Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố, từ thực tiễn viện kiểm sát nhân dân huyện nam sách, tỉnh hải dương​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.79 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI THANH TÙNG

VAI TRß BảO Vệ QUYềN CON NGƯờI CủA VIệN KIểM SáT
KHI THựC HàNH QUYềN CÔNG Tố Và KIểM SáT HOạT ĐộNG TƯ PHáP
TRONG GIAI ĐOạN TRUY Tố, Từ THựC TIễN VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN
HUYệN NAM SáCH, TỉNH HảI DƯƠNG

LUN VN THC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI THANH TÙNG

VAI TRß BảO Vệ QUYềN CON NGƯờI CủA VIệN KIểM SáT
KHI THựC HàNH QUYềN CÔNG Tố Và KIểM SáT HOạT ĐộNG TƯ PHáP
TRONG GIAI ĐOạN TRUY Tố, Từ THựC TIễN VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN
HUYệN NAM SáCH, TỉNH HảI DƯƠNG
Chuyờn ngnh: Lut Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG


HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Mai Thanh Tùng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI .............................................................................. 9
1.1.


Khái quát về quyền con người ........................................................... 9

1.2.

Vị trí, vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong đảm bảo quyền
con người trong pháp luật Việt Nam ............................................... 13

Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 22
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN NAM
SÁCH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................ 24
2.1.

Tình thình tội phạm ở huyện Nam Sách, và cơ cấu Viện
kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách ............................................... 24

2.1.1. Tình hình tội phạm ở huyện Nam Sách .............................................. 24
2.1.2. Cơ cấu của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách ....................... 30
2.2.

Trách nhiệm bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát khi
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra, truy tố ................................................................. 32

2.3.

Trách nhiệm bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát khi
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong
giai đoạn xét xử................................................................................... 63


Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 71


Chương 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC ĐẢM BẢO
QUYỀN CON NGƯỜI...................................................................... 72
3.1.

Tồn tại, hạn chế trong việc bảo vệ quyền con người ở giai
đoạn truy tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Nam Sách ............................................................... 72

3.2.

Nguyên nhân của những tồn tại ....................................................... 73

3.3.

Những giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc đảm bảo quyền con người ....................................... 74

3.3.1. Trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,
điều tra, truy tố các vụ án hình sự ....................................................... 74
3.3.2. Trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn xét xử................................................................. 78
Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

HĐXX:

Hội đồng xét xử

TAND:

Tịa án nhân dân

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát


VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền
văn hóa của nhân loại, được hình thành với sự đóng góp của tất cả các quốc
gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên thế giới. Kể từ khi
Liên Hợp Quốc được thành lập, quyền con người đã được quy định trong rất
nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý
tồn cầu được các quốc gia tơn trọng và thực hiện. Ở Việt Nam, trải qua lịch
sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã phải hy
sinh để giành lấy những quyền cơ bản của con người: được sống trong điều
kiện độc lập, tự do, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành, nhân phẩm
được tơn trọng. Do đó, Nhà nước Việt Nam không chỉ khẳng định sự tôn
trọng và bảo vệ quyền con người mà cịn làm hết sức mình để đảm bảo và
thực hiện quyền con người.
Trong các lĩnh vực pháp luật, tố tụng hình sự là lĩnh vực rất nhạy cảm
bởi mỗi một trình tự, thủ tục hay quyết định, hành vi trong tố tụng hình sự đều
có khả năng xâm hại trực tiếp đến quyền con người. Do đó, hồn thiện pháp
luật tố tụng hình sự là một kênh rất quan trọng để bảo vệ quyền con người.
Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự đã thơng qua nhiều hình thức để bảo đảm
quyền con người như: các nguyên tắc, các quy định quyền và nghĩa vụ cho
những người tham gia tố tụng, bảo đảm quyền con người trong quy định về
các biện pháp cưỡng chế, quy định quyền được bồi thường và phục hồi danh
dự, quyền lợi.
Do tính chất đặc biệt của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là được phát
sinh từ việc thực hiện hành vi phạm tội, nên trong quy trình tố tụng, các cơ

quan bảo vệ pháp luật cũng phải làm hết trách nhiệm vừa thực hiện việc điều
tra, truy tố, xét xử, vừa đảm bảo quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,

