Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận Văn Tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của các gia đình nhập cư tại Hà Nội (Nghiên cứu trường hợp nhóm hộ gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ QUYÊN

TIẾP CẬN DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN CỦA
CÁC GIA ĐÌNH NHẬP CƯ TẠI HÀ NỘI
(Nghiên cứu trường hợp nhóm hộ gia đình lao động tự do, nhập cư
tại phường Phúc Xá, quận Ba Đình, TP. Hà Nội)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CƠNG TÁC XÃ HỘI

Hà Nội, 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ QUYÊN

TIẾP CẬN DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN CỦA
CÁC GIA ĐÌNH NHẬP CƯ TẠI HÀ NỘI
(Nghiên cứu trường hợp nhóm hộ gia đình lao động tự do, nhập cư
tại phường Phúc Xá, quận Ba Đình, TP. Hà Nội)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CƠNG TÁC XÃ HỘI

Chuyên ngành: Công Tác Xã Hội
Mã số

: 60.90.01.01



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trịnh Duy Luân

Hà Nội, 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi;
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn cao học là trung thực và xuất
phát từ tình hình thực tế điều tra.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Quyên


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, em đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các em và các
bạn. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin được bày tỏ lới cảm ơn
chân thành tới:
Ban chủ nhiệm khoa Xã Hội Học trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và
Nhân Văn – ĐHQGHN đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá
trình học tập và hoàn thành luận văn. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới GS.TS. Trịnh Duy Luân người đã hết lòng hướng dẫn, động viên và tạo
mọi điều kiện cho em trong suốt thời gian làm và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn UBND phường Phúc Xá, cán bộ tổ dân phố 7 và 8
đã hỗ trợ trong việc sắp xếp, bớ trí, hẹn gặp với người dân, cùng các hộ dân

làm ăn và sinh sống trên địa bàn phường đã đồng ý tham gia khảo sát.
Do kinh nghiệm cịn hạn chế, thời gian có hạn nên trong q trình nghiên
cứu và thực hiện luận văn, mặc dù đã cớ gắng nhưng khơng tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cơ giáo và bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Quyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu ..................................................................... 3
3.Ý nghĩa của nghiên cứu ............................................................................. 10
4.Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................... 11
5.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 12
6.Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................ 12
7.Đối tượng và khách thể nghiên cứu .......................................................... 13
8.Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 13
9.Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 15
NỘI DUNG CHÍNH ...................................................................................... 16
Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu .............................. 16
1.1. Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ........................................... 16
1.1.1.Tiếp cận dựa trên thuyết về nhu cầu của con người ........................... 16
1.1.2.Tiếp cận dựa trên thuyết hệ thống ....................................................... 17
1.2.Các khái niệm công cụ ............................................................................ 19
1.2.1.Tiếp cận.................................................................................................. 19
1.2.2.Dịch vụ xã hội cơ bản ........................................................................... 19

1.2.3.Gia đình lao động tự do, nhập cư......................................................... 23
1.3.Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ................................................................. 24
Chương 2: Thực trạng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của gia đình lao
động tự do, nhập cư....................................................................................... 27
2.1.Tổng quan về tình hình hộ lao động nhập cư tại địa bàn nghiên cứu ....... 27
2.1.1. Đặc điểm nhân khẩu –xã hội của hộ gia đình nhập cư tự do ........... 27
2.1.2.Đặc điểm việc làm của gia đình nhập cư ............................................. 32
2.2.Thực trạng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của hộ gia đình lao động
nhập cư tại khu vực phường Phúc Xá – quận Ba Đình – Hà Nội ............ 37
2.2.1.Nhà ở, tình trạng lưu trú ...................................................................... 37
1


2.2.2.Nước sạch và vệ sinh môi trường ......................................................... 42
2.2.3.Điện sinh hoạt ....................................................................................... 44
2.2.4.Giáo dục ................................................................................................. 47
2.2.5.Chăm sóc sức khỏe ................................................................................ 51
Chương 3: Đánh giá các chương trình trợ giúp người nhập cư trong tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản trên địa bàn phường Phúc Xá ................... 58
3.1. Các chương trình trợ giúp các gia đình lao động nhập cư trên địa
bàn phường Phúc Xá. ................................................................................... 58
3.2. Những điểm đạt được và những điểm còn hạn chế, thách thức của
các chương trình trợ giúp hộ gia đình nhập cư.......................................... 63
3.3. Đề xuất mơ hình Cơng tác xã hội trợ giúp hộ gia đình nhập cư tiếp
cận với các dịch vụ xã hội cơ bản ................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 73
Phụ lục ............................................................................................................ 76

2



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu 1: Tỷ lệ tuổi của vợ, chồng hộ gia đình nhập cư
Biểu 2: Loại hình di cư/số lượng thành viên của hộ
Biểu 3: Mức thu nhập và nghề thu nhập chính của hộ gia đình nhập cư tại
phường Phúc Xá- Ba Đình- Hà Nội

Hộp 1- Rào cản hồ nhập cộng đồng khiếp hộ gia đình khó khăn trong việc
tiếp cận dịch vụ xã hội
Hộp 2 - Hộ gia đình nhập cư chia sẻ về những thay đổi trong cuộc sống
Hộp 3 - Chất lượng y tế được cải thiện, suy nghĩ của hộ nhập cư
Hộp 4 - Phân loại các loại hình dịch vụ xã hội trợ giúp cho người yếu thế

