Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

skkn một số GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO dục kĩ NĂNG SỐNG CHO học SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.71 KB, 34 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NAM TRỰC
TRƯỜNG TIỂU HỌC NAM ĐỒNG

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh
Chức vụ:
Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nam Đồng


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với xu thế phát triển của thời đại, giáo dục phổ thông đã và đang được
đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, đó là: học để biết, học
để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Xuất phát từ yêu
cầu của xã hội hiện nay, việc hình thành và phát triển kĩ năng sống trở thành một
yêu cầu quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người hiện đại.
“Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện có
đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Như vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết, phù hợp
với mục tiêu giáo dục.
Mỗi người khi sinh ra đều khơng có khả năng làm được mọi thứ một cách
ngẫu nhiên. Đó là kết quả của q trình tiếp thu, thích nghi với các tri thức, kinh
nghiệm xã hội lâu dài. Trẻ em khi sinh ra không thể tự nhiên có được kĩ năng


sống như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng trình bày ý kiến, kĩ
năng tự chăm sóc bản thân... Càng có những kĩ năng này sớm bao nhiêu thì trẻ càng
có nền tảng vững chắc để phát triển toàn diện.
Mặt khác, khi trẻ lớn dần, nhu cầu hòa nhập xã hội, tiếp xúc với thế giới bên
ngồi càng cao. Thơng tin ngoại cảnh khơng chỉ có những cái tốt đẹp mà cịn bao
gồm cả những cái xấu, cái khơng tốt. Vì vậy, việc dạy và rèn luyện kĩ năng
sống cho học sinh là vô cùng cần thiết. Rèn kĩ năng sống cho học sinh giúp cho học
sinh thích ứng được với mơi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết
thực trong cuộc sống như vấn đề sức khoẻ, mơi trường, tệ nạn xã hội,...để các em có
thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ
mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn
luyện, học tập phấn đấu vươn lên


Trong thực tế hiện nay việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường
đã được chú ý đến, song nhiều trường nhất là các trường tiểu học còn lúng túng
trong việc tổ chức, thực hiện giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh. Với ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, tôi đã chọn nghiên
cứu đề tài: “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trong trường tiểu học”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu thực trạng nội dung, phương pháp và
hình thức tổ chức giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu
học. Từ đó, đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh trong trường tiểu học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc giáo dục và rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh tiểu học.
- Nghiên cứu, tìm hiểu các kĩ năng sống phù hợp với độ tuổi học sinh tiểu
học.

- Nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, rèn kĩ năng sống
trong trường tiểu học.
- Thiết kế một số bài học và tiến hành thực nghiệm sư phạm để làm rõ việc áp
dụng các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức giáo dục và rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh trong trường tiểu học.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nội dung chương trình các mơn học, các hoạt động giáo dục và
các hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các trường tiểu học
trên địa bàn huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp lí luận:


Thu nhập tài liệu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa nội dung
giáo dục, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh tiểu học trong chương trình các môn
học và các hoạt động giáo dục ở tiểu học.
5.2. Phương pháp thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp trò chuyện
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thực nghiệm
6. Cấu trúc của đề tài nghiên cứu
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung: gồm 4 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh tiểu học.
Chương 2: Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và rèn luyện
kĩ năng sống cho học sinh trong trường tiểu học.

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trong trường tiểu học
Chương 4: Thực nghiệm sư phạm
Phần 3 : Kết luận và kiến nghị
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC KĨ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC
I. Cơ sở lý luận
1. Cơ sở pháp lí
Chỉ thị số 40/CT-BGD ĐT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo về phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực trong các trường
phổ thơng giai đoạn 2008 -2013 có nội dung và mục tiêu quan trọng đó là giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh.

Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được ngành Giáo dục và Đào tạo đặt ra
từ lâu, nhưng lâu nay do Bộ Giáo dục và Đào chưa ban hành bộ chuẩn về giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh để định hướng chung nên mỗi trường dạy mỗi kiểu. Cùng


với đó, việc giáo dục kĩ năng sống tại các trường tiểu học mới chỉ dừng lại ở các tiết
học về đạo đức. Từ năm học 2010 - 2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương đưa
nội dung giáo dục kĩ năng sống đại trà vào các trường bằng cách tích hợp vào các
mơn học và các hoạt động giáo dục. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn.
2.Tổng quan về kĩ năng sống
2.1. Quan niệm về kĩ năng sống
Thuật ngữ kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông
Việt Nam từ những năm 1995 - 1996. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức trong
nước và quốc tế đã tiến hành giáo dục kĩ năng sống gắn với giáo dục những vấn đề
xã hội khác. Vậy kĩ năng sống là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng
sống, cụ thể:

+ Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là khả năng để có hành vi
thích ứng và tích cực, giúp cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước những nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày.
+ Theo UNICEF, kĩ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp
giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển
của con người. Kĩ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy
trong não bộ của con người. Kĩ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên,
thơng qua học tập hoặc rèn luyện của con người.
+ Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO),
kĩ năng sống gồm có 4 trụ cột của giáo dục, đó là: học để biết, học làm người, học
để sống với người khác và học để làm.
Từ những quan niệm trên có thể thấy, kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ
năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng
sống là kĩ năng tự quản lý bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp
với những người khác và xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống
của cuộc sống.
2.2. Phân loại kĩ năng sống.
Có nhiều cách phân loại kĩ năng sống, tùy theo quan niệm về kĩ năng sống
mà có những cách phân loại khác nhau. Theo UNESCO, WHO, UNICEF, có thể
xem kĩ năng sống gồm các kĩ năng cốt lõi sau:


+ Kĩ năng giải quyết vấn đề
+ Kĩ năng suy nghĩ hay tư duy phê phán
+ Kĩ năng giao tiếp hiệu quả
+ Kĩ năng ra quyết định
+ Kĩ năng tư duy sáng tạo
+ Kĩ năng giao tiếp, ứng xử cá nhân
+ Kĩ năng tự nhận thức hay tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị.
+ Kĩ năng thể hiện sự cảm thơng

+ Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc
Trong giáo dục ở vương quốc Anh, kĩ năng sống được chia thành 6 nhóm
chính là:
+ Hợp tác nhóm
+ Tự quản
+ Tham gia hiệu quả
+ Suy nghĩ hay tư duy bình luận, phê phán
+ Suy nghĩ sáng tạo
+ Nêu vấn đề và giải quyết vấn đề
Trong nền giáo dục của nước ta, những năm vừa qua, kĩ năng sống thường
được phân theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau:
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình bao gồm các kĩ năng sống
cụ thể như: tự nhận thức xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm hỗ trợ,
tự trọng, tự tin, ....
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với người khác bao gồm những kĩ năng
sống cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn; thương lượng, từ chối,
bày tỏ sự cảm thông, hợp tác, ....
+ Nhóm kĩ năng ra quyết định bao gồm các kĩ năng sống cụ thể như: tìm
kiếm và xử lý thông tin, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết
vấn đề, ....
2.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nói chung,
học sinh tiểu học nói riêng
2.3.1. Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội.


Kĩ năng sống là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thàtnh thái độ, hành
vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ năng sống phù hợp sẽ ln vững
vàng trước khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và
phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc
sống của mình. Ngược lại, người thiếu kĩ năng sống thường bị vấp ngã, dễ thất bại

trong cuộc sống.
Kĩ năng sống không những thúc đẩy sự phát triển của cá nhân mà cịn góp
phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội và bảo vệ quyền con người. Việc thiếu kĩ
năng sống của cá nhân là một nguyên nhân nảy sinh các vấn đề tiêu cực trong xã
hội. Việc giáo dục kĩ năng sống sẽ thúc đẩy những hành vi tích cực, giúp nâng cao
chất lượng cuộc sống, giảm các vấn đề tiêu cực trong xã hội. Giáo dục kĩ năng sống
còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân được
ghi trong Luật pháp Việt Nam và Quốc tế.
2.3.2. Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thể hệ trẻ
Giáo dục kĩ năng sống đang trở nên cấp thiết đối với thể hệ trẻ bởi vì:
- Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là những người quyết định sự
phát triển của đất nước. Nếu khơng có kĩ năng sống, các em sẽ không thực hiện tốt
trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước.
- Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân
cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết
về xã hội, cịn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lơi kéo, kích động, .... Đặc biệt, trong
bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ chịu nhiều tác
động đan xen giữa yếu tố tích cực và tiêu cực, ln phải đặt mình vào hồn cảnh
phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức. Nếu
khơng được giáo dục những kĩ năng sống, thiếu kĩ năng sống các em dễ bị lôi kéo
vào những hành vi tiêu cực, bạo lực và lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị
phát triển lệch lạc về nhân cách.
Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cấn thiết, giúp các em
thực hiện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và tổ quốc, giúp
các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an


toàn, hài hoà và lành mạnh. Việc giáo dục kĩ năng sống càng sớm bao nhiêu thì trẻ
càng có nền tảng vững chắc để phát triển toàn diện.

2.3.3. Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh với bản chất là hình thành và phát triển
cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người
khác và xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống phù
hợp với mục tiêu giáo dục phổ thông. Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thực trạng lối sống và đạo đức của học sinh hiện nay
Trong những năm trở lại đây, tỷ lệ trẻ em phạm tội, trẻ em dính vào các tệ
nạn xã hội, bỏ nhà, hư hỏng ngày càng nhiều. Khơng chỉ có học sinh PTTH, PTCS
mà tuổi trẻ em hư dường như đang ngày càng trẻ hóa. Thật đáng buồn khi mà chúng
ta phải chứng kiến các em học sinh còn trong độ tuổi tiểu học cũng đánh nhau, bỏ
nhà và thậm chí là có những hành động rất cực đoan như là tự tử. Khi bị cha mẹ,
thầy cơ có nhắc nhở các em lập tức thể hiện thái độ căng thẳng, chống đối. Có lẽ
chúng ta không thấy lạ khi đi ngang qua cổng trường thấy các em cả nam, nữ văng
tục, chửi bậy. Có khơng ít học sinh hút thuốc, tóc nhuộm xanh đỏ, bỏ tiết học đi
chơi... Trên một số trang báo mạng, chúng ta bàng hoàng khi nghe con cái của mình
nói: “Teen quan hệ sớm, ai cũng biết chỉ phụ huynh khơng biết”, bàng hồng với
các dịng tin với nội dung trẻ em bị xâm hại. Rõ ràng hiện nay, một bộ phận không
nhỏ học sinh đang phát triển nhân cách rất lệch lạc. Và thực tế cũng cho thấy, học
sinh bây giờ đang rất thiếu kĩ năng sống. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh ngày càng trở nên bức thiết khi mà xã hội đang tác động tới các em từ quá
nhiều phía.
2. Thực trạng của giáo dục kĩ năng sống trong các nhà trường
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nội dung, mục tiêu quan trọng của phong
trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Thực hiện mục tiêu đó,
trong những năm qua Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định đã chỉ đạo các trường chú
trọng, quan tâm lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vào từng tiết học và