1


người bị kết án bởi họ bị hạn chế một số quyền cơ bản của công dân như:
Quyền tự do thân thể, tự do đi lại, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh,
quyền học tập, quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Do việc hạn chế các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trực tiếp ảnh hưởng đến với đời sống
vật chất và tinh thần của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, vì
thế để đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự, trong từng
giai đoạn tố tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người phạm tội phải có các
quyền tương xứng với thân phận pháp lý của họ theo quy định của pháp luật.
Có thể hiểu một cách cơ bản: điều tra là một giai đoạn của q trình tố
tụng hình sự, trong đó Cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Bộ luật Tố
tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm
tội và tùy từng vụ án với những chứng cứ thu thập được để Cơ quan điều tra
ra một trong các quyết định giải quyết theo thẩm quyền, tuy nhiên phần lớn
điều tra hướng tới mục đích cuối cùng là đề nghị Viện kiểm sát truy tố. Viện
kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra và trong quá trình đánh giá một cách toàn
diện, khách quan các tài liệu của vụ án, Viện kiểm sát cũng ra một trong
những quyết định giải quyết vụ án, tuy nhiên phần lớn là quyết định truy tố bị
can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Truy tố là chức năng quan trọng
của Viện kiểm sát nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm
tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của tồn bộ các hành vi tố tụng mà Cơ quan
điều tra có thẩm quyền đã áp dụng; để loại trừ những hậu quả tiêu cực của các
sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước
đó. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát thông qua bản cáo trạng thể hiện
hoạt động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết

luận điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực
hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét
xử của Tòa án, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể

2


xảy ra do việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật,
tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội, tăng cường pháp chế,
bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi xét xử
tại Tòa án. Và Tòa án với chức năng quan trọng nhất là xét xử những bị cáo
và những hành vi theo tội danh trong phạm vi, mức độ mà Viện kiểm sát truy
tố. Quy định giới hạn xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự để đảm bảo tính
xác định và định hướng cho hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố
tụng, các chủ thể tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là xác định giới
hạn cho Toà án trong việc thực hiện quyền hạn của mình trong quá trình giải
quyết vụ án. Là cơ quan thực hành quyền công tố và bằng quyết định truy tố
của mình làm phát sinh hoạt động xét xử của Tịa án nên Viện kiểm sát có vị
trí khơng thể thiếu trong giai đoạn xét xử hình sự. Là cơ quan buộc tội nên
Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa để kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ
mà Cơ quan điều tra đã thu thập, tranh tụng với bên gỡ tội. Quan điểm buộc
tội của Viện kiểm sát được thể hiện bằng bản Cáo trạng và Kiểm sát viên là
người trực tiếp bảo vệ cáo trạng tại phiên tòa. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này,
Kiểm sát viên cần nắm chắc tồn bộ tiến trình điều tra vụ án và những tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Việc chuẩn bị tốt cho việc tranh tụng tại phiên
tịa có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực hành
quyền công tố của Kiểm sát viên.
Theo quy định tại Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tịa án khơng
được xét xử bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát không truy tố; hoặc
xét xử theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Nếu qua

xét xử, Tịa án phát hiện cịn có người khác phạm tội hoặc tội phạm khác của
bị cáo chưa được truy tố thì Tịa án có thể ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
đối với tội phạm mới và giao cho Viện kiểm sát quyết định điều tra. Trong
trường hợp Tòa án phát hiện bị cáo phạm tội danh nặng hơn thì Tồ án ra

3


quyết định điều tra bổ sung theo tội danh nặng hơn, đề nghị Viện kiểm sát
thay đổi tội danh đã truy tố. Nếu Viện kiểm sát không đồng ý thay đổi tội
danh và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tịa án vẫn quyết định xét xử
theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Quy định này là phù hợp với
nguyên tắc độc lập khi xét xử, phù hợp với chức năng thực hiện quyền tư
pháp của Tồ án khơng phải theo hướng biến Tồ án thành cơ quan buộc tội,
lạm quyền bởi dù có được quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh
mà Viện kiểm sát truy tố thì cũng phải nằm trong nhóm tội danh phù hợp với
hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Tịa án khơng được xử theo tội danh nặng hơn
đối với một tội phạm, nhưng Tòa án có quyền xử theo khung hình phạt nặng
hơn khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khi khung hình phạt
đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án. Nếu qua xét xử Tòa án thấy cần đổi
tội danh thì Hội đồng xét xử chỉ có thể đổi tội danh nhẹ hơn hoặc thay đổi tội
danh có khung hình phạt tương đương với tội phạm đã bị truy tố.
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của
con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế. Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử
nhân loại, là giá trị chung của các dân tộc.
Về lý luận cũng như trên thực tế, nhân quyền hay quyền cơ bản của con
người là những quyền khơng thể thiếu để cá nhân có thể tồn tại và phát triển
bình thường với tư cách là một thành viên của cộng đồng xã hội trong một