3


CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTXH

Công tác xã hội

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

TP HCM

Thành phớ Hồ Chí Minh


BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

UNDP

Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc

PLD

Viện Nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển

SKSS

Sức khỏe sinh sản

DVXHCB

Dịch vụ xã hội cơ bản

LĐ TBXH

Lao động Thương binh Xã hội

NGO


Các tổ chức phi chính phủ

ASXH VN

An sinh xã hội Việt Nam

NXB

Nhà xuất bản

UBND

Ủy ban nhân dân

THCS

Trung học cơ sở

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lao động di cư là một hiện tượng tất yếu trong sự phát triển của nền
kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Lao động di cư, một mặt góp phần vào
sự tăng trưởng của nền kinh tế, giảm tỉ lệ lao động thất nghiệp, tăng chỉ sớ

GDP… nhưng mặt khác, nó cũng khiến nhiều hệ lụy cần đặc biệt quan tâm.
Các cuộc khảo sát dân số trước đây cho thấy lao động di cư phần lớn
tập trung về các thành phố, trung tâm công nghiệp lớn như: Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Biên Hòa...vì đây là
những địa phương tập trung nhiều nhà máy, khu công nghiệp cao, thiếu lao
động. Những lao động di cư đến những địa phương này có nhiều cơ hội kiếm
việc làm và thu nhập cao hơn các địa phương khác. Bên cạnh đó người lao
động di cư lên thành phớ đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề về công việc
cũng như trong đời sống, thiếu thông tin về pháp luật, về lao động dẫn đến họ
có nhiều nguy cơ bị bóc lột sức lao động, họ dễ bị rơi vào tình trạng tuyển
dụng trái phép hoặc thậm chí lao động với những công việc nằm ngoài sự bảo
vệ của luật. Trong đời sống, họ phải đối mặt với mức sớng thấp và họ khó tiếp
cận hoặc bị hạn chế tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y tế, nhà ở...
Chính vì vậy, theo quan điểm của các nhà xã hội học Lao động nhập
cư ở đô thị là đối tượng thuộc nhóm yếu thế. Điều đó được thể hiện qua
những đặc điểm sau: Hầu hết làm nhiều nghề hoặc việc làm nặng nhọc, độc
hại, trong điều kiện tồi tệ, bằng sức lao động giản đơn (làm thuê trong các
công trường xây dựng, các cơ sở sản xuất/tái chế nhựa, may mặc, da giày…),
bán hàng rong, giúp việc gia đình… Đa phần là các cơ sở sản xuất, kinh
doanh thuộc khu vực kinh tế phi chính thức (tư nhân, kinh tế gia đình hoặc tự
làm việc). Hầu như họ khơng được ký hợp đồng lao động, hoặc nếu có hợp
đồng lao động thì thường không được tham gia BHXH, BHYT. Thu nhập


thấp và khơng ổn định (có thể bị mất việc làm bất cứ lúc nào), đi đôi với tay
nghề thấp. Đa số phải sống trong những khu nhà trọ rẻ tiền, với điều kiện ở
tạm bợ và tồi tệ (thiếu điện, thiếu nước sạch, điều kiện vệ sinh kém …). Họ
cũng rất ít tham gia vào các tổ chức đoàn thể và các tổ chức xã hội tự nguyện
tại nơi đến (ở thành phố).
Địa vị pháp lý của người di cư tại nơi đến là yếu tố quan trọng quyết

định đến khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Địa vị này gắn liền việc
họ có được đăng ký hộ khẩu thuộc loại nào. Ở Hà Nội, người lao động nhập
cư từ nông thôn thường không đủ điều kiện để có hộ khẩu thường trú (KT1,
KT2, KT3). Trong trường hợp tớt nhất, họ có thể đăng ký tạm trú ngắn hạn
(KT4) với các điều kiện rất hạn chế. Vì vậy, khả năng hòa nhập vào cộng
đồng dân cư nơi đến cũng thường rất hạn chế. Họ thường được bình đẳng so
với người dân đô thị trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Mặt khác, bản
thân cơ sở hạ tầng cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân đô thị như y
tế, giáo dục, nhà ở, vệ sinh môi trường…cũng đang bị quá tải. Các chính sách
quản lý lĩnh vực này cũng còn nhiều bất cập. Trong bới cảnh đó, người lao
động nhập cư và gia đình họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, cụ thể là
việc làm và các nhu cầu về dịch vụ xã hội cơ bản.
Những nghiên cứu gần đây về lao động nhập cư thường theo 2 hướng
chính: Một là, nghiên cứu về q trình hội nhập, khả năng thích ứng, những
khó khăn, rào cản…. người nhập cư gặp phải tại điểm đến, thường chủ yếu
tập trung vào nghiên cứu lao động nhập cư theo diện cá nhân, đơn lẻ, ít tính
đến những nhóm lao động nhập cư dưới dạng hộ gia đình. Hướng thứ 2 là
nghiên cứu về tích chất, cách thức tổ chức đời sớng gia đình của lao động
nhập cư cả ở điểm đi và điểm đến. Cả 2 hướng nghiên cứu này hiện đang
dừng lại ở tính chất nhận diện vấn đề từ đó đề xuất những kiến nghị về mặt
chính sách bảo trợ xã hội cấp vĩ mô đối với người lao động nhập cư. Đồng
thời, qua tìm hiểu thực tế cho thấy, những nghiên cứu chuyên đề làm thông
2


