở của phép so sánh logic dựa trên tính đồng nhất, đồng loại của các sự
vật hiện tượng và mục đích của sự so sánh là xác lập sự tương đương giữa hai đối
tượng.
Nếu như giá trị của so sánh logic là xác lập được sự tương đương giữa hai
đối tượng thì giá trị của so sánh tu từ là ở sự liên tưởng, sự phát hiện và gợi cảm
xúc thẩm mĩ ở người đọc, người nghe.
Trong ví dụ :
Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng.
( TV 3 - tập 1, trang 7)
Ở ví dụ trên “bà” được ví như “quả ngọt” đã chín, bà càng có tuổi thì tình
cảm của bà càng sâu sắc, càng ngọt ngào như quả chín trên cây. Với sự so sánh
này, người cháu đã thể hiện được tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với
bà.
Như vậy, so sánh tu từ học và so sánh logic khác nhau ở 3 yếu tố:
- Tính hình tượng
- Tính biểu cảm
- Tính dị loại (khơng cùng loại) của sự vật.
3. Cấu trúc của phép so sánh tu từ:
Đối tượng

Phương diện, đặc

Đối tượng đưa ra để

điểm so sánh

Từ so sánh


(1)

(2)

(3)

(4)

Trăng

trịn

như

cái đĩa

được so sánh

làm chuẩn so sánh

Trong đó :
- Yếu tố (1) là cái so sánh, đây là yếu tố được hoặc bị so sánh tùy theo việc
so sánh là tích cực hay tiêu cực.
8


- Yếu tố (2) là cơ sở so sánh, đây là yếu tố chỉ tính chất sự vật hay trạng thái
của hành động được nhìn nhận theo một cách nào đó có vai trị nêu rõ phương diện
so sánh.
- Yếu tố (3) là mức độ so sánh thường được diễn ra ở mức độ ngang bằng

nhau. Ngoài từ “ như” cịn có các từ “ tựa”, “ tựa như”, “ giống như”, “ là”,
“như là”, “ như thể”…; so sánh hơn kém như từ “ hơn”, “ chẳng bằng”…
- Yếu tố (4) là cái được so sánh, tức là cái đưa ra để làm chuẩn so sánh.
Theo cấu trúc như trên, đối tượng được so sánh và đối tượng đưa ra để
làm chuẩn so sánh có thể là sự vật, con người, âm thanh, đặc điểm, hoạt
động…
Dựa vào cấu trúc có thể chia ra các dạng so sánh sau:
* Dạng 1: Phép so sánh đầy đủ cả 4 yếu tố:
Ví dụ:Trăng tròn như cái đĩa
1
2 3
4
* Dạng 2: Phép so sánh vắng yếu tố (2)
So sánh vắng yếu tố (2) cịn gọi là so sánh chìm, tức là khơng có cơ sở
so sánh. Khi bớt cơ sở so sánh thì phần thuyết minh miêu tả cái được so sánh
sẽ rõ ràng hơn.Nó cịn tạo điều kiện cho sự liên tưởng rộng rãi, phát huy sự
sáng tạo của người đọc, người nghe hơn là so sánh có đủ 4 yếu tố. Dạng so
sánh này kích thích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để có
thể xác định được những nét giống nhau giữa 2 đối tượng ở 2 vế và từ đó nhận
ra đặc điểm của đối tượng được miêu tả.
Ví dụ :

Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
* Dạng 3: Phép so sánh vắng yếu tố (2) và (3)
Đây là dạng so sánh khơng đầy đủ, chỉ có cái so sánh và cái được so
sánh.Trong trường hợp này yếu tố (2) và yếu tố (3) được thay thế bằng chỗ
ngắt giọng, dấu gạch ngang hoặc là hình thức đối chọi.
Ví dụ:
Thân dừa bạc phếch tháng năm

Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã dùng chỗ ngắt giọng (được ghi lại bằng
dấu gạch ngang) và đối chọi (giữa quả dừa và tàu dừa) để tạo nên một hình
thức so sánh có âm điệu nhịp nhàng.
Trong so sánh tu từ, cịn có hình thức kết hợp một vế so sánh, một đối
tượng so sánh với nhiều đối tượng được so sánh.
Ví dụ:
Bác là cha, là bác, là anh.
9


Dựa vào mặt ngữ nghĩa thì so sánh tu từ có 2 dạng: so sánh ngang bằng và so sánh
hơn - kém.
+ Dạng so sánh ngang bằng.
Đây là dạng so sánh phổ biến thường dùng từ “ như”, “ là”, “tựa”, “
tựa như”… để làm từ so sánh.
Ví dụ: Giọt sương sớm long lanh như những hạt ngọc.
+ Dạng so sánh hơn- kém
Đây là dạng so sánh luôn gắn với từ hơn : khỏe hơn, đẹp hơn hoặc chẳng
bằng.
Ví dụ:

Những ngơi sao thức ngồi kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.