giai đoạn lịch sử nhất định. Hiện nay, có nhiều cách phân loại quyền con
người nhưng chủ yếu là phân loại theo lĩnh vực đời sống xã hội và trong các
lĩnh vực của đời sống, quyền con người được phân thành hai nhóm chính:
nhóm các quyền kinh tế - văn hóa - xã hội và nhóm các quyền dân sự - chính
trị. Quyền con người trong tố tụng hình sự là lĩnh vực chuyên biệt thuộc nhóm

4


quyền dân sự - chính trị gắn với quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh
chính trị của mỗi cá nhân.
Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật bao gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự. Mỗi giai đoạn thực hiện một nhiệm vụ nhất định nhưng cùng
hướng đến mục đích chung là giải quyết mọi vấn đề của vụ án hình sự. Tuy
độc lập, nhưng mỗi giai đoạn vẫn nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau và
tạo thành một trình tự thống nhất; giai đoạn trước là tiền đề cho việc thực hiện
nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Mỗi giai
đoạn tố tụng do một chủ thể thực hiện, nhưng các chủ thể có quan hệ chặt chẽ
với nhau, vừa phối hợp vừa kiểm soát lẫn nhau để giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự. Hoạt động này trước hết sẽ bảo vệ quyền lợi cho người bị hại trước
sự xâm phạm của tội phạm. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự có
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trong hoạt động này, tính quyền lực hay sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước tạo nên sự bất bình đẳng cho các bên khi tham
gia quan hệ pháp luật tố tụng dẫn đến quyền con người trong tố tụng hình sự
lại là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng
nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền sống; quyền được bảo vệ
không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo; quyền không bị bắt, giam giữ
tùy tiện…. Do đó, hoạt động tố tụng hình sự trong mọi quốc gia phải thận
trọng và chú trọng việc bảo vệ quyền con người, cụ thể là đảm bảo quyền và

lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, giảm thiểu các nguy cơ xâm phạm một
cách bất hợp pháp. Chính vì vậy, tơi chọn đề tài “Vai trị bảo vệ quyền con
người của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn truy tố, từ thực tiễn Viện kiểm sát Nhân dân
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.

5


1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ
bản và thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát; nêu lên vai trò của Viện kiểm sát trong bảo đảm
quyền con người trong mỗi giai đoạn tố tụng hình sự, để truy tố phải có điều
tra, để xét xử phải xác định phạm vi truy tố.
- Mục tiêu cụ thể
Với mục đích nêu trên, việc thực hiện bảo đảm quyền con người trong
giai đoạn truy tố với đối tượng chủ yếu đối với bị can khi phải chịu các biện
pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Việc tuân thủ mọi biện hạn
chế quyền con người, quyền cơng dân trong q trình giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật. Việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can; tạo cơ sở
pháp lý để đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án hình sự, chống sự tùy nghi, lạm
dụng.... Qua đó để thấy được trách nhiệm vai trò của Viện kiểm sát trong bảo
đảm quyền con người.
Từ thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền con người tại huyện
Nam Sách để đưa ra được những nhận xét, đánh giá thiết thực nhất về hiệu
quả của việc áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp để nâng
cao hiệu quả pháp luật.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Đề tài đưa ra những cơ sở lý luận và pháp lý liên quan đến việc đảm bảo
quyền con người và vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người.
Trên cơ sở phân tích thực tế, thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ
quyền con người từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách để từ
đó có sự đánh giá một khách khách quan nhất hiệu quả của việc áp dụng pháp
luật, đưa ra được những ưu điểm, mặt tích cực để tiếp tục phát huy, đồng thời
chỉ ra những điểm hạn chế để khắc phục.

6


Bên cạnh đó đánh giá được thực trạng và đề xuất phương hướng, nội
dung hoàn thiện và nâng cao trách nhiệm bảo vệ quyền con người của Viện
kiểm sát trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề về pháp luật có liên quan đến quyền con người và
đảm bảo quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề xung quanh các quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân và việc thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn, vai trị đó của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ
quyền con người theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình
áp dụng các quy định đó trong thực tế các giai đoạn tố tụng nói chung và
giai đoạn truy tố nói riêng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách. Chỉ
ra những mặt tích cực, tồn tại, nguyên nhân của tồn tại và giải pháp để khắc
phục, hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy
định đó trong thực tiễn.