tin nền tảng, dữ liệu cho những hoạt động của các mơ hình CTXH can
thiệp/hỗ trợ trực tiếp đới với lao động nhập cư xuất phát từ chính nhu cầu, vấn
đề thực tế họ đang gặp phải hiện cịn ít và thiếu. Một sớ mơ hình can thiệp
trong CTXH đới với lao động nhập cư đã áp dụng chưa thực sự hiệu quả và
khơng mang tính bền vững. Ngun nhân chính là do khơng nắm bắt được

nhu cầu thực tế cũng như những rào cản hiện tại mà họ đang gặp phải. Đây là
một hướng đi và 1 hướng nghiên cứu mới cần được quan tâm hơn trong bối
cảnh đời sống của người lao động nhập cư đang gặp nhiều khó khăn như hiện
nay. Điều này cũng phù hợp với cách tiếp cận mới về nghèo đói của Việt Nam
trong vài năm trở lại đây, khi khái niệm “Nghèo đa chiều” được nhắc đến rất
nhiều trong các cuộc hội thảo và các văn bản chính sách. Cách tiếp cận mới
này chỉ ra không chỉ xem xét nghèo về khía cạnh thu nhập mà còn nghèo về
việc tiếp cận dịch vụ xã hội. Cụ thể hơn đó chính là việc tiếp cận các nhu cầu
cơ bản của con người như ăn, mặc, học hành, khám chữa bệnh, nhà ở, sử dụng
nước sạch…sự thiếu hụt một hoặc một số các nhu cầu đó được coi là nghèo.
Việc tiếp cận, sử dụng dịch vụ xã hội cơ bản là quyền lợi của người dân
và từ những thực tế trên, tác giả chọn để tài “Tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản
của các gia đình nhập cư tại Hà Nội” nhằm đánh giá đúng tình trạng và nhu
cầu sử dụng dịch vụ xã hội cơ bản, tìm hiểu về những yếu tố tác động đến
việc tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, đánh giá về các mô hình công tác xã hội
can thiệp đã và đang thực hiện tại phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về người di cư/nhập cư thực sự đã trở thành một trong
những đối tượng nghiên cứu mang tính thời sự của khoa học xã hội và nhân
văn, đặc biệt trong xã hội học và công tác xã hội. Sự di cư diễn ra ngày càng
phức tạp cộng với tính dễ bị tổn thương đang kéo theo nhiều vấn đề như môi
trường, việc làm, thất nghiệp cũng như vấn đề an sinh xã hội, chăm sóc sức
3


khỏe, giáo dục, vấn đề trợ giúp pháp lý…Gần đây đã có nhiều nghiên cứu về
di cư nhằm tìm hiểu thực trạng cũng như ảnh hưởng của quá trình di cư đến
việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư/nhập cư tự do tại các
thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…Có thể kể ra
một sớ nghiên cứu, chương trình tiêu biểu dưới đây:

“Dịch vụ xã hội cho người nhập cư ở Hà Nội” do Lê Văn Toàn – Học
viện chính trị - Hành chính Q́c gia viết, đăng trên Tạp chí Dân sớ Việt
Nam/sớ 3 (108)/2010. Nghiên cứu chỉ ra cùng với khó khăn do thu nhập thấp,
người nhập cư ở đơ thị có rất ít khả năng và cơ hội đến được với hệ thống các
dịch vụ xã hội cơ bản. Các vấn đề xã hội nảy sinh do nhiều ngun nhân,
trong đó có mới quan hệ giữa hộ khẩu và việc tiếp cận các dịch vụ xã hội đối
với người nhập cư. Người lao động nhập cư thường phải trả tiền cho các dịch
vụ xã hội cơ bản với mức chi phí khá cao: tiền điện, dịch vụ y tế, giáo dục, vệ
sinh môi trường…Những chương trình y tế, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
thường ít khi đến được với người nhập cư, thậm chí bị bỏ qua vị thế khơng
chính thức của họ về mặt pháp lý (khơng có hộ khẩu) ở nơi nhập cư. Bài viết
đã chỉ ra thực trạng đời sống cũng như những khó khăn mà người nhập cư tự
do hiện nay đang gặp phải. Tuy nhiên, bài viết chưa đi vào đánh giá từng dịch
vụ xã hội cơ bản,và chưa chỉ ra những rào cản khiến người nhập cư không
tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản như những người dân bản địa.
Nghiên cứu “Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người - Báo cáo
phát triển con người năm 2011 – UNDP” (Chương trình phát triển Liên Hợp
Quốc hợp tác với Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), đã đề cập đến
vấn đề chênh lệch về tiếp cận y tế, giáo dục trong nhóm dân nhập cư tại các
thành phố lớn và cũng chỉ ra rằng rào cản lớn nhất đối với người di cư từ
nông thôn ra thành thị trong tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục là sự phụ thuộc
vào hệ thống đăng ký hộ khẩu. Người di cư vẫn còn tên trong hộ khẩu gia
đình ở các xã, phường gốc, nhưng trên thực tế lại sống tạm thời hoặc lâu dài
4


tại đô thị nơi đến mà chưa đăng ký. Những người di cư không đăng ký hộ
khẩu tại nơi đến có hai lựa chọn: hoặc xin vào các trường bán công hoặc tư
thục với học phí cao hơn, hoặc trả thêm tiền để con của họ được nhận vào các
trường công. Nhiều người di cư để con cái của họ ở lại quê với gia đình hoặc