các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Công tác giáo dục kĩ năng sống đã có
nhiều chuyển biến. Các nhà trường đã chú trọng tố chức nhiều hơn các hoạt động
ngoại khóa, nhiều trị chơi dân gian đang có nguy cơ bị mai một dần, giờ chơi ở sân
trường nhộn nhịp hẳn lên với các trò chơi đá cầu, chơi chuyền, chơi ô ăn quan, nhảy
dây, … Học sinh được quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất để “Mỗi ngày đến trường
là một ngày vui”. Đi đôi với việc tăng cường tổ chức các hoạt động vui chơi cho
học sinh, các nhà trường trong huyện, trong tỉnh còn hướng các em tham gia các
hoạt động xã hội, tìm hiểu thêm về quê hương, đất nước, con người, tham gia giúp
đỡ trẻ em nghèo, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn. Học sinh được tự trải
nghiệm, rút ra được bài học cho bản thân, trang bị cho mình những kĩ năng cần thiết
để ứng dụng vào cuộc sống nên đa số đều rất hứng thú với các hoạt động nhà
trường tổ chức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tại một số nơi, việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh chưa được nhận thức một cách nhất quán. Điều này thể hiện rõ
trong việc tổ chức các hình thức giáo dục hay việc tạo điều kiện để giáo dục kĩ năng
sống ở các cơ sở giáo dục. Tuy là một nội dung được chính thức đưa vào chương
trình giáo dục nhưng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh gần như được thực
hiện theo kiểu “mạnh ai nấy làm”. Vì thế, kết quả của việc giáo dục kĩ năng sống
chỉ tùy thuộc vào tâm huyết và năng lực của giáo viên. Ở một số đơn vị giáo dục,
việc giáo dục kĩ năng sống mới chỉ được xem như một phong trào để được đánh giá
thi đua. Mặt khác, trong thực tế một vài giáo viên chưa quen với việc giảng dạy
lồng ghép các nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Nhiều người quan niệm
việc lồng ghép các nội dung đó là chỉ lồng ghép vào các mơn học có tính giáo dục
như đạo đức hoặc những mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội như Tiếng Việt,
Lịch sử và Địa lý, Khoa học. Nhưng thật ra bất kỳ môn học nào, bất kỳ hình thức
giảng dạy nào cũng có thể lồng ghép giáo dục kĩ năng sống được. Điều quan trọng
là ở người lên lớp và tổ chức. Rõ ràng việc giáo dục kĩ năng sống hiện nay đang
trong tình trạng vừa học vừa làm. Một số giáo viên chưa được đào tạo căn bản về
nội dung và cả phương pháp giáo dục kĩ năng sống mà phải tự nghiên cứu tìm hiểu,
ứng dụng theo cách thức và hồn cảnh riêng của mình. Nhiều ý kiến cho rằng, các

trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục
KNS cho HS dẫn đến có một bộ phận HS trong các trường thiếu hụt hiểu biết về


môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức
của nhiều HS. Hơn thế nữa, giáo dục kĩ năng sống cần có sự phối hợp của các lực
lượng giáo dục, trong đó có vai trị của gia đình. Nhưng thực tế khơng ít gia đình
vẫn khốn trắng cho nhà trường, gây ra nhiều khó khăn cho thầy cơ. Khơng chỉ
thiếu hợp tác mà nhiều phụ huynh học sinh còn làm những điều ngược lại với cách
giáo dục của nhà trường làm cho các em thấy hụt hẫng và hoang mang. Học sinh tỏ
ra căng thẳng, các em dần dần đánh mất sự tự tin vốn có của mình. Giáo dục kĩ
năng sống không chỉ đơn thuần là cung cấp tri thức mà phải tạo điều kiện cho các
em trải nghiệm và thực hành cụ thể. Nếu việc thực hành kĩ năng sống chỉ theo
phong trào, không đi vào bề sâu và khơng duy trì thường xun thì kết quả sẽ hạn
chế, thậm chí chẳng mang lại kết quả gì.
Chương II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC.
I. Các kĩ năng sống cần trang bị cho học sinh tiểu học
1. Phân loại kĩ năng sống theo nội dung hoạt động thì các kĩ năng sống
cần rèn cho học sinh tiểu học là:
+ Kĩ năng học tập: kĩ năng tự kiểm tra; đánh giá năng lực của bản thân; xác
định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân; kĩ năng phân tích; kĩ năng tổng hợp;
kĩ năng xây dựng kế hoạch; kĩ năng hệ thống hoá; kĩ năng trình bày một vấn đề.
+ Kĩ năng lao động, lao động tự phục vụ: kĩ năng thao tác những hoạt động tự
phục vụ như tự lấy nước uống, tự xúc cơm ăn, tự mặc quần áo, tự đi giầy, tất (lớp 1,
2); tắm gội (lớp 3, 4, 5),...,
+ Kĩ năng sử dụng có hiệu quả một số dụng cụ chăm sóc cây xanh, chăm sóc
vật ni trong gia đình, lao động vệ sinh trường lớp,...
+ Kĩ năng vệ sinh, giữ gìn sức khoẻ: trẻ tự thực hiện được một số hoạt động

như: chải đầu, đánh răng rửa mặt, tắm giặt,..., chơi trò chơi lành mạnh, ăn uống
sạch sẽ hợp vệ sinh, thực hiện giờ giấc vui chơi, học tập lao động vừa sức hợp lý
tránh được sự căng thẳng,....
+ Kĩ năng về hành vi, ứng xử: kĩ năng giao tiếp (nói lời cảm ơn, xin lỗi phù
hợp tình huống, biết cách chào thầy cơ giáo, cách xưng hơ nói năng đúng mực với


những người lớn tuổi,... ), kĩ năng từ chối, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác, kĩ
năng làm việc theo nhóm, kĩ năng vận động, kĩ năng kiềm chế sự tức giận, kĩ năng
biểu lộ cảm xúc,...
2. Trong lĩnh vực tâm lý có thể phân loại kĩ năng sống cần rèn cho học
sinh tiểu học như sau:
+ Nhóm kĩ năng nhận thức: Kĩ năng nhận thức bản thân, tự xác định được
điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, kĩ năng đặt ra mục tiêu, kĩ năng xây dựng kế
hoạch, thời gian biểu, kĩ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu, kĩ năng phân
tích tổng hợp, tư duy sáng tạo.
+ Nhóm kĩ năng xã hội: Kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ, kĩ năng giao tiếp
không lời, kĩ năng thuyết trình trước tập thể, kĩ năng từ chối, kĩ năng hợp tác, kĩ
năng làm việc theo nhóm, kĩ năng biểu lộ, diễn đạt cảm xúc, kĩ năng ra quyết định,
kĩ năng vận động và gây ảnh hưởng.
+ Nhóm kĩ năng quản lý bản thân: Kĩ năng làm chủ cảm xúc, vượt qua lo
lắng, sợ hãi, khắc phục sự tức giận, kĩ năng thực hiện tốt thời gian biểu, kĩ năng bảo
vệ sức khoẻ.
II. Một số phương pháp giáo dục kĩ năng sống hiệu quả
Giáo dục kỹ năng sống khơng phải là để nói cho trẻ biết thế nào là đúng thế
nào là sai như ta thường làm. Cũng không phải là rao truyền nhưng lời hay ý đẹp để
chúng vào tai này rồi ra tai kia. Các phương pháp cổ điển như giảng bài, đọc chép
sẽ thất bại hồn tồn vì chúng chỉ cung cấp thơng tin, mà từ thông tin và nhận thức
đến thay đổi hành vi thì khoảng cách cịn rất lớn.
Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những