2. Nội dung, phương pháp và địa điểm nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
Kết cấu luận văn bao gồm các phần chính là mở đầu, nội dung và kết
luận (có mục lục kèm theo). Trong đó, phần nội dung của luận văn được thể
hiện qua ba chương với nội dung như sau:
Chương 1. Quyền con người và vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc bảo vệ quyền con người.

7


Chương 2. Thực trạng vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm
sát nhân dân huyện Nam Sách khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn truy tố.
Chương 3. Đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc đảm bảo quyền con người.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận, một số cơng trình nghiên
cứu về vấn đề quyền con người và thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ, chức
năng, vai trị của Viện kiểm sát đã góp phần cho việc đảm bảo quyền con
người trong mỗi giai đoạn tố tụng hình sự, nhất là trong giai đoạn truy tố.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Nam Sách là một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, có các điều kiện về địa
lý, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc phát triển kinh tế. Huyện Nam Sách
nằm ở trung tâm của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có
hệ thống giao thơng tương đối thuận lợi, phía bắc giáp thành phố Chí Linh,
phía đơng giáp thị xã Kinh Mơn và huyện Kim Thành, phía nam giáp thành
phố Hải Dương, phía tây giáp huyện Cẩm Giàng và huyện Lương Tài (tỉnh
Bắc Ninh). Với điều kiện thuận lợi về địa lý, giao thơng, giáp các khu vực có
nền kinh tế phát triển, huyện Nam Sách có nhiều lợi thế để phát triển sản xuất

kinh doanh, giao lưu thương mại, cải thiện điều kiện sống cho người dân
nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn với các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội.

8


Chương 1
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Khái quát về quyền con người
Sâu thẳm trong tư duy và tâm hồn của nhân loại là niềm tin chắc chắn
rằng mỗi người và tất cả mọi người đều có các quyền, trong đó có quyền tự
do khơng bị áp bức, quyền tự do lựa chọn và không phải chịu những hành vi
tàn bạo. Theo bản năng, hầu hết mọi người đều cảm nhận như vậy, ngay cả
khi họ không tin là có thể dễ dàng giành được những quyền đó. Trong suốt
chiều dài lịch sử, hầu hết các xã hội chỉ trao những quyền đó cho một số ít
người may mắn. Châu Âu thế kỷ XVIII xuất hiện khái niệm “luật tự nhiên” dựa trên một trật tự chung - trao những quyền đó cho tất cả mọi người. Triết
lý đó có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776, và những khái
niệm trong Hiến pháp Mỹ, một văn kiện cho đến nay vẫn điều chỉnh mọi bộ
luật của Mỹ. Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực xác định và ủng hộ
nhân quyền. Ở đâu cũng vậy, cốt lõi của khái niệm này là giống nhau, đó là:
nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có đơn giản là vì họ là con
người. Nhân quyền là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân
quyền cũng là những quyền bất khả xâm phạm. Các quyền này có thể bị trì
hỗn - một cách chính đáng hay sai trái, ở nhiều nơi nhiều lúc - song ý tưởng
về các quyền cố hữu không thể bị phủ nhận. Nếu mất đi những quyền này,
con người sẽ khơng cịn là con người nữa.
Người đầu tiên được cho là đã phát triển một lý thuyết toàn diện về
nhân quyền là triết gia người Anh John Locke (1632-1704). Locke cho rằng

người dân hình thành nên các xã hội, các xã hội hình thành nên các chính phủ
để đảm bảo quyền được hưởng các quyền “tự nhiên”. Locke định nghĩa chính