hàng xóm và chuyển tiền kiếm được về để hỗ trợ học hành và chăm sóc cho
con cái. Cách thức này gây căng thẳng lớn về tình cảm giữa người di cư và
con cái họ. Tương tự như vậy, người di cư khơng có hộ khẩu tại nơi ở mới và
những người không phải cư dân chính gốc thường không đủ điều kiện để
được hưởng các dịch vụ xã hội trong các chương trình xoá đói giảm nghèo
q́c gia, bao gồm cả các khoản vay lãi suất thấp, khám chữa bệnh miễn phí
và miễn học phí. Nhiều người lao động di cư nghèo sống trong điều kiện nhà
ở tồi tàn và các khu định cư thu nhập thấp, phải đối mặt với rào cản đáng kể
trong tiếp cận và bảo đảm về quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở, cũng như các
dịch vụ điện, nước và vệ sinh. Người di cư ở các khu vực đơ thị thường có
sức khỏe kém hơn và tình trạng sức khỏe của họ xấu đi nhanh hơn những cư
dân thường trú. Các vấn đề về sức khỏe đặt một gánh nặng lớn lên người di
cư, đặc biệt là những người làm việc trong khu vực không chính thức với tiền
công thấp. Nhiều người tránh sử dụng các dịch vụ y tế do chi phí cao. Người
di cư thường phải chi trả cho các dịch vụ y tế nhiều hơn đáng kể, do họ khơng
có bảo hiểm y tế hoặc để tránh chậm trễ trong tiếp cận dịch vụ y tế. Những
người không đăng ký hộ khẩu thường khơng có thẻ bảo hiểm y tế cho con cái
và không nhận được các thông tin hoặc chương trình uống vitamin hoặc tiêm
vắc xin. Các phát hiện trong báo cáo chỉ đã chỉ ra rất rõ những vấn đề mà hiện
nay người di cư/nhập cư đang gặp phải mà nguyên nhân chính liên quan đến
vấn đề đăng ký hộ khẩu. Tuy nhiên những phát hiện này cũng chỉ dừng lại ở
tính chất mô tả, chỉ ra những vấn đề tồn tại chung chung, chưa chỉ ra được
đâu là vấn đề thực sự họ quan tâm, đâu mới là nhu cầu, mong muốn khi sử
dụng dịch vụ xã hội cơ bản của người nhập cư tự do, cách thức cải thiện việc
cung cấp dịch vụ và cách tăng khả năng tiếp cận dịch vụ cho người nhập cư tự do.
5


Báo cáo khảo sát: “Nhu cầu trợ giúp pháp lý của người lao động di
cư tự do tại khu Phúc Xá, Long Biên, Hà Nội” do Viện Nghiên cứu chính

sách, pháp luật và phát triển tiến hành, cho thấy, nhu cầu trợ giúp pháp lý của
người lao động di cư làm việc ở các khu công nghiệp hoặc lao động tự do là
khá cao. Chỉ có 2 loại cơ quan mà người lao động di cư nói là họ thường tìm
gặp khi có “rắc rới” trong quan hệ lao động, đó là cơ quan cơng an và chính
qùn địa phương. Về dịch vụ y tế, độ bảo phủ của BHYT cịn ́u: Có tới
66,92% người lao động được phỏng vấn khơng thuộc đới tượng đóng bảo
hiểm y tế. Người lao động làm trong các khu cơng nghiệp, xí nghiệm, cơng ty
thường thắc mắc về việc đóng BHXH và BHYT. Người lao động tự do như
xe ơm, bán hàng thì hầu như không quan tâm tới vấn đề này. Dịch vụ giáo
dục: chỉ ra rằng đối với lao động làm công ăn lương, họ thường thắc mắc về
việc xin cho con đi học mẫu giáo hoặc tiểu học trường công lập. Đối với lao
động tự do thì không quan tâm vì con cái thường học ở quê. Các vấn đề về
kinh doanh nhỏ; thành lập doanh nghiệp, thuế...: do điều kiện cơng việc hiện
tại của người lao động chưa có nhu cầu nên đa số người lao động được hỏi
đều trả lời là họ khơng có nhu cầu tư vấn vì bản thân họ và gia đình không
buôn bán, kinh doanh. Chỉ có 9,23% lao động có nhu cầu tư vấn pháp luật đối
với hoạt động kinh doanh, buôn bán không có địa điểm cớ định và chỉ có
3,85% ḿn được tư vấn về pháp luật kinh doanh có cửa hàng cố định. Về
Hộ tịch- Hộ khẩu: Hầu hết người lao động cho rằng việc khơng có hộ khẩu,
họ đã gặp nhiều khó khăn trong các lĩnh vực như: Tìm việc làm, tham gia bảo
hiểm và các chế độ xã hội; hưởng các dịch vụ y tế; trong giáo dục học nghề
và xin học cho con; khó khăn trong an ninh trật tự. Có tới 47,69% người lao
động được hỏi trả lời khơng biết gì về các quy định hộ khẩu/đăng ký tạm
trú/tạm vắng. Trong sớ người được hỏi thì chỉ có 52,31% sớ người có biết đến
những quy định này nhưng đều ở mức độ rất sơ sài. Những hiểu biết này có
được là do người cho thuê nhà hướng dẫn họ làm thủ tục đăng ký tạm trú/tạm
vắng hoặc do cán bộ phường phổ biến, công an khu vực yêu cầu. Một số
6