giải pháp khác nhau. Quyết định phải phát xuất từ trẻ. Vì thế học phải hết sức gần
gũi với cuộc sống hay ngay trong cuộc sống. Nội dung phải phát xuất từ chính nhu
cầu và kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cần có điều kiện để cọ xát các ý kiến khác nhau,
trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực hành, áp dụng. trẻ phải tham gia chủ động vì có
thế trẻ mới thay đổi hành vi.
Có nhiều phương pháp được áp dụng để thực hiện yêu cầu như trên . Cụ thể:
1. Hoạt động nhóm
1.1. Phương pháp


Các nhà khoa học đã khẳng định rằng nhóm nhỏ là một môi trường thuận lợi
nhất để thay đổi hành vi. Trong nhóm nhỏ (khơng q 7- 9 người) người ta mới
tham gia tích cực, các mối tương tác giữa các thành viên trong nhóm làm ảnh
hưởng lẫn nhau, và bắt chước nhau.
Các nhà nghiên cứu đã tổng kết về các thuận lợi trong học tập theo nhóm như
sau:
+ Trẻ dễ trở nên thân thiện với nhau và với người hướng dẫn.
+ Trẻ được khuyến khích hợp tác hơn là cạnh tranh
+ Thầy và trị có mối quan hệ tốt, làm cho việc học thuận lợi hơn.
+ Trẻ dễ tập trung và người hướng dẫn dễ theo dõi phản ứng của trẻ.
+ Trẻ bạo dạn hơn để đặt câu hỏi.
+ Trẻ có cơ hội phát huy khả năng lắng nghe và truyền đạt.
+ Trẻ sẵn sàng chia sẻ ý tưởng và kinh nghiệm.
+ Trẻ dễ phát huy sáng kiến.
+ Trẻ có nhận thức tốt hơn về bản thân và người khác
+ Trẻ bao dung hơn với bạn bè và quan tâm tới nhu cầu của chúng.
+ Các thành viên nhóm hỗ trợ lẫn nhau về mặt tâm lý và điều này giúp cho
trẻ có quyết định đúng đắn.
1.2. Yêu cầu sư phạm
Hoạt động nhóm nhỏ chỉ thực sự đem lại những kết quả khi được sử dụng

một cách khoa học. Tâm lý phát triển nhóm là một nội dung khoa học, giáo viên người hướng dẫn phải nắm chắc mới phát huy được tác dụng của nhóm. Dù sinh
hoạt theo nhóm, khơng ít giáo viên khơng thay đổi cách làm của người thầy đứng
lớp, vẫn “dạy học” áp đặt ý kiến, quyết định thay cho trẻ. Mặc dù từ bên ngoài, ta
cũng thấy các em vui chơi, nhảy múa nhưng mọi sự do thầy cô điều động, trẻ không
thực sự chủ động.
Tổ chức hoạt động nhóm là tạo điều kiện cho nhóm tự phát triển đúng hướng
làm sao cho thơng tin được thơng suốt, có sự tham gia đồng đều, tránh sự chế ngự
của một cá nhân hay thiểu số, tạo bầu khí thân thiện, hợp tác, bảo đảm dân chủ,
quyết định phải xuất phát từ tập thể v,v.. Sai lầm là để cho nhóm hồn tồn tự phát.
Vì như thế, hoạt động sẽ rời rạc, sẽ xảy ra “độc diễn” của một cá nhân mạnh, hay sự


kiểm sốt của một thiểu số, đa số cịn lại sẽ thụ động, thờ ơ. Như vậy sinh hoạt
nhóm sẽ mất tác dụng.
2. Thảo luận nhóm
2.1. Phương pháp
Phương pháp thảo luận nhóm là để học sinh bàn bạc, trao đổi trong nhóm
nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia
một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến
thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến bài học.
Câu hỏi mà các em bàn bạc có thể là kiểu câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở.
Các nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm đã chứng minh rằng nhờ
việc thảo luận trong nhóm nhỏ mà:
+ Kiến thức của học sinh sẽ bớt chủ quan, phiến diện, tăng tính khách quan,
khoa học.
+ Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được
giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm.
Tổ chức thảo luận nhóm tiến hành theo các bước sau:
+ GV nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho
mỗi nhóm, quy định thời gian thảo luận và phân cơng vị trí ngồi thảo luận cho các

nhóm.
+ Các nhóm tiến hành thảo luận.
+ Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm khác
lắng nghe, chấp vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
+ GV tổng kết các ý kiến.
2.2. Yêu cầu sư phạm
Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
Cần quy định rõ thời gian thảo luận và trình bày kết quả thảo luận cho các
nhóm.
Có nhiều cách chia nhóm, có thể theo số điểm danh, theo màu sắc, theo biểu
tượng, theo giới tính, theo vị trí ngồi,…
Quy mơ nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên,
nhóm từ 4 đến 8 học sinh là tốt nhất bởi lẽ số học sinh này đủ để đảm bảo tất cả các