Những ví dụ trên cho ta thấy các đối tượng được đưa ra để so sánh khác
nhau về bản chất. Nhưng do một cách nhìn đặc biệt, các đối tượng vốn là khác
loại, khác bản chất có thể chuyển hóa được cho nhau, có những đặc điểm,

những nét giống nhau.
Vậy so sánh tu từ là biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối
chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với
nhau hồn tồn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình
ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng.
Mặt khác, sách giáo khoa Tiếng Việt 3 không trực tiếp đưa ra khái
niệm So sánh (với tư cách là một biện pháp tu từ) cho học sinh mà thông qua
các bài tập dần dần hình thành khái niệm đơn giản về so sánh cho học sinh.
Chính vì vậy khi dạy về so sánh cho học sinh, tôi đã dựa trên các dạng bài tập
để phân loại và lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với từng dạng bài cụ thể.
Biện pháp 3: Giúp học sinh nhận biết các dạng bài tập về so sánh
1. Dạng bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh
Đây là dạng bài tập giúp học sinh nhận biết những sự vật so sánh, những
hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu. Để
dạy tốt dạng bài tập này, tôi đã hướng dẫn học sinh cụ thể trong từng tiết học
như sau:
* Ví dụ 1: Tiết 1 - Tuần 1 (Bài tập 2/ Trang 8 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
Tìm những sự vật được so sánh trong các câu văn, câu thơ dưới đây:
a) Hai bàn tay em

b)
c)

Như hoa đầu cành Huy
Cận
Mặt biển sáng trong như tấm gương khổng lồ bằng ngọc thạch.
Vũ Tú Nam

Cánh diều như dấu “á”
Ai vừa tung lên trời

Lương Vĩnh Phúc
10


d)

Ơ, cái dấu hỏi Trông
ngộ, ngộ ghê Như
vành tai nhỏ Hỏi rồi
lắng nghe
Phạm Như Hà

Đây là dạng bài tập đầu tiên các em được làm quen với so sánh với yêu
cầu là nhận diện các từ chỉ sự vật được so sánh. Để làm tốt bài tập này học
sinh phải nắm chắc các từ chỉ sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu
văn trên là:
+ “ Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”
+ “ Mặt biển so sánh với “tấm thảm khổng lồ”
+ “ Cánh diều” so sánh với dấu “á”
+ “ Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”.
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với
“hoa đầu cành” hay vì sao nói “ Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Lúc đó
giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật này đều có điểm nào giống
nhau, chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
Trên thực tế ấn tượng thính giác kết hợp với ấn tượng thị giác giúp các em dễ dàng
nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn nên tôi đã cho học
sinh xem ảnh “cánh diều” và “dấu á”. Còn dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên

rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai thì tơi cho học sinh nhìn vào vành tai bạn.
Cuối cùng tôi đưa ra kết luận: Các tác giả quan sát rất tài tình nên đã
phát hiện sự giống nhau giữa các sự vật xung quanh ta. Bởi vậy, khi so sánh
cần có hai sự vật đưa ra, hai sự vật đó phải có điểm giống, điểm tương đồng
với nhau. Và trong hai sự vật đó (1 sự vật được so sánh, 1 sự vật đưa ra làm
chuẩn để so sánh) thường được đặt trước và sau từ “như”. Đây là một dấu hiệu
để nhận ra các sự vật được so sánh với nhau trong câu.
* Ví dụ 2: Tiết 2 - Tuần 3 (Bài tập 1 + 2/ Trang 24 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
- Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu văn, câu thơ sau. Nêu các từ chỉ sự so
sánh.
a)

Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.
Thanh Hải
b) Em yêu nhà em
Hàng xoan trước ngõ
Hoa xao xuyến nở Như
mây từng chùm.
Tô Hà
11


c) Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung.
Lò Ngân Sủn
d) Những đêm trăng sáng, dịng sơng là một đường trăng lung linh dát vàng.
Đất nước ngàn năm

Ở bài tập này tôi cho học sinh thảo luận nhóm.
Bằng kiến thức đã học ở tiết 1(Tuần 1), các em dễ dàng nhận ra các hình
ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn:
a) Mắt hiền sáng tựa vì sao
b) Hoa xao xuyến nở
c) Trời là cái tủ ướp lạnh
Trời là cái bếp lị nung.
d) Dịng sơng là một đường trăng lung linh dát vàng
+
Trong câu a, dựa vào đâu con biết hình ảnh “mắt hiền” được so
sánh với “vì sao”? (Dựa vào từ “tựa”)
Giáo viên chỉ ra: Đây là từ chỉ sự so sánh
Tương tự câu a, học sinh sẽ tìm được các từ so sánh trong các câu cịn
lại. Sau đó tơi chốt lại kiến thức của bài bằng cách đưa ra hệ thống câu trả lời
nhằm giúp học sinh nắm chắc nội dung của bài:
Từ chỉ sự vật được so sánh