người lao động chỉ biết đến những quy định này khi buộc phải lên làm thủ tục
với chính quyền địa phương. Báo cáo cũng chỉ ra rằng Xu hướng ngoài các
hoạt động tố tụng, tư vấn tại trụ sở của Trung tâm, một trong những hoạt động
đạt được kết quả cao đó là Trợ giúp pháp lý lưu động. Hoạt động này ngày
càng trở nên phổ biến bởi tính hiệu quả cao, mang lại nhiều lợi ích thiết thực
cho những người khó tiếp cận dịch vụ pháp lý, cần nhân rộng mô hình. Đồng
thời cũng đề xuất: để hoạt động trợ giúp pháp lý cho lao động di cư có hiệu
quả, các Trung tâm trợ giúp pháp lý hiện đang chú trọng mở rộng các loại
hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của người
dân... đồng thời nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy
tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật. Báo cáo đã chỉ
ra rất chi tiết một trong những lĩnh vực cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản là dịch
vụ trợ giúp pháp lý, các số liệu đưa ra rõ ràng, chi tiết về thực trạng, những
khó khăn rào cản và những nhu cầu cần trợ giúp pháp lý của người di cư.
Trong báo cáo chuyên đề “Bảo hiểm xã hội cho lao động di cư: Vấn
đề cần được quan tâm” của Bùi Sỹ Tuấn - Viện Khoa học Lao động và Xã
hội, 2012, đã chỉ ra rằng Lao động di cư/nhập cư tự do là đới tượng thuộc
nhóm yếu thế, do tính bất trắc, thường dễ bị tổn thương và gặp rủi ro, nên nhu
cầu được tham gia bảo hiểm xã hội của nhóm đới tượng này là chính đáng. Đa
số lao động di cư/nhập cư tự do không tham gia và không được hưởng các chế
độ BHXH; Hầu hết khơng có và khơng được hưởng các chế độ bảo hiểm dành
cho người lao động; Phần lớn không có cũng như khơng được hưởng các
phúc lợi xã hội từ phía các cơ sở kinh tế (doanh nghiệp) mà họ đang làm việc.
Nhìn chung, họ không tiếp cận được với các chương trình, dự án hỗ trợ hoặc
trợ giúp chính thức của Nhà nước thông qua chính quyền, các tổ chức chính
trị-xã hội và các cơ sở kinh tế chính thức. Chính phủ Việt Nam cũng đã có
nhiều chính sách hỗ trợ cho người di cư, tuy nhiên các chính sách hiện hành
mới tập trung cho những lao động di cư có tổ chức còn hình thức di cư tự do –
7



là hình thức chủ yếu hiện nay, còn ít và mỏng cho đối tượng này. Phần lớn
người lao động di cư chưa tiếp cận hoặc tham gia và không được hưởng lợi từ
hệ thống bảo hiểm xã hội chính thức. Báo cáo cũng đưa ra một số đề xuất
như: cần tạo điều kiện để người lao động được tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện; lồng ghép chương trình BHXH tự nguyện với các chương trình mục
tiêu khác như chương trình việc làm, chương trình giảm nghèo…Có chính
sách để lao động di cư được tiếp cận với hệ thống bảo trợ và cứu trợ xã chính
thức khi gặp rủi ro, từ phía chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ
chức xã hội tự nguyện và nhất là từ các doanh nghiệp, các chủ sử dụng lao
động. Chính quyền nơi đến cần có sự quan tâm về chế độ nhà ở như khu nhà
cho thuê, bán nhà thu nhập thấp, với các điều kiện sống an toàn, ổn định, và
đảm bảo vệ sinh môi trường. Báo cáo đã chỉ ra được thực trạng, những khó
khăn trong của việc tiếp cận và sử dụng hệ thống dịch vụ Bảo hiểm xã hội của
người di cư/nhập cư tự do đưa ra những khuyến nghị khá rõ ràng trong việc
cung cấp và giúp đỡ người di cư/nhập cư tự do tiếp cận được dịch vụ Bảo
hiểm xã hội. Tuy nhiên, báo cáo mới chỉ dừng lại từ phía đánh giá các yếu tố
khách quan của hệ thống bên ngoài mà chưa đánh giá được những yếu tố xuất
phát từ chính hệ thống bản thân của người di cư/nhập cư tự do, những rào cản
về mặt nhận thức, những nhu cầu, mong muốn về sử dụng dịch vụ Bảo hiểm
xã hội xuất phát từ chính bản thân họ.
“Các can thiệp về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người di cư tại
Việt Nam, 2000 – 2008” của Phương Hương – Tổng cục Dân sớ Kế hoạch
hóa Gia đình, đăng trên tạp trí Tạp chí Dân số Việt Nam/số 1 (106)/2010. Báo
cáo chỉ ra rằng, các chương trình quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản
chưa đáp ứng được nhu vầu về thông tin và dịch vụ ngày càng gia tăng của
người di cư/nhập cư tự do tại các thành phố lớn. Nội dung chính của báo cáo
tập trung vào việc rà soát lại những can thiệp sức sức khỏe sinh sản hỗ trợ cho
người di cư, mục đích giúp các nhà quản lý thiết kế các chương trình, hoạt
8