em có thể tham gia tích cực, đảm bảo rằng các em khơng bao giờ thiếu ý tưởng và
khơng có gì để nói.
Sẽ thuận lợi hơn nếu mỗi nhóm chọn một trong những thành viên trong nhóm
làm trưởng nhóm. Nhóm trưởng điều khiển dịng thảo luận của nhóm, gọi tên các
thành viên lên phát biểu, chuyển sang câu hỏi khác khi thích hợp, đảm bảo rằng mỗi
thành viên trong nhóm kể cả những cá nhân nhút nhát, e ngại đều được phát biểu,
có cơ hội để đóng góp. Trong một số trường hợp, khi thảo luận nhóm cịn có ghi
biên bản, ghi lại những điểm chính của cuộc thảo luận để trình bày trước cả lớp.
Học sinh cần được luân phiên nhau làm ( nhóm trưởng ) và ( thư ký ) và ln phiên
nhau đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo luận.
Kết quả thảo luận có thể trình bày dưới nhiều hình thức: bằng lời, đóng thay,
viết hoặc vẽ trên giấy to,…; có thể do một người thay mặt nhóm trình bày, có thể
nhiều người trình bày, mỗi người một đoạn nối tiếp nhau,…
Trong suốt buổi thảo luận nhóm nhỏ, GV cần chú ý quan sát và lắng nghe ý
kiến học sinh. Giáo viên có thể tham gia thảo luận cùng một nhóm.

3. Phương pháp động não
3.1 Phương pháp
Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy
sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương
pháp hiệu quả trong việc nắm bắt thông tin.
Phương pháp động não tiến hành theo các bước sau:
+ Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu
trước cả lớp hoặc trước nhóm.
+ Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
+ Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến
nào, trừ trường hợp trùng lặp.
+ Phân loại các ý kiến.
+ Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng.
+ Tổng hợp ý kiến học sinh, hỏi xem có thắc mắc hay bổ sung gì khơng.
3.2. Yêu cầu sư phạm


Phương pháp động não có thể dùng để lý giải bất kỳ một vấn đề nào, song
đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong cuộc sống thực tế của
học sinh.
Phương pháp này có thể dùng cho cả câu hỏi có phần kết đóng và kết mở.
Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn bằng một từ hay một câu thật ngắn.
Tất cả mọi ý kiến đều cần được GV hoan nghênh, chấp nhận mà không nên
phê phán, nhận định đúng, sai ngay.
Cuối giờ thảo luận GV nên nhấn mạnh kết luận này là kết quả của sự tham
gia chung của tất cả học sinh.
Động não khơng phải là một phương pháp hồn chỉnh mà chỉ là sự khởi đầu.
Một khi danh sách các câu trả lời đã được hoàn thành, cần phải cho cả lớp dùng
danh sách này để xác định xem câu trả lời nào là sai.
Nhờ khơng khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là những em nhút

nhát, trở nên bạo dạn hơn; các em học được cách trình bày ý kiến của mình biết
lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn; từ đó, giúp trẻ dễ hồ nhập vào cộng động
nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt
4. Phương pháp đóng vai
4.1. Phương pháp
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “ làm thử” một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy
nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự
kiện cụ thể mà các em quan sát được. Việc “diễn” khơng phải là phần chính của
phương pháp này mà điều quan trọng nhất là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Phương pháp đóng vai có nhiều ưu điểm như :
+ Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong mơi trường an tồn trước khi thực hành trong thực tiễn.
+ Gây hứng thú và chú ý cho học sinh
+ Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh .
+ Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
+ Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
diễn.


Sử dụng phương pháp đóng vai theo các bước sau:
+ GV nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống và yêu cầu đóng vai cho
từng nhóm. Trong đó có quy rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi
nhóm.
+ Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
+ Các nhóm lên đóng vai.
+ Lớp thảo luận, nhận xét. Bắt đầu thảo luận về cách ứng xử của các nhân vật
cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, rồi mở rộng phạm vi thảo luận những vấn đề
khái quát hơn hay những vấn đề mà vở diễn chứng minh.
+ GV kết luận

4.2. u cầu sư phạm
Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục, phù hợp với lứa tuổi,
trình độ học sinh và điều kiện, hồn cảnh lớp học.
Tình huống nên để mở, khơng cho trước “ kịch bản”, lời thoại
Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để khơng lạc
đề.
Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia.
Nên có hố trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trị chơi đóng
vai.
5. Phương pháp nghiên cứu tình huống (hay nghiên cứu các trường hợp
điển hình)
5.1. Phương pháp
Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một
tình huống “ thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đơi khi nghiên cứu
tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng casset mà khơng phải
trên dạng chữ viết. Vì tình huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của
cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những tình
huống khác nhau chứ khơng phải là một câu chuyện đơn giản.
Tổ chức các bước nghiên cứu tình huống như sau:
+ Đọc (xem, nghe) tình huống thực tế.


+ Suy nghĩ về nó (có thể ghi lại một vài nội dung trước khi thảo luận điều đó
với người khác).
+ Đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống (trong
tài liệu viết hay từ giáo viên)
+ Thảo luận tình huống thực tế.
+ Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
5.2. u cầu sư phạm

Tình huống có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề.
Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như:
bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật ...? Vấn đề
này có thể đã được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn chế tính
trầm trọng của vấn đề?
Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống
rộng hơn.
6. Phương pháp trị chơi
6.1. Phương pháp
Trị chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực
hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thơng qua một trị chơi nào
đó.
Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của học
sinh, nhất là bậc học tiểu học. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ
chức cho trẻ em vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo
dục. Qua trị chơi, trẻ khơng những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ mà cịn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì vậy, trị
chơi được sử dụng như là một phương pháp dạy học quan trọng
Qua trị chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi. Chính
nhờ sự thể nghiệm này giúp hình thành ở các em niềm tin vào những thái độ, hành
vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
Thông qua chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn
cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống, học sinh được hình
thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.


Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động,
không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lơi cuốn vào q trình luyện tập một
cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những
mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Trò chơi cũng giúp tăng cường khả năng giao

tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo với học sinh.
6.2. Yêu cầu sư phạm
Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề giáo dục, với
đặc điểm và trình độ học sinh, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế
của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho học sinh.
Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi
Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi.
Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện
cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiến tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò
chơi và đánh giá sau khi chơi.
Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để khơng gây nhàm
chán cho học sinh.
Sau khi chơi, GV cần cho học sinh thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của
trò chơi.
7. Phương pháp dự án
7.1. Phương pháp
Phương pháp dự án được hiểu như là một phương pháp trong đó người học
thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết với thực
tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong
tồn bộ q trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực
hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện
Phương pháp dự án có 3 đặc điểm cơ bản sau:
+ Định hướng học sinh: Trong phương pháp dự án, học sinh tham gia tích cực
và tự lực vào q trình dạy học. Điều đó cũng địi hỏi và khuyến khích tính trách
nhiệm và sáng tạo của người học. Giáo viên chủ yếu đóng vai trị tư vấn giúp đỡ.
Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm và khả năng của học sinh và
mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Sử dụng phương pháp này cần chú ý đến hứng thú


của học sinh, học sinh được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả

năng và hứng thú cá nhân. Hứng thú của các em cũng cần được tiếp tục phát triển
trong quá trình thực hiện dự án. Trong khi xây dựng và thực hiện dự án cịn cần có
sự hợp tác làm việc theo nhóm và sự phân công công việc giữa các thành viên của
nhóm. Phương pháp dự án địi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng hợp tác
của học sinh.
+ Định hướng hoạt động thực tiễn: Phương pháp dự án kết hợp giữa lí thuyết
và thực hành, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. Chủ đề dự án gắn liền với các vấn
đề, tình huống, thực tiễn. Nhiệm vụ dự án cần phù hợp với trình độ và khả năng học
sinh.
+ Định hướng sản phẩm: Trong phương pháp dự án, các sản phẩm được tạo
ra theo định hướng sản phẩm. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu
hoạch lí thuyết mà cịn tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn thực
hành.
Phương pháp đề án có ưu điểm:
Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội
Kích thích động cơ, hứng thú học tập của HS
Phát huy tính tự lực, tinh thần trách nhiệm; phát triển khả năng sáng tạo, rèn
luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; kĩ năng hợp tác; năng lực đánh giá.
HS có cơ hội rèn luyện nhiều kĩ năng sống quan trọng như: giao tiếp, ra quyết
định, giải quyết vấn đề, đặt mục tiêu …
Các bước tiến hành:
+ Chọn đề tài và xác định của dự án: Giáo viên và học sinh cùng nhau đề
xuất, xác định đề tài và mục đích dự án. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài
để học sinh lựa chọn và cụ thế hoá. Trong một số trường hợp, việc đề xuất đề tài có
thể từ phía học sinh.
+ Xây dựng đề cương, kế hoách thực hiện: trong giai đoạn này, học sinh với
sự hướng dẫn của giáo viên xây dựng đề cương, kế hoạch cho việc thực hiện dự án.
Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự
kiến, cách tiến hành, người phụ trách mỗi công việc …
+ Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đề ra



+ Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Kết quả thực hiện, dự án có thể
được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo. Sản phẩm dự án cũng có thể là tranh, ảnh,
pa-nơ, … để triển lãm, cũng có thể là những sản phẩm phi vật thể như: diễn một vở
kịch, một cuộc tuyên truyền, vận động thực hiện quy định, chính sách, pháp luật
trong cộng đồng, … Sản phẩm dự án có được trình bày giữa các nhóm học sinh, có
thể được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã hội.
+ Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện, kết quả và kinh
nghiệm đạt được. Từ đó rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo.
7.2. Yêu cầu sư phạm
Mục tiêu dự án phải rõ ràng và có tính thực tiễn, tính khả thi.
Cần tạo cơ hội để tăng cường sự tham gia của học sinh trong dự án, tuy nhiên
phải phù hợp với trình độ và khả năng của các em.
III. Các hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học
1. Tích hợp trong các mơn học.
Tích hợp là sự hồ trộn nội dung giáo dục vào nội dung bộ môn thành một
nội dung thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cùng với các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục sử dụng năng
lượng tiết kiệm, giáo dục an tồn giao thơng,…., nội dung giáo dục kĩ năng sống
được tích hợp, lồng ghép vào các mơn học ở 3 mức độ:
-Tích hợp tồn phần: Khi mục tiêu và nội dung bài học phù hợp hoàn toàn
với mục tiêu và nội dung của giáo dục kĩ năng sống.
- Tích hợp bộ phận: Khi một phần của bài học thực hiện nội dung giáo dục kĩ
năng sống.
- Liên hệ: Chỉ khai thác nội dung bài học để liên hệ với nội dung giáo dục kĩ
năng sống.
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống khơng phải là ghép thêm vào chương trình
giáo dục như là một bộ môn riêng biệt hay một chủ đề nghiên cứu mà nó là một
hướng hội nhập vào chương trình. Ngun tắc tích hợp là khai thác và lồng ghép

các nội dung giáo dục vào bài học một cách tự nhiên, phù hợp với nội dung bài học.
Việc tích hợp làm cho bài học sinh động, gắn với thực tế hơn, không làm


quá tải bài học. Như vậy khi soạn giáo án, đặc biệt với những bài sử dụng phương
thức tích hợp gián tiếp giáo viên cần lưu ý:
+ Nghiên cứu kỹ nội dung bài học.
+ Xác định nội dung giáo dục kĩ năng sống có thể tích hợp vào bài học. (chú
ý về mục tiêu của Chuẩn kiến thức, kĩ năng)
+ Xác định tích hợp vào nội dung nào? Vào hoạt động nào? (địa chỉ tích
hợp).
+ Cần chuẩn bị thêm đồ dùng dạy học gì ?
+ Khi tổ chức dạy học, giáo viên lựa chọn hoạt động dạy học phù hợp với
hình thức tổ chức và phương pháp.
Ở mỗi lớp nội dung tích hợp giáo dục kĩ năng sống ngày một nâng cao hơn
(phụ thuộc vào nội dung bài học). Đặc biệt là giáo dục ý thức, hành động cụ thể thì
mức độ khác nhau rõ rệt.
2. Giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động
ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL).
Đối với học sinh bậc tiểu học thì HĐNGLL có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc rèn luyện kĩ năng sống. Bởi vì HĐNGLL có ba nhiệm vụ, đó là: củng cố tăng
cường nhận thức; bồi dưỡng thái độ, tình cảm và hình thành hệ thống kỹ năng, hành
vi. Về nhiệm vụ hình thành hệ thống kỹ năng, hành vi. Nhiệm vụ này nhằm rèn cho
HS những kỹ năng thực hiện các công việc lao động đơn giản, các kỹ năng sáng tạo
nghệ thuật, thực hiện các bài thể dục, các trò chơi, các hành vi ứng xử đối với mọi
người trong gia đình, trong nhà trường và trong xã hội. Những kỹ năng tham gia
hoạt động tập thể, kỹ năng tổ chức những hoạt động chung cùng nhau, biết phối hợp
với mọi người cùng thực hiện hoạt động chung, nâng cao ý thức tự chủ, tự tin, chủ
động và giao tiếp với mọi người. Dựa vào những kỹ năng, hành vi này để rèn luyện
những kỹ xảo, thói quen đạo đức bền vững và tự quản trong sinh hoạt tập thể. Như