Từ so sánh

Từ chỉ sự vật dùng để so sánh

Mắt hiền

tựa

vì sao

Hoa xao xuyến nở

như


mây từng chùm

Trời



cái tủ ướp lạnh

Trời



cái bếp lị nung

Dịng sơng



đường trăng lung linh dát vàng

Như vậy, yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không
chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ sự so sánh “như” mà còn nêu được các từ chỉ
sự so sánh thường dung: như, là, tựa như, tựa, …
Tôi nhấn mạnh để học sinh hiểu: Từ chỉ sự so sánh chính là dấu hiệu để nhận
biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh.
Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh
làm bài tập sau:
Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so sánh trong câu
sau:

12


Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây.

Từ chỉ sự vật được so sánh

Từ so sánh

Từ chỉ sự vật dùng để so sánh

Mắt hiền

tựa

vì sao

Hoa xao xuyến nở

như

mây từng chùm

Trời



cái tủ ướp lạnh


Trời



cái bếp lò nung

Dịng sơng



đường trăng lung linh dát vàng

Như vậy, u cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không
chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ sự so sánh “như” mà còn nêu được các từ chỉ
sự so sánh thường dung: như, là, tựa như, tựa, …
Tôi nhấn mạnh để học sinh hiểu: Từ chỉ sự so sánh chính là dấu hiệu để nhận
biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh.
Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tơi u cầu học sinh
làm bài tập sau:
Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so sánh trong câu
sau:
Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây.
Dựa vào các từ so sánh vừa tìm được, tơi hướng dẫn học sinh nhận diện
kiểu so sánh mới (so sánh hơn kém); từ đó phân biệt được 2 kiểu so sánh bằng
các câu hỏi:
+
Trong câu a, cách so sánh “Cháu khỏe hơn ơng nhiều” và “Ơng là
buổi trời chiều” có gì khác nhau? Hai sự vật được so sánh với nhau trong mỗi
câu là ngang bằng nhau hay hơn kém nhau?

Trả lời:
- Câu “Cháu khỏe hơn ông nhiều”, hai sự vật so sánh với nhau là “ông”
và “cháu”; hai sự vật này khơng ngang bằng nhau mà có sự chênh lệch hơn
kém (cháu hơn ơng).
- Câu “Ơng là buổi trời chiều”, hai sự vật này có sự ngang bằng nhau.
+ Sự khác nhau về cách so sánh của hai câu này do đâu tạo nên?
(Trả lời: Do từ so sánh khác nhau tạo nên. Từ “hơn” chỉ sự hơn kém, từ
“là” chỉ sự ngang bằng nhau).
Sau khi học sinh nhận biết được hai kiểu so sánh, giáo viên cho học sinh
xếp các hình ảnh vào hai nhóm: + So sánh ngang bằng
+ So sánh hơn kém
13


Đặc biệt, ở bài học này, tôi đã nhấn mạnh cho học sinh: Sự khác nhau về
cách so sánh là do từ chỉ sự so sánh tạo nên:
+
Nếu từ so sánh là: tựa, như, là, giống như, như là, bằng… ->
thuộc kiểu so sánh ngang bằng.
+ Nếu từ so sánh là: hơn, chẳng bằng…-> thuộc kiểu so sánh hơn kém. Như
vậy, qua 3 tiết học, mặc dù đều là dạng bài tập nhận biết hình ảnh so
sánh, từ so sánh nhưng học sinh đã nắm bắt được kiểu so sánh và được nâng dần theo
mức độ từ dễ đến khó. Đây cũng là quan điểm chung của tất cả các mơn học ở Tiểu
học.
* Ví dụ 4: Tiết 5 - Tuần 10
Với hai bài tập nhận biết hình ảnh so sánh, học sinh tiếp tục luyện tập về
so sánh và hiểu thêm một cách so sánh mới: So sánh âm thanh với âm thanh. Ở
bài học này tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu như sau:
+ Bài tập 1 (Trang 79 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
Đọc đoạn thơ:

Đã có ai lắng nghe Tiếng
mưa trong rừng cọ Như
tiếng thác dội về Như ào
ào trận gió.
- Yêu cầu học sinh làm việc theo cặp trả lời câu hỏi:
+ Tiếng mưa trong rừng cọ được so sánh với những âm thanh nào?
(Trả lời: như tiếng thác, tiếng gió)
Như vậy, khơng chỉ có các sự vật, con người dùng làm đối tượng so sánh mà
những âm thanh trong tự nhiên cũng được các tác giả chọn làm hình ảnh so sánh.
Điều quan trọng tất cả những so sánh này đều gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ, đều là
kết quả của sự liên tưởng, sự phát hiện mà khơng phải ai cũng nhìn ra và nhận thấy.
Sau bài tập 1, tôi giới thiệu cho học sinh kiểu so sánh: âm thanh với âm thanh.
* Tiết 6 - Tuần 12
Tiết học này, học sinh tiếp tục làm quen với phép so sánh nhưng
là so sánh hoạt động với hoạt động
* Bài tập 1/Trang 98 - Tiếng Việt 3, Tập 1
Đọc khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi:
Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn trịn
Trên sân, trên cỏ.
Phạm Hổ
a) Tìm các từ chỉ hoạt động trong khổ thơ trên
b) Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả bằng cách nào?
14