động can thiệp đáp ứng được nhu cầu và thực hiện quyền của người di cư. Kết
quả rà soát cho thấy 4 nhóm đới tượng hiện nay đang được hưởng lợi chính từ
các dự án can thiệp hỗ trợ là trẻ em di cư, công nhân tại các khu công nghiệp,
lao động di cư/nhập cư tự do, và người có nguy cơ cao. Đối với đối tượng
người di cư/nhập cư tự do vì điều kiện làm việc vất vả và sinh hoạt tạm bợ
nên họ phải đối mặt với nhiều nguy cơ rủi ro. Những đặc điểm của người dân
di cư lao động tự do có liên quan rất mật thiết tới hiểu biết và hành vi chăm
sóc sức khoẻ nói chung và SKSS nói riêng của họ. Một điều đáng chú ý là,
nhóm đới tượng này phần lớn làm trong khu vực phi kết cấu nên rất khó được
chủ lao động đảm bảo các quyền lao động. Tuy nhiên, lại chưa có can thiệp
nào cung cấp thơng tin về luật lao động, quyền và nghĩa vụ của người lao
động, cũng như về vệ sinh an toàn lao động cho nhóm đới tượng này. Báo cáo
cũng đưa ra các các tiếp cận với vấn đề sức khỏe sinh sản cho người di
cư/nhập cư tự do như đào tạo nâng cao năng lực; thông tin giáo dục truyền
thông, truyền thông chuyển đổi hành vi; cung cấp dịch vụ thăm khám sức
khỏe; vận động sự tham gia của lãnh đạo các cấp…Đây là một báo cáo chỉ ra
các mô hình can thiệp về SKSS hiện nay cho người di cư, chỉ ra được các
cách tiếp cận khác nhau trong việc chăm sóc SKSS. Tuy nhiên cũng như một
số báo cáo kể trên, báo cáo này cũng chưa chưa thể hiện được tiếng nói, suy
nghĩ, cũng như sự tham gia của người di cư/nhập cư tự do trong việc chăm
sóc SKSS, đâu mới là nhu cầu, mong muốn thật sự xuất phát từ chính bản
thân họ.
Trong cuốn sách “Từ nông thôn ra thành phố - tác động kinh tế xã
hội của di cư tại Việt Nam”, chủ biên Lê Bạch Dương và Nguyễn Thanh
Liêm – Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội, do nhà xuất bản Lao Động ban
hành năm 2011, đã nghiên cứu tác động tới cả nơi đến và nơi đi của người di
cư, mục đích của nghiên cứu nhằm cung cấp các bằng chứng thực nghiệm về
tác động của di cư để có thể giúp thay đổi quan điểm phổ biến của nhà nước

9


và xã hội từ hướng tiêu cực sang tích cực (nhìn nhận 1 cách tích cực về những
đóng góp và vai trò của di cư đối với phát triển. Nghiên cứu đến tác động khía
cạnh là hộ gia đình của người di cư hiện đang sinh sống và làm việc tại cả khu
vực chính thức và phi chính thức. Tác động của di cư đối với khu vực nông
thôn và tác động của di cư đối với khu vực thành thị.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu đã hướng tới nghiên cứu thực tiễn
và lí luận nhằm mô tả thực trạng việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho
người di cư/nhập cư tự do như cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm
xã hội, việc tiếp cận giáo dục, nhu cầu hỗ trợ pháp lý….các nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng yếu tố tác động chính đến việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
xuất phát từ vấn đề đăng kí hộ khẩu, việc thường trú và tạm trú của người di
cư/nhập cư tự do. Tuy nhiên trong các nghiên cứu trên thì vấn đề nghiên cứu
một cách tổng thể việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản vẫn còn đang được
ít đề cập. Vì vậy nghiên cứu “Tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của các gia
đình nhập cư tại Hà Nội” (nghiên cứu trường hợp nhóm hộ gia đình lao
động tự do nhập cư, tại phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội) là một hướng đi
cần thiết nhằm đưa ra được cái nhìn tồn diện về việc sử dụng dịch vụ xã hội
cơ bản của hộ gia đình lao động tự do nhập cư. Từ đó, đưa ra những kết ḷn,
khún nghị góp phần hồn thiện chính sách, đề xuất mô hình thực hành công
tác xã hội hỗ trợ trực tiếp, nhằm giúp đỡ các gia đình lao động nhập cư trong
lĩnh vực tiếp cận, sử dụng dịch vụ xã hội cơ bản, xuất phát từ chính những
quan điểm, nhu cầu thực tế của họ mà tác giả đã thu thập được trong quá trình
nghiên cứu.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1.

Ý nghĩa khoa học của đề tài


Nghiên cứu này chủ yếu Dựa trên cách tiếp cận về quyền và mức thang
nhu cầu của cá nhân, kết hợp với các lý thuyết về hệ thống và môi trường xã
10


hội… với nhóm đới tượng cụ thể là người nhập cư tự do. Với mục đích tìm
hiểu thực tế để nâng cao hiệu quả trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Những thông tin thu được từ thực tế sẽ đóng góp thêm vào nguồn tham khảo
cho việc phân tích và nghiên cứu lí ḷn của cơng tác xã hội với người lao
động tự do ở khía cạnh cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản góp phần đảm bảo an
sinh xã hội. Kết quả nghiên cứu cũng sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho
nghiên cứu sau về lĩnh vực này.
3.2.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Nghiên cứu đánh giá một cách sát thực, khách quan về thực trạng việc
tiếp cận và sử dụng dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư, những nhu cầu về
sử dụng dịch vụ xã hội cơ bản chưa được đáp ứng của họ.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp những thông tin về người lao
động tự do và tác động vào việc thực hiện chính sách liên quan đến việc cung
cấp các dịch vụ xã hội, đảm bảo an sinh xã hội đối với người lao động nhập
cư tự do tại Phường Phúc Xá
Ngoài ra nghiên cứu này cũng sẽ chỉ ra những mặt được và mặt hạn chế
của các chính sách an sinh xã hội hiện nay đới với người di cư, đánh giá tính
hiệu quả của những chính sách hỗ trợ, có tính nhất qn trong nội dung của
chính sách hay khơng? Từ đó đưa ra những khún nghị và đề xuất mơ hình
Cơng tác xã hội nhằm giúp nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội của bản
đối với hộ gia đình nhập cư tự do.