vậy, chúng ta phải biết tận dụng và phát huy nhiệm vụ này của HĐNGLL để góp
phần rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Một số hoạt động nhằm thực hiện rèn kĩ năng sống cho học sinh.
+ Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Đây là một loại hình hoạt động quan trọng,
khơng thể thiếu được trong sinh hoạt tập thể của trẻ em, nhất là học sinh tiểu học.


Hoạt động này bao gồm nhiều thể loại khác nhau: hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch
câm, tấu vui, độc tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện… Các hoạt động này góp phần hình
thành cho các em kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Đây là một trong
những kỹ năng rất quan trọng trong xu thế tồn cầu hóa.
+ Hoạt động vui chơi giải trí, TDTT: Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết yếu
của trẻ, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa giáo
dục to lớn đối với học sinh ở trường tiểu học. Hoạt động này làm thỏa mãn về tinh
thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm
chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đồn kết, lịng
nhân ái… Hầu hết các trường có tổ chức thực hiện nhưng xét về tính hiệu quả thì
khơng phải nhà trường nào cũng đạt được. Sở dĩ như thế là do điều kiện về cơ sở
vật chất cũng như trình độ chun mơn của tổng phụ trách chưa thể đáp ứng được.
Chúng ta cũng cần nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này để hướng
hoạt động đạt mục tiêu đã đề ra.
+ Hoạt động xã hội: Bước đầu đưa học sinh vào các hoạt động xã hội để giúp
các em nâng cao hiểu biết về con người, đất nước, xã hội. Đây là một hoạt động tuy
khó nhưng nó mang một ý nghĩa vơ cùng to lớn. Thông qua hoạt động này, các em
sẽ được bồi dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là tình người. Trong thực tế, hoạt
động này đã được các nhà trường tiến hành tương đối tốt. Song hoạt động này phải
được khai thác một cách triệt để nhằm phát triển tối đa nhân cách ở các em.
+ Hoạt động lao động cơng ích: Đây là một loại hình đặc trưng của
HĐNGLL. Thơng qua lao động cơng ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội.
Ngồi ra, lao động cơng ích cịn góp phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao động,

từ đó giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh. Lao động cơng ích giúp trẻ vận dụng
kiến thức vào đời sống như: trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, chăm sóc bồn
hoa, cây cảnh cho đẹp trường, lớp. Đây là hoạt động tưởng như là thường xuyên
nhưng thật ra trong nhà trường bây giờ học sinh rất ít được tham gia. Một số nhà
trường thuê bảo vệ hoặc lao công làm những công việc này nên gần như không tổ
chức cho học sinh tham gia. Đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp các em thích
nghi với cuộc sống xung quanh để sau này dù có rơi vào hồn cảnh khắc nghiệt nào
thì các em vẫn có thể tồn tại được, đó là nhờ các em biết lao động.


+ Hoạt động tiếp cận khoa học - kĩ thuật: Đây là hoạt động giúp các em tiếp
cận được những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến. Điều đó sẽ tạo cho các
em sự say mê, tìm tịi, kích thích học tập tốt hơn. Những hoạt động này có thể là
sưu tầm những bài tốn vui, tham gia sinh hoạt câu lạc bộ khoa học, tìm hiểu các
danh nhân, các nhà bác học… Đây là một hoạt động nhằm tạo điều kiện cho các em
làm quen với việc nghiên cứu khoa học và tự khẳng định mình. Có thể nói đây là
hoạt động mà các nhà trường ít chú trọng tới - ít chú trọng khơng phải là do khơng
hiểu hết tầm quan trọng của nó mà là do điều kiện khơng cho phép. Đó là điều kiện
về cơ chế, về thời gian, về năng lực của đội ngũ giáo viên tổng phụ trách…
Như vậy, HĐNGLL có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc hình thành kĩ năng
sống cho học sinh.
3. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các tiết sinh hoạt tập thể
Chương trình tiểu học ln có tiết sinh hoạt tập thể, trước đây thường gọi là
tiết sinh hoạt lớp. Tiết sinh hoạt tập thể có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tổ chức tốt
hoạt động cho học sinh trong tiết sinh hoạt tập thể sẽ giúp các em những hiểu biết
về tập thể, vai trò của mỗi cá nhân đối với tập thể. Qua tiết sinh hoạt tập thể còn
cung cấp cho HS những thông tin cần thiết và đa dạng của đời sống xã hội, của
trường , của lớp giúp các em định hướng và rèn luyện tiến bộ về mọi mặt . Qua hoạt
động trong các tiết sinh hoạt tập thể các em còn luyện được các kĩ năng cơ bản như:
kĩ năng hoạt động tập thể, kĩ năng tự quản, kĩ thần trách năng giao tiếp, kĩ năng