9


phủ là một “khế ước xã hội” giữa kẻ cai trị và người bị trị. Ơng cho rằng cơng
dân chỉ có nghĩa vụ trung thành với những chính phủ bảo vệ các quyền của
họ. Thậm chí những quyền này có thể được ưu tiên hơn so với những đòi hỏi
và lợi ích khác của chính phủ. Tính hợp pháp của chính phủ chỉ có được nếu
tơn trọng và bảo vệ một cách có hệ thống các quyền của cơng dân. Tuy nhiên,
lý thuyết của Locke cũng có những hạn chế. Mặc dù cách viết của ông hàm ý
các quyền này có tính phổ qt, nhưng thực ra ơng khơng xét tới quyền của
tất cả mọi người. Trọng tâm thực sự của ông là bảo vệ Luận của Locke khẳng
định tầm quan trọng của cái tơi. Trong khi đó, phụ nữ, những người bản địa,
người hầu, lao động được trả lương không được công nhận là những người
được hưởng đầy đủ các quyền. Dù vậy, những tư tưởng của Locke và những
người khác cùng thời với ông là một bước đột phá quan trọng.
Khái niệm quyền con người ra đời muộn, gắn liền với các cuộc cách
mạng tư sản, nhưng những nội dung của quyền con người thì xuất hiện sớm
và tồn tại trong mọi nền văn hóa. Các nhà nghiên cứu thường trích dẫn những
bộ luật cổ ban hành qua các thời kỳ ở nhiều quốc gia, khu vực khác nhau để
phân tích sự phát triển của tư tưởng nhân quyền trong lịch sử nhân loại. Bên
cạnh đó, tư tưởng về quyền con người còn được phản ánh trong các học
thuyết, ấn phẩm tơn giáo, chính trị và pháp lý của nhân loại từ xưa cho đến
nay. Thực tiễn đã chứng minh những tư tưởng về quyền con người, cũng như
những quy định trong pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền con người là sự
đóng góp chung của mọi quốc gia, dân tộc, qua các thời kỳ phát triển của lịch
sử. Mỗi bước tiến, nhân loại đều đánh dấu nấc thang mới trong nhận thức và
việc thực hiện hóa các quyền con người, vì vậy, quyền con người phát triển

khơng ngừng, gắn liền với các hình thái kinh tế - xã hội, với nền văn minh
nhân loại. Như vậy, quyền con người vừa là sản phẩm của văn minh nhân
loại, vừa là sản phẩm đấu tranh lâu dài của con người chống lại áp bức, bóc
lột, làm chủ thiên nhiên và tự hồn thiện chính mình.

10


Ngày nay, những nguyên tắc và quy định của luật Nhân quyền quốc tế
được coi là mục tiêu phấn đấu của nhiều quốc gia. Ở hầu hết các nước, nội
dung các cơng ước nhân quyền đã được nội luật hóa và từng bước tổ chức
thực hiện bảo đảm quyền con người trên thực tế. Là giá trị chung nên tất cả
các dân tộc, khơng phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã
hội, văn hóa đều có quyền thụ hưởng và có nghĩa vụ bảo vệ, phát triển giá trị
xã hội cao quý đó.
Có thể hiểu quyền là khái niệm khoa học pháp lí dùng để chỉ những
điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức
để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được
ngăn cản, hạn chế.
Dấu hiệu đặc trưng thứ nhất của quyền là phải có sự ghi nhận về mặt pháp
lí và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật; thứ hai là phải có
sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với chủ thể cá nhân, được thể hiện cụ thể
trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân trong một
cộng đồng nhất định. Theo đó, quyền của cá nhân được phát sinh, tăng hay giảm
tùy theo từng thời điểm của quá trình tồn tại và phát triển của xã hội. Đối với cá
nhân, các quyền cơ bản phát sinh khi cá nhân sinh ra và có những quyền cụ thể
khác phát sinh và ghi nhận khi cá nhân phát triển đến một giai đoạn nhất định,
tham gia những quan hệ xã hội, những lĩnh vực hoạt động nhất định. Quyền phải
gắn với phạm vi quyền, nghĩa vụ và năng lực của cá nhân và phải chịu tác động
trong phạm vi giới hạn của pháp luật hay vùng lãnh thổ nhất định. Quyền của cá

nhân chỉ bị tước bỏ bởi pháp luật, chấm dứt khi người đó chết.
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ quyền con người”, cịn có thuật ngữ
“nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh
“human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người; còn
nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền. Xét về mặt ngôn ngữ học, theo Đại Từ
điển tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa.