4. Câu hỏi nghiên cứu
- Mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ gia đình lao động tự
do hiện nay như thế nào?
- Có những khó khăn nào trong q trình tiếp cận sử dụng dịch vụ xã hội
cơ bản của hộ gia đình lao động tự do?
11


- Có những nhu cầu sử dụng Dịch vụ xã hội cơ bản nào mà hộ gia đình
lao động nhập cư chưa được đáp ứng?
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.

Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu sự tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của hộ người lao động tự do
nhập cư tại khu vực Long Biên, phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội.
Đánh giá các mơ hình CTXH hỗ trợ hộ gia đình nhập cư trong việc tăng
cường khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản
5.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Mơ tả và phân tích những dịch vụ xã hội cơ bản hiện có trên địa bàn
nghiên cứu trên 3 phương diện tính sẵn có, khả năng tiếp cận, khả năng chi
trả: nhà ở, vệ sinh môi trường, dịch vụ y tế, trường học, chợ, trung tâm hỗ trợ
pháp lý…
Mơ tả và phân tích mức độ tiếp cận, sử dụng các dịch vụ xã hội chương
trình hỗ trợ hiện có tại địa bàn đới với người di cư
Đề xuất mơ hình thực hành CTXH hỗ trợ cho người lao động nhập cư

nhằm nâng cao mức độ tiếp cận DVXHCB tại địa bàn thông qua trợ giúp của
cộng đồng.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Hộ gia đình di cư sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản ít hơn và với giá cao
hơn dân sở tại do đó khơng tạo nên nhiều áp lực cho dịch vụ cơng cộng tại
điểm tạm trú.
Hộ gia đình di cư khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ công do không
đáp ứng được yêu cầu về đăng kí tạm trú dài hạn.

12


Hộ gia đình nhập cư mong muốn được tiếp cận dịch vụ nhà ở đảm bảo
chất lượng nhưng trên địa bàn sinh sớng khơng có.
7. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng tiếp cận những dịch vụ xã hội cơ bản
của người nhập cư tự do, những mong muốn, nhu cầu chưa được đáp ứng của
họ trong sử dụng dịch vụ xã hội cơ bản.
Khách thể nghiên cứu: các gia đình lao động tự do nhập cư, các dịch vụ xã
hội cơ bản hiện có tại địa bàn, cán bộ phường, tổ trưởng tổ dân phố, các tuyên
truyền viên, các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1.

Phương pháp luận

Trong luận văn, người viết dựa trên cách tiếp cận các lý thuyết của
công tác xã hội: thuyết về nhu cầu con người, thuyết hệ thống, Phát triển
cộng động để xem xét vấn đề nghiên cứu dưới góc độ khoa học.
8.2.


Phương pháp cụ thể

Luận văn sử dụng các phương pháp thu thập thơng tin sau đây:
Phương pháp phân tích tài liệu
Tìm hiểu, đọc và phân tích sách, nghiên cứu, báo cáo và các bài viết trên
mạng internet có liên quan đến vấn đề người di cư và các vấn đề liên quan đến
người di cư.
Phương pháp nghiên cứu định tính
Nghiên cứu không nhằm thống kê các con số mà nhằm tìm hiểu thực
trạng việc tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư, rào cản, giải pháp…
từ góc nhìn của Cơng tác xã hội, vì vậy nghiên cứu sử dụng phương pháp chủ
yếu là nghiên cứu phân tích tài liệu và phỏng vấn sâu để thu thập thông tin, cụ
thể như sau:
13


Phỏng vấn sâu: gồm 43 phỏng vấn sâu
• Phỏng vấn sâu 30 hộ gia đình trên tổng số gần 300 hộ lao động tự do
nhập cư tại tổ dân phố 7 và 8 nơi tập trung nhiều người di cư đến trên địa bàn
phường Phúc Xá.
Đặc điểm của hộ được khảo sát:
- Là hộ gia đình di cư từ nơi khác đến sinh sớng, nhập cư tại địa bàn
- Có thời gian cư trú tại địa bàn phường từ 6 tháng trở lên
- Là lao động tự do, làm việc tại khu vực phi chính thức (làm thuê tại các
điểm chợ, cửa hàng, hàng ăn, xe ôm, bốc vác, bán hàng rong...)
- Hộ gia đình hiện đang sống cùng hoặc đã từng mang theo con lên sống
cùng.
Mẫu khảo sát được chọn ngẫu nhiên với bước nhảy là 10: từ là cứ 10 hộ
thì phỏng vấn 1 hộ.