đánh giá, tính trung thực, qua đó kích thích tính tích cực, tinh nhiệm và phát huy
được những tiềm năng vốn có của mỗi học sinh.
Để tiết sinh hoạt tập thể phong phú và có ý nghĩa giáo dục các kĩ năng sống
cho học sinh giáo viên nên chuẩn bị cụ thể cho từng tuần, từng tháng. Tuỳ theo từng
lớp, từng độ tuổi mà lựa chọn các nội dung và hình thức cho phù hợp. Chẳng hạn
như vào dịp lễ giỗ tổ Hùng Vương ở các lớp 1, 2 thì giáo viên kể cho học sinh nghe
như là sự tích bánh trưng, bánh dày; Mai An Tiên,…, ở lớp 3 có thể tổ chức cho các
em thi kể chuyện về các vua Hùng, lớp 4,5 tổ chức cho các em thi tìm hiểu về thời
đại Hùng Vương, dạy các em hát bài hát Dịng máu lạc hồng…
4. Thơng qua sinh hoạt Sao nhi đồng, Đội TNTP Hồ Chí Minh giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh


Ngồi các mơn học ở tiểu học việc hình thành nhân cách và rèn luyện kĩ năng
sống cho trẻ còn phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động mà trong đó hoạt động sao nhi
đồng là một trong những hình thức sinh hoạt tạo nên nhân cách tự nhiên và có hiệu
quả nhất.
Phần lớn tiết sinh hoạt Sao, Đội được tổ chức ngồi sân chơi chứ khơng sinh
hoạt trong lớp, gị bó trong bốn bức tường. Các em được nghe kể chuyện về những
nhân vật lịch sử của dân tộc, được hướng dẫn những kỹ năng cần thiết, lồng ghép
giáo dục kĩ năng sống, an tồn giao thơng... Sinh hoạt Sao, Đội trở thành một tiết
học rất bổ ích cho học sinh, các em rất thích thú vì được chơi mà học, không bị áp
lực điểm số.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC KĨ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC
I. Cơ sở đề xuất các giải pháp
Việc đưa Giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường đã được thực hiện ở hầu hết
các nước trên thế giới. Theo tài liệu của UNICEF, hiện nay có 153 nước đã đưa
Giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường. Xu hướng hội nhập và phát triển không cho
phép giáo dục nước ta giậm chân tại chỗ với những cách làm cũ, lạc hậu và trì trệ.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chọn cách đưa giáo dục kĩ năng sống lồng ghép
vào các môn học và hoạt động giáo dục. Bộ sách hướng dẫn dạy kĩ năng sống dành
cho giáo viên đã được đưa vào tập huấn và khuyến khích các trường giảng dạy theo
kiểu lồng ghép trong năm học này.
Trước những cảnh báo về một lớp trẻ thiếu kĩ năng sống, khơng ít phụ huynh
bên cạnh việc cho con đi học ngoại ngữ, năng khiếu, thể thao... cũng ráo riết tìm
kiếm những trung tâm huấn luyện kĩ năng sống cho trẻ với kỳ vọng: Trẻ sẽ có đủ tự
tin, bản lĩnh để vững bước vào đời. Do đó, việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống lồng
ghép trong các môn học và các hoạt động giáo dục của nhà trường được nhiều phụ
huynh tán thành.
II. Một số các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trong trường tiểu học.
1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ quản lý giáo dục, giáo viên và cha mẹ
học sinh.


Cho đến thời điểm hiện nay, không phải cán bộ quản lý giáo dục nào, giáo
viên nào cũng nhận thức đúng về tầm quan trọng việc giáo dục kĩ năng sống cũng
như chủ trương đưa giáo dục kĩ năng sống tích hợp vào các mơn học và các hoạt
động giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đặc biệt, phần lớn cha mẹ học sinh
chưa có sự quan tâm đến giáo dục kĩ năng sống cho con em mình, cịn nghĩ cơng
việc đó là của nhà trường. Để nâng cao nhận thức của các đối tượng nêu trên, cần
thiết phải tiến hành một số nội dung sau:
+ Đối với cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên: Cần phải có bộ tiêu
chí đánh giá cơng tác giáo dục kĩ năng sống của các nhà trường. Đưa nội dung giáo
dục kĩ năng sống chính thức trở thành yêu cầu bắt buộc, không nên đưa vào nội
dung phong trào thi đua như thời gian vừa qua. Có như thế, cán bộ quản lý giáo dục
các cấp, đội ngũ giáo viên mới thực sự vào cuộc, mới thực sự quan tâm.
+ Đối với cha mẹ học sinh: Tích cực tuyên truyền bằng nhiều hình thức như
lồng ghép trong các buổi sinh hoạt phụ huynh học sinh; tổ chức hội thảo chuyên đề;

thu hút họ tham gia vào việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh,..
2. Tiếp tục tổ chức tập huấn cho giáo viên về nội dung, phương pháp và
hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Đây là giải pháp then chốt. Giáo viên là người trực tiếp thực hiện giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh. Nếu họ chưa hiểu mình làm gì? Làm như thế nào? Tại sao
phải làm như thế? thì chắc chắn việc giáo dục kĩ năng sống sẽ khơng có hiệu quả.
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho xuất bản cuốn sách hướng dẫn giáo dục kĩ
năng sống cho giáo viên. Giáo trình gồm 2 phần: Phần chung đưa ra những khái
niệm về kĩ năng sống, tầm quan trọng của kĩ năng sống, phương pháp giáo dục kĩ
năng sống; phần thứ 2 đi vào từng môn học cụ thể. Để thay đổi nhận thức của giáo
viên, từ tháng 8/2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai cho các Sở Giáo dục và
Đào tạo và yêu cầu tập huấn cho tất cả giáo viên. Trong đợt tập huấn này giáo viên
được tập trung vào 2 mảng chính: Hiểu về bản chất của kĩ năng sống; phương pháp,
kĩ thuật dạy học tích cực, mối liên hệ giữa phương pháp dạy và kĩ năng sống. Thời
gian vừa qua, các cấp giáo dục cũng đã quan tâm đến công tác tập huấn cho giáo
viên nhưng với phạm vi đối tượng được tham dự tập huấn, thời gian tập huấn, cách
thức tổ chức các buổi tập huấn nên hiệu quả của các buổi tập huấn còn rất hạn chế.


×