Với câu hỏi a, học sinh đọc thầm khổ thơ và gạch dưới các từ chỉ
hoạt động (lăn, chạy)
+ Yêu cầu học sinh đọc lại khổ thơ để tìm câu thơ có hình ảnh so sánh:

(Chạy như lăn trịn)
- Với câu hỏi b, tơi cho học sinh thảo luận nhóm 2 và nêu ý kiến
Sau các câu trả lời, tôi nhấn mạnh: đây là cách so sánh hoạt động với
hoạt động. Hoạt động “chạy” của những chú gà con được miêu tả giống hoạt
động “lăn” của những hòn tơ nhỏ.
Qua bài tập 1, học sinh bước đầu đã nắm được cách so sánh hoạt động
với hoạt động. Vận dụng các kiến thức đã học trong các tiết trước và bài tập 1,
các em sẽ tự mình khám phá, tìm hiểu để tìm ra được những hoạt động được so
sánh với nhau trong bài tập 2.
* Bài tập 2 /Trang 98- Tiếng Việt 3, tập 1
Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau:
a. Con trâu đen lơng mượt
Cái sừng nó vênh vênh

Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đập đất
b. Cau cao cao mãi
Tàu vươn tới trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi
c. Xuồng con đậu quanh thuyền lớn giống như đàn con nằm quanh bụng
mẹ. Khi có gió, thuyền mẹ cót két rên rỉ, đám xuồng con lại húc húc vào mạn
thuyền mẹ như địi bú tí.
Sau khi học sinh trao đổi, nêu ý kiến, giáo viên hệ thống lại kiến thức
của bài tập 2 qua bảng sau nhằm giúp học sinh nắm chắc cấu trúc của so sánh:
Từ

Sự vật,
Hoạt động


con vật

so

Hoạt động

sánh

a) Con trâu đen (chân) đi

như

đập đất

b) Tàu cau

vươn

như

tay (vẫy)

c) Xuồng con

đậu (quanh thuyền lớn)

như

nằm (quanh bụng mẹ)


húc húc (vào mạn thuyền mẹ)
15

địi (bú tí)


Dạng bài tập này tôi giúp học sinh nắm chắc được các từ chỉ hoạt động, từ đó
học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn:
+ Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”.
* Như vậy qua 6 tiết học, học sinh đã nhận biết được các sự vật so sánh, các từ
so sánh, kiểu so sánh và các cách so sánh.
Trong mỗi tiết học, mỗi bài tập về dạng nhận biết trên, học sinh lại được cảm
nhận cái hay, cái đẹp của những câu văn có hình ảnh so sánh. Cụ thể như sau:
2. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
* Ví dụ 1: Tiết 5 - Tuần 10 (Bài tập 1/Trang 79 - TV3, Tập 1)
Với dạng bài này, giáo viên cần cho học sinh giải quyết các câu hỏi sau:
Nếu đặt :

A là sự vật so sánh.
B là sự vật được so sánh.
Học sinh phải trả lời được:
+ So sánh các sự vật, sự việc với nhau như vậy để làm gì?

Trả lời được câu hỏi này là học sinh đã hiểu được tác dụng của biện pháp tu từ
so sánh.
Để học sinh cảm nhận được giá trị nhận thức cũng như giá trị thẩm mĩ của
một hình ảnh so sánh, tơi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu bằng các câu hỏi sau:
+ B giúp các em hình dung ra A như thế nào?
+ B giúp em cảm nhận điều gì mới mẻ về A?
+ Hình ảnh so sánh đó gợi cho em cảm xúc gì? Ví

dụ:
Sau khi tìm được những âm thanh so sánh với tiếng mưa trong rừng cọ là
tiếng thác đổ và tiếng gió, tơi đưa tiếp câu hỏi:
Qua sự so sánh trên, em hình dung tiếng mưa trong rừng cọ như thế nào?
(Trả lời: Tiếng mưa trong rừng cọ rất to, rất mạnh và rất vang)
-> Như vậy cách so sánh đó đã giúp cho người đọc, người nghe hình dung rõ
hơn về tiếng mưa trong rừng cọ. Đó chính là tác dụng của so sánh: làm cho đối tượng
được so sánh rõ hơn, nổi bật hơn.
Tương tự với bài tập 1, ở bài tập 2 tôi cũng đưa ra các câu hỏi giúp học sinh
cảm nhận cái hay, cái đẹp của phép so sánh.
* Ví dụ :
Câu a) Tiếng suối được tác giả so sánh với tiếng đàn cầm, Vậy em hình dung ra tiếng
suối như thế nào?
(Tiếng suối chảy đều đều và rất êm tai)
Câu b) Tiếng suối và tiếng hát được so sánh với nhau ở điểm nào?
(rất trong)
16