11


Nhân quyền, ở góc độ khái quát nhất, theo Liên Hợp Quốc, có thể hiểu
là những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu khơng được bảo đảm thì
chúng ta sẽ khơng thể sống như một con người. Tại Việt Nam, một số định
nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu
ra cũng khơng hồn tồn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người
thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là chăm lo cho con người, tôn trọng,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đây là quan điểm nhất quán, xuyên
suốt kể từ ngày Đảng ta ra đời, được thể hiện rõ từ trong Cương lĩnh chính trị
năm 1930, Tun ngơn độc lập, Hiến pháp đến các văn kiện của Đảng và
pháp luật của Việt Nam.... Đặc biệt, tại Hiến pháp năm 2013, quyền con
người tiếp tục được khẳng định và bảo đảm, khái niệm “quyền con người”
tiếp tục sử dụng với nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị
của cá nhân con người.
Hiến pháp năm 2013 có quy định:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp

và pháp luật [17, Điều 14, khoản 1].
Tiếp đến khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 có quy định:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm [17, Điều 20, khoản 1].

12


Như vậy, lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam ghi nhận “Quyền con
người”, điều này cho thấy không phải các bản Hiến pháp trước đó chúng ta
khơng ghi nhận về “quyền con người” (nhân quyền) mà trước đây chúng ta
chưa phân biệt rõ hai khái niệm “quyền con người” và “quyền cơng dân”, hay
nói cách khách chúng ta đã đồng nhất hai khái niệm trên, cũng chính vì điều
này mà chúng ta bị các thế lực thù địch xuyên tạc Nhà nước ta không quan
tâm đến “quyền con người”, vi phạm nhân quyền. Lần ghi nhận này có ý
nghĩa hết sức quan trọng một mặt chúng ta phân biệt rõ hai khái niệm “quyền
con người” và “quyền công dân”, ghi nhận “quyền con người” đứng trước
“quyền công dân” cũng có nghĩa là chúng ta ghi nhận “quyền con người” có
nội hàm rộng hơn “quyền cơng dân”, “quyền cơng dân” là một bộ phận của
quyền con người, đồng thời cũng ghi nhận từ trước đến nay chúng ta luôn
thừa nhận quyền con người đã được cụ thể hóa trong quyền công dân mà các
Hiến pháp trước đây đã công nhận, có điều chúng ta chưa tách bạch độc lập
về hai khái niệm trên.
1.2. Vị trí, vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong đảm bảo quyền
con người trong pháp luật Việt Nam
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc Lệnh số 20-LCT công
bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và ngày này cũng chính là ngày thành

lập Viện kiểm sát nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam, Viện
kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập trong cơ cấu tổ
chức bộ máy của các cơ quan nhà nước.
Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được tổ chức theo ngành dọc ở 4 cấp, gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (hiện có 3 Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh); Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (hiện có 63 Viện kiểm sát nhân dân

13


cấp tỉnh); Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(hiện có 710 Viện kiểm sát cấp huyện tại 710 quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh).
Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có các Viện kiểm sát quân sự,
gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương; Viện kiểm sát quân sự quân khu và
tương đương; Viện kiểm sát quân sự khu vực. Toàn bộ hệ thống Viện kiểm
sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các cấp đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo và
điều hành của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Các chức danh tư pháp trong Viện kiểm sát nhân dân gồm có:
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát
quân sự các cấp. Trong đó, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức với nhiệm kỳ 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ, quyền
hạn: Chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác,
quyết định các vấn đề về công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình và
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

cấp tỉnh; báo cáo công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử với
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao khi có yêu cầu; báo cáo công tác
trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội
đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, theo sự phân công hoặc ủy quyền
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình; chịu trách nhiệm về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
mình và trước pháp luật.

14


- Kiểm sát viên: Có 4 ngạch Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, bao
gồm: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao (số lượng không quá 19
người); Kiểm sát viên cao cấp; Kiểm sát viên trung cấp; Kiểm sát viên sơ cấp
với nhiệm kỳ được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm, trường hợp được
bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm. Khi thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật,
chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành
quyền cơng tố, tranh tụng tại phiên tịa và kiểm sát hoạt động tư pháp. Khi
thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kết luận, yêu cầu,
kiến nghị theo quy định của pháp luật.
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân
sự trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng
Viện kiểm sát tương ứng về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
- Điều tra viên: Có 3 ngạch Điều tra viên, bao gồm: Điều tra viên cao

cấp; Điều tra viên trung cấp; Điều tra viên sơ cấp.
- Kiểm tra viên: Có 3 ngạch Kiểm tra viên Viện kiểm sát nhân dân, bao
gồm: Kiểm tra viên cao cấp; Kiểm tra viên chính; Kiểm tra viên.
Theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân cơ quan thực
hiện quyền tư pháp, còn Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong
bộ máy nhà nước ta rất khó định nghĩa, định danh vì khơng quy định rõ Viện
kiểm sát nhân dân là một cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát là một bộ phận quan
trọng trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cho nên
việc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát cũng bị chi phối bởi các nguyên