• Phỏng vấn sâu 3 cán bộ địa phương: tổ trưởng tổ dân phố, bí thư, cơng
an khu vực.
• Phỏng vấn sâu 2 cán bộ y tế: y tế khu vực và y tế phường
• Phỏng vấn sâu 2 cán bộ giáo dục: giáo viên trường mái ấm tình thương
123 và giáo viên trường trung học cơ sở Nghĩa Dũng
• Phỏng vấn sâu 4 người: dân địa phương và chủ cho thuê nhà trọ
• Phỏng vấn 2 chuyên gia về lĩnh vực cung cấp các chương trình trợ giúp
cho người nhập cư (Tổ chức ánh sáng)
Mục đích phỏng vấn là để thu thập đầy đủ thêm các thông tin về thực trạng
vấn đề, nguyên nhân, nhu cầu, cách nhìn nhận của họ về đời sống, việc làm,
các dịch vụ xã hội cơ bản đối với hộ gia đình lao động tự do, nhập cư.
Phương pháp quan sát/ghi chép thực tế, chụp ảnh
Trong một số trường hợp, có sự khác nhau giữa cách nhìn nhận vấn đề và
cuộc sống thực. Bởi vậy, phương pháp quan sát cuộc sớng thực góp phần giúp
nhóm nghiên cứu phần nào khẳng định tính xác thực của thơng tin thu nhận
14


được. Các ghi chép này có thể bao gồm những thơng tin như những gì diễn ra
trong q trình phỏng vấn sâu, cảm tưởng của người quan sát trước sự tương
tác giữa nghiên cứu viên và người tham gia thảo luận/trả lời phỏng vấn, điều
kiện môi trường sống hay sinh hoạt, sinh kế trong bối cảnh thực (ngoài đường
phố, tiệm cơm, xưởng ...). Kết hợp với chụp ảnh cụ thể về thực trạng các dịch
vụ xã hội cơ bản hiện có tại địa bàn: tình trạng nhà ở, vệ sinh môi trường,
điện, nước….
9. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 06/2014 đến tháng 11/2014
Không gian: Địa bàn phường Phúc Xá, quận Ba Đình, Hà Nội.
Giới hạn nội dung nghiên cứu: việc sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản của
hộ gia đình lao động tự do và các nhu cầu chưa được đáp ứng của họ.


15


NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu
1.1.

Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu

1.1.1. Tiếp cận dựa trên thuyết về nhu cầu của con người
Học thuyết về nhu cầu được nhà khoa học xã hội nổi tiếng Maslow xây
dựng vào những năm 1950. Lý thút của ơng nhằm giải thích những nhu cầu
nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng
đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.
Lý thuyết của Maslow đề cập đến nhu cầu của con người thông qua một hệ
thống theo bậc thang các nhu cầu, căn cứ theo tính đòi hỏi và thứ tự phát sinh
trước sau các nhu cầu của con người mà quy về năm thang bậc nhu cầu cơ
bản từ thấp đến cao. Năm bậc thang nhu cầu của Maslow gồm:
Nhu cầu tâm sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sớng của
con người như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thỏa mãn về tình dục.
Maslow quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chưa thỏa mãn tới mức độ
cần thiết để duy trì cuộc sớng thì những nhu cầu khác của con người sẽ khơng
thể tiếp tục.
Nhu cầu về an tồn hoặc an ninh: An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản
nhất, là tiền đề cho an toàn lao động, an toàn mơi trường, an tồn nghề
nghiệp, an tồn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm lý…
Những nhu cầu được yêu thích và quan hệ xã hội: Con người là thành
viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người khác thừa nhận.
Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người, sự lo sợ bị cô đơn

và mong muốn được hòa nhập. Nội dung của nhu cầu này thể hiện tầm quan
trọng của tình cảm con người trong quá trình phát triển của nhân loại.
16


Nhu cầu được tôn trọng: Nhu cầu này thể hiện hai khía cạnh trong mới
quan hệ: lịng tự trọng và được người khác tơn trọng. Lịng tự trọng bao gồm
nguyện vọng ḿn dành được lòng tin, có năng lực, bản lĩnh, sự độc lập, tự
tin, trưởng thành và tự hoàn thiện.
Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong
bậc thang nhu cầu của con người. Bao gồm nhu cầu về nhận thức, nhu cầu
thẩm mỹ, nhu cầu thực hiện mục đích bằng khả năng của cá nhân.
Sự vận dụng thuyết Nhu cầu của Maslow vào đề tài nghiên cứu giúp
xác định được những nhu cầu nào trong hệ thống thứ bậc nhu cầu chưa được
thỏa mãn tại thời điểm hiện tại. Cụ thể ở đây đối với người nghèo di cư là
những nhu cầu sinh lý cơ bản nhất như nhà ở, sức khỏe, vệ sinh… là tiền đề
cho việc thỏa mãn những nhu cầu cao hơn. Qua đó đánh giá được thực tế sự
thỏa mãn nhu cầu của họ, khả năng tiếp cận các dịch vụ cần thiết, những yếu
tố tác động đến khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội của họ, đồng thời giúp cho
họ xác định được những hành động có thể thực hiện để thay đổi và nâng cao
khả năng của họ trong việc thỏa mãn các nhu cầu.
1.1.2. Tiếp cận dựa trên thuyết hệ thống
Các quan điểm hệ thớng trong cơng tác xã hội có nguồn gớc từ lý
thuyết hệ thống tổng quát của Bertalanffy - một nhà sinh học nổi tiếng người
Mỹ. Lý thuyết của ông là một lí thuyết sinh học cho rằng “mọi tổ chức hữu cơ
đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là
một phần của hệ thớng lớn hơn. Do đó con người là một bộ phận của xã hội
và được tạo nên từ các phân tử, mà được tạo dựng từ các nguyên tử nhỏ hơn.
Lý thuyết này được áp dụng đối với các hệ thống xã hội cũng như những hệ
thống sinh học. Sau này, lý thuyết hệ thống được các nhà khoa học khác như

Hanson (1995), Mancoske (1981), Siporin (1980)… nghiên cứu và phát triển.

17


×