Qua sự so sánh đó, em cảm nhận tiếng suối như thế nào?
(trong trẻo, nhỏ nhẹ và ngân xa)
* Như vậy, so sánh giúp cho người đọc, người nghe hình dung về
sự vật một cách cụ thể, sinh động hơn. Khơng những thế, nó cịn thể hiện sự
quan sát rất tài tình và tinh tế của các nhà văn, nhà thơ khi muốn bộc lộ cảm
xúc của mình vào tác phẩm.
3. Dạng bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh
* Ví dụ 1: Tiết 3 - Tuần 5 (Bài tập 4/ Trang 43 - TV3, Tập 1)
Hãy tìm các từ so sánh có thể thêm vào những câu chưa có từ so sánh ở bài tập 3.
M: Tàu dừa như chiếc lược chải vào mây xanh
Đây là bài tập học sinh bước đầu làm quen với việc đặt câu có hình ảnh

so sánh. Vì vậy, ở bài tập này, tơi cho học sinh phân tích mẫu và chỉ ra kiểu so
sánh trong bài là so sánh ngang bằng. Với kiểu so sánh đó, học sinh sẽ tìm
được rất nhiều từ ngữ thay thế: như, như là, tựa, tựa như, giống như…
Khi học sinh đã viết được những câu văn có hình ảnh so sánh, tơi cho
học sinh làm một bài tập đơn giản sau:
Viết câu văn so sánh các sự vật với nhau:
a. Cánh đồng lúa
tấm thảm
b. Mặt hồ
chiếc gương bầu dục
Với bài tập này, ngồi việc tìm ra được phép so sánh, bằng óc liên tưởng
của mình học sinh sẽ tìm được những điểm giống nhau của các sự vật để đặt
câu:
a. Cánh đồng lúa chín vàng trơng như tấm thảm khổng lồ.
b. Từ trên cao nhìn xuống, mặt hồ như một chiếc gương bầu dục lớn.
* Ví dụ 2: Tiết 7 - Tuần 15 (Bài tập 3/ Trang 126 - TV3,Tập 1)
Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu văn có
hình ảnh so sánh các sự vật trong tranh.

bài tập này, sách giáo khoa cung cấp sẵn nội dung so sánh qua các
tranh vẽ từng cặp sự vật có điểm giống nhau. Việc cần làm của học sinh là xác
định được sự vật so sánh và sự vật đưa ra để làm chuẩn so sánh ở từng cặp là
gì, sau đó căn cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống nhau (tương đồng nhau)
giữa các cặp sự vật trong tranh, từ đó đặt câu có hình ảnh so sánh các sự vật
đó.
Để tạo hứng thú cho học sinh đặt câu, tơi phóng to bức tranh trong sách
giáo khoa và hướng dẫn học sinh nói tên các cặp sự vật có trong mỗi tranh.
- Tranh 1: + Mặt trăng so sánh với quả bóng
- Tranh 2: + Nụ cười của bé so sánh với bông hoa
+ Khuôn mặt của bé so sánh với bông hoa

- Tranh 3:+ Ngọn đèn so sánh với ngôi sao
+ Ngọn đèn so sánh với ánh trăng
17


- Tranh 4:+ Hình dáng nước ta được so sánh với chữ S

Điểm cần lưu ý ở bài tập này là khi so sánh ta cần xác định đâu là sự vật
so sánh và đâu là sự vật dùng để đối chiếu so sánh.
Tiếp đó tơi cho học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh phù hợp với từng
tranh rồi viết vào vở; gọi 2 học sinh lên bảng, mỗi học sinh đặt 2 câu theo 2
tranh. Khi học sinh đặt câu chưa hay, tôi hướng dẫn các em sửa lại câu văn cho
hay hơn.
VD: + Trăng tròn như quả bóng-> Trăng đêm rằm trịn như quả bóng.
+ Bé cười tươi như hoa -> Nụ cười của bé tươi như bong hoa mới nở.
+ Đèn sáng như sao -> Ngọn đèn sáng như những vì sao.
+ Khi đặt câu có hình ảnh so sánh cần lưu ý điều gì?
(Tìm ra điểm nổi bật và tương đồng của hai sự vật)
+ Bài tập 4/ Trang 126 - TV3
Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi ơ trống:
a. Cơng cha nghĩa mẹ được so sánh như………, như……..
b. Trời mưa, đường đất sét trơn như…………..
c. Ở thành phố, có nhiều tịa nhà cao như……
Nếu như ở bài tập 3 cần căn cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống
nhau giữa các sự vật trong tranh rồi đặt câu thì bài tập 4 lại cần tìm những từ
ngữ thích hợp (sự vật 2 có điểm tương đồng với sự vật đã cho) điền vào chỗ
trống sau từ “như” để tạo câu có sự so sánh. Dựa vào những yếu tố cho sẵn,
kết hợp với trí tưởng tượng và vốn kiến thức hiện có, học sinh có thể hồn
thành bài tập này như sau:
a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn

chảy ra.
b. Trời mưa, đường đất sét trơn như bôi mỡ.
c. Ở thành phố, có nhiều tịa nhà cao như núi.
18


Sau hai bài tập, tôi cho học sinh so sánh sự khác nhau của hai bài tập
(Bài tập 3: Từ 2 sự vật phải tìm được điểm giống nhau để so sánh
Bài tập 4: Từ 1 sự vật cho trước phải tìm được sự vật khác có điểm giống
với sự vật đó để so sánh)
Qua bài học này tơi chốt lại cho học sinh cấu trúc chung của so sánh để các
em nhớ, biết vận dụng khi đặt câu có hình ảnh so sánh:
Sự vật A

Đặc điểm so sánh

Từ so sánh

Sự vật B

* Ngoài việc giúp cho học sinh nhận biết được biện pháp tu từ so sánh qua
các tiết học và các bài tập của phân môn Luyện từ và câu, tơi cịn giúp học sinh
khai thác và tìm hiểu các hình ảnh so sánh trong các phân mơn khác như: Tập đọc,
Tập làm văn, …Từ đó học sinh được củng cố, khắc sâu, mở rộng thêm kiến thức
về So sánh.
* Ví dụ: Bài tập đọc Ơng ngoại (Tuần 5) có đoạn văn tả thành phố sắp vào
thu như sau:
Thành phố sắp vào thu. Những cơn gió nóng mùa hè đã nhường chỗ cho
luồng khí mát dịu mỗi sáng. Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dịng sơng trong,
trơi lặng lẽ giữa những ngọn cây hè phố.

Sau phần tìm hiểu đoạn, tơi u cầu học sinh tìm câu văn có hình ảnh so
sánh trong đoạn và chỉ ra hình ảnh so sánh trong câu. Hình ảnh so sánh giúp em
hiểu thêm điều gì?
(Câu: Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dịng sơng trong, trơi lặng lẽ giữa
những ngọn cây hè phố. Hình ảnh so sánh: Trời - dịng sơng trong. Hình ảnh so
sánh giúp người đọc hình dung rõ hơn về bầu trời mùa thu.)
Qua hình ảnh so sánh đó các em sẽ biết cách vận dụng để viết về cảnh đẹp
của quê hương trong bài Tập làm văn của mình.
* Khơng chỉ dừng lại ở đó, trong các tiết hướng dẫn học buổi chiều, mỗi dạng
bài So sánh tơi cịn ra thêm cho học sinh một số bài tập nhằm củng cố, khắc
sâu kiến thức về so sánh để các em có thể viết được những câu văn, những
đoạn văn hay và biết cách cảm thụ văn học một cách tốt nhất.
Biện pháp 4: Giúp học sinh củng cố kiến thức về biện pháp so sánh qua hệ
thống bài tập mở rộng.
1. Dạng bài tập nhận diện những sự vật được so sánh, những hình ảnh so
sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu.
Bài 1: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
a) Cánh diều no gió
Tiếng nó chơi vơi
19


Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời.
b)
Hoa lựu như lửa lập lịe

c) Khi cá vàng khẽ uốn lưng thì đi xòe rộng như một dải lụa màu da cam
còn khoan thai uốn lượn mãi.
d) Giàn hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp.

Đáp án:
a) Diều là hạt cau
b) Hoa lựu như lửa lập lịe
c) Đi(cá vàng) xịe rộng như một dải lụa màu da cam
d) Hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp
Bài 2: Tìm các từ chỉ sự so sánh trong mỗi câu sau:
a) Hồn tôi là một vườn hoa lá
b) Mẹ bảo: trăng như lưỡi liềm
Ông rằng: trăng tựa con thuyền cong mui
Bà nhìn: như hạt cau phơi
Cháu cười : quả chuối vàng tươi ngoài vườn.
c) Dưới gốc phượng già, những cánh hoa phượng rụng phủ kín mặt đất như
tấm thảm đỏ.
d) Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt
trời rực rỡ.
Đáp án: a) là
b) tựa , như
c) như
d) như
Bài 3: Tìm các từ so sánh điền vào chỗ trống để tạo thành câu có hình ảnh so sánh.
a) Hai chân chích bơng xinh xinh …….. hai chiếc tăm.
b) Rễ cây nổi lên mặt đất thành hình thù kỳ quái……….những con rắn hổ
mang giận dữ.
c) Trăm cơ gái………tiên sa.
Đáp án: Có thể là: a) giống như