15


tắc, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến hiện nay hệ thống Viện kiểm sát nhân dân của
Việt Nam được xác định như là một bộ phận quan trọng của hoạt động tư
pháp bao gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra cùng với các hoạt
động bổ trợ tư pháp khác.
Nhà nước ta không tổ chức theo nguyên tắc phân quyền mà theo
nguyên tắc tập quyền, nghĩa là mọi quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc
hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng điều đó khơng có
nghĩa là Quốc hội làm tất cả, mà có sự phân cơng, phân nhiệm rõ ràng, rành
mạch giữa Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp;
Quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia; Quy định tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Ngoài quy định chức năng, đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam còn quy định rõ về nhiệm vụ của Viện kiểm sát: Viện
kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần đảm bảo pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trên cơ sở Hiến pháp năm
2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 tiếp tục kế thừa những
quy định còn phù hợp của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,
song đã khẳng định rõ hơn vị trí, vai trị, phạm vi, mục đích, nội dung của
từng khâu cơng tác trong thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp.
Với chức năng đầu tiên là thực hành quyền công tố là hoạt động của

16


Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải
được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội
phạm và người phạm tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Trước đây, quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp rất chung
chung, không cụ thể là những hoạt động nào, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan này khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư
pháp khác theo quy định pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm:
+ Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác được thực hiện đúng quy định pháp luật.
+ Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm

17


giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định
pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải
được tôn trọng và bảo vệ.
+ Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi
hành nghiêm chỉnh.
+ Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện,
xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự, có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế,
bảo vệ quyền con người. Việc bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự được thể hiện trên hai phương diện: Một là, đấu tranh
chống tội phạm, phát hiện kịp thời để đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp

luật đối với người phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp,
trong đó có các quyền của con người. Hai là, bảo đảm các quyền của con
người (của người bị buộc tội, bị can, bị cáo, người chấp hành án) khơng bị
pháp luật tước bỏ được tơn trọng.
Theo đó, vị trí, vai trị, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân được nâng cao, khẳng định rõ vị thế của ngành trong việc bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất mà cịn góp phần bảo
vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng. Viện kiểm sát khơng chỉ thực
hiện quyền cơng tố mà cịn kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tư pháp,
đóng vai trị thể hiện quan trọng trong giai đoạn tố tụng từ tin báo, tố giác về
tội phạm và kiến nghị khởi tố và xuyên suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án.
Bên cạnh đó, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã mở

18


rộng thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân cả về loại tội
và chủ thể thực hiện tội phạm. Theo quy định, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương không
chỉ điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà còn điều tra các tội phạm
về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ, cơng chức thuộc Cơ quan điều tra, Tịa án, Viện kiểm sát, Cơ quan
Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Mặt khác, trong phần đầu tiên của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã
nêu những nguyên tắc cơ bản là căn cứ để thực hiện áp dụng pháp luật trong
xuyên suốt quá trình giải quyết các vụ việc hình sự. Nguyên tắc của tố tụng
hình sự là điều kiện cho việc thực hiện các mục đích của tố tụng hình sự.
Ngun tắc của tố tụng hình sự có chức năng điều chỉnh hành vi tố tụng. Đây
cũng là biểu hiện cụ thể chức năng của pháp luật nói chung. Tính điều chỉnh

của nguyên tắc thể hiện ở hiệu lực của nó đối với các chủ thể tố tụng mà trước
hết là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các chủ thể đó
có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự, thực hiện đúng giới hạn thẩm quyền, tuân thủ các nguyên tắc đã được
pháp luật quy định. Không chỉ vi phạm các quy định pháp luật tố tụng cụ thể
mà vi phạm các nguyên tắc của tố tụng hình sự cũng phải được xem là căn cứ
để hủy các quyết định tố tụng và vô hiệu các hành vi tố tụng.
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có thể
phân loại các nguyên tắc theo các nhóm: (1) Nhóm các nguyên tắc có nội
dung liên quan đến yêu cầu về bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố
tụng hình sự; (2) Nhóm các nguyên tắc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng trong q
trình tiến hành tố tụng hình sự; (3) Nhóm các ngun tắc về tính chất của hoạt
động tố tụng hình sự; (4) Nhóm các nguyên tắc về sự tham gia của nhân dân

19


×