b) như

c) tựa


Bài 4: Điền các bộ phận của phép so sánh trong mỗi câu sau vào ô trống cho phù
hợp:
a) Những giọt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê.
b) Hàng trăm bông hoa giấy thắm đỏ nở đồng loạt như một tấm thảm đỏ rực.
c) Trên trời có một cơ mây rất đẹp. Khi thì cơ mặc áo trắng như bơng, khi
thì thay áo màu xanh biếc, lúc lại đổi áo màu hồng tươi.

20


Sự vật A

Đặc điểm so sánh

Từ so sánh

Sự vật B

Đáp án:
Sự vật A

Đặc điểm so sánh

Từ so sánh

Sự vật B

Giọt sương sớm

long lanh


như

bóng đèn pha lê

Bơng hoa giấy

đỏ

như

tấm thảm

Áo (mây)

trắng

như

bơng

Tơi đưa bài tập trên nhằm giúp học sinh nhận dạng được câu văn có hình ảnh
so sánh, nắm vững mơ hình, cấu trúc của câu văn so sánh cũng như phân biệt rõ các
thành phần trong câu văn có hình ảnh so sánh. Đây là cơ sở để học sinh thực hành và
viết các câu văn có hình ảnh so sánh hay.
Bài 5: Tìm những hình ảnh so sánh thích hợp điền vào chỗ trống để câu văn có hình
ảnh so sánh phù hợp nhất:
a) ……….. lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay.
b) ……….. cuồn cuộn chảy như những con ngựa tung bờm phi nước đại.
c) Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trơng như …………..

d) Trăng rằm trung thu tròn như ……………
Đây là bài tập khơng phải là khó, nhưng để làm tốt bài bập này thì giáo viên
phải hướng dẫn học sinh quan sát, suy nghĩ, liên tưởng để tìm ra những sự vật có nét
tương đồng với sự vật đã cho, từ đó tạo câu văn có hình ảnh so sánh.
Ví dụ: Trong câu a, con thấy có những sự vật nào giống như một cánh diều?
(mặt trăng lưỡi liềm, hạt cau, dấu á…)
? Trong các sự vật trên, có sự vật nào ta thấy lơ lửng được trên không? (mặt
trăng lưỡi liềm)
Từ đó học sinh chọn được hình ảnh phù hợp điền vào chỗ trống để tạo thành
câu văn đúng và hay: Mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay.
Tương tự với các trường hợp còn lại, học sinh sẽ viết được những câu văn có
hình ảnh so sánh như:
b) Dịng sơng mùa lũ cuồn cuộn như những con ngựa tung bờm phi nước
đại.
c) Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trơng như những đám mây
bồng bềnh trên ngọn cây.
d) Trăng rằm trung thu tròn như cái đĩa./ như quả bóng bay…
Bài 6: Em hãy lựa chọn những từ ngữ trong ngoặc thay thế các từ in nghiêng và thêm
từ “như” để câu văn có hình ảnh so sánh:
a) Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển đẹp quá.
21


b) Nắng mai hồng rất đẹp trải dài trên con đường làng q em.
c) Đơi cánh gà mẹ xịe ra chắc chắn che chở cho các chú gà con.
(cánh bướm dập dờn, dải lụa đào, chiếc nơ, hai mái nhà, chiếc ơ)
Bài tập này với mục đích bước đầu cho học sinh làm quen với việc viết câu
văn có hình ảnh so sánh để diễn đạt sự vật sao cho sinh động. Bằng hiểu biết và óc
liên tưởng của mình các em sẽ lựa chọn được những từ ngữ thích hợp để thay thế.
Đáp án:

a. Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển như những cánh bướm dập dờn
b. Nắng mai hồng như dải lụa đào trải dài trên con đường làng q em. c.
Đơi cánh gà mẹ xịe ra như hai mái nhà che chở cho các chú gà con.
2. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
Bài 1: Gạch dƣới những hình ảnh so sánh trong các câu văn dƣới đây. Trong
các hình ảnh đó, em thích hình ảnh nào? Vì sao?

a)
Trơng trống mới oai vệ làm sao! Thân trống tròn trùng trục như
cái chum sơn đỏ. Bụng trống phình ra, hai đầu khum lại.
b)
Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xịe ra như những
vầng mặt trời rực rỡ.
c)
Lá phượng giống lá me, mỏng, ngon lành như những hạt cốm
non. Những cành cây mập mạp như hàng trăm cánh tay đưa ra đón ánh áng
mặt trời để sưởi ấm cho mình.
Đáp án: (hình ảnh so sánh: phần gạch chân)
Tiếp đó tơi u cầu học sinh chọn hình ảnh mình thích và giải thích lý
do vì sao? (VD: Hình ảnh hàng ngàn lá cọ xòe ra như những vầng mặt trời thể
hiện sự quan sát tinh tế, bất ngờ của tác giả khi tìm ra được hình ảnh “vầng
mặt trời” để so sánh với “hàng ngàn lá cọ”. Vì vậy câu văn khi đọc lên thấy
thật thú vị.)
Bài 2: Trong các câu văn sau em thấy câu nào hay nhất? Vì
sao? a. Những chùm hoa phượng đỏ.
b. Những chùm hoa phượng đỏ rực như những ngọn lửa bập bùng cháy trên cây.
c. Những chùm hoa phượng đỏ như son.
Các câu văn trên cùng là viết về hoa phượng nhưng mỗi câu lại có cách
diễn đạt khác nhau. Tôi yêu cầu học sinh so sánh câu thứ nhất và câu thứ hai,
câu nào hay hơn, vì sao? Tất cả học sinh trong lớp tơi đều khẳng định câu thứ

hai hay hơn vì đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh để miêu tả màu sắc của hoa
phượng. Tiếp đó tơi cho học sinh so sánh câu thứ hai với câu thứ ba. Khi học
sinh đều khẳng định câu thứ ba không hay bằng câu thứ hai và học sinh diễn
đạt lý do theo ý hiểu của mình vì sao cùng sử dụng phép so sánh mà câu thứ
hai lại hay hơn, tôi chốt lại cho học sinh hiểu: Ở câu thứ hai tác giả dùng hình
ảnh “chùm hoa phượng đỏ rực như những ngọn lửa bập bùng cháy trên cây”,
một hình ảnh rất đẹp, rất sinh động để làm cho màu sắc của hoa phượng trở
nên đẹp hơn, câu văn hay hơn và có sức gợi tả. Cịn ở câu thứ ba thì màu hoa
22


phượng được so sánh với màu son, tuy có điểm giống nhau nhưng cách so
sánh đó chưa sinh động và còn làm giảm đi vẻ đẹp của hoa phượng. Câu văn
trở nên khô khan, kém hay hẳn đi.
Như vậy, qua phân tích học sinh sẽ lựa chọn được câu văn hay và các
em còn hiểu được: khi so sánh, muốn cho sự vật miêu tả được đẹp và sinh
động thì cần so sánh với một sự vật khác đẹp hơn và như thế câu văn có được
sức gợi tả, gợi cảm cho người đọc.
3. Bài tập dạng vận dụng biện pháp tu từ so sánh
Bài 1: Em hãy sử dụng biện pháp so sánh để diễn đạt lại các câu sau cho sinh
động, gợi cảm hơn:
a) Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti.
b) Bà của em đã già, tóc của bà bạc lắm.
c) Bầy chim non đang hót trong nắng mai.
Với bài tập này học sinh sẽ suy nghĩ và viết lại câu văn theo ý mình. Tơi chú
ý hướng dẫn, chữa cho các em nhưng không áp đặt theo ý cô. Đồng thời, tôi ghi
nhanh một số câu văn hay lên bảng cho các em khác học tập.
Ví dụ:
a) Những bơng hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti như những hạt cườm
trải khắp trên cành cây.

b) Bà của em đã già, tóc của bà bạc trắng như mây.
c) Bầy chim non đang hót trong nắng mai như một bản hòa tấu.
Sau khi học sinh đã thành thạo dạng bài tập này tôi lại ra một số bài tập
ở mức độ khó hơn.
Bài 2: Hãy dùng biện pháp so sánh để diễn đạt về mỗi sự vật sau:
ông mặt trời, cánh đồng lúa, dịng sơng, hoa hồng….
Loại bài tập này khó hơn, địi hỏi học sinh phải có một trí tưởng tượng
thật phong phú kết hợp với khả năng diễn đạt thật thành thạo thì mới có thể
viết được những câu văn có hình ảnh so sánh hay. Tơi cũng có biện pháp
hướng dẫn cụ thể các em học sinh yếu bằng cánh sau khi học sinh đã trình bày
hết ý kiến mà chưa có được câu văn hay thì tơi sẽ đưa một vài câu văn làm
mẫu để các em tích lũy làm tư liệu cho mình.
Ví dụ:
- Ông mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang từ từ nhơ lên ở phía đằng đơng.

- Cánh đồng lúa chín vàng trải rộng như một tấm thảm khổng lồ.
- Dịng sơng uốn quanh như một dải lụa chia đơi hai làng.
- Những đóa hồng nhung dịu dàng và kiêu sa như những nàng tiên.
Bài 3 (Dành cho học sinh xuất sắc)
Cô giáo em
Hiền như cô Tấm
23


×