Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Luật dân sự 2 Đề số 04 Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về bảo lưu quyền sở hữu. Đề xuất hướng hoàn thiện quy định pháp luật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.08 KB, 21 trang )

Đề bài: Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về bảo
lưu quyền sở hữu. Đề xuất hướng hoàn thiện quy định pháp luật.


MỤC LỤC

PHỤ LỤC
BẢNG TỪ VIẾT TẮT

BLQSH: Bảo lưu quyền sở hữu
BLDS: Bộ luật dân sự
PL: Pháp luật
QSH: Quyền sở hữu


MỞ ĐẦU
Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thơng qua ngày
24/11/2015, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2017 có nhiều nội dung đổi mới, trong đó
có phần nội dung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Nhìn một cách khái quát, nội
dung phần bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tiếp cận
tốt hơn với thông lệ quốc tế và cơ bản giải quyết được những vướng mắc, khó
khăn trong thực tiễn kí kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng có biện pháp bảo
đảm. Có thể nói rằng bước tiến mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ có sự ảnh hưởng và tác động mang tính chất chi phối đến cơ
chế điều chỉnh pháp luật và nhận thức pháp luật trong lĩnh vực giao dịch bảo
đảm và đăng ký biện pháp bảo đảm. Bảo lưu quyền sở hữu đã trở thành một biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của luật mới. Đây là cơ
sở giúp cho bên bán trong hợp đồng bảo đảm bảo vệ quyền và lợi ích của mình
cũng như giúp cho các cơ quan nhà nước giải quyết tranh chấp trên thực tế. Để
làm rõ hơn về vấn đề BLQSH được nhìn nhận như thế nào trong BLDS hiện
hành, em xin được chọn đề tài: “Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật


hiện hành về bảo lưu quyền sở hữu. Đề xuất hướng hồn thiện quy định pháp
luật.”
Vì vấn đề thời gian và sự hạn chế trong kiến thức mà bài tiểu luận cịn
nhiều sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của thầy cơ để bài tiểu
luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
I.
1.

Một số vấn đề chung về bảo lưu quyền sở hữu:
Khái niệm bảo lưu quyền sở hữu:

Luật dân sự chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam
nói riêng và thế giới nói chung. Về nguyên tắc, các chủ thể trong luật dân sự bình
đẳng với nhau về địa vị pháp lí, các chủ thể có quyền tự do cam kết, thỏa
thuận,... về mọi vấn đề liên quan đến quan hệ dân sự mà mình tham gia. Đặc biệt
hơn là các thủ thể còn được tự do lựa chọn biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích
của mình, ngăn chặn sự vi phạm của bên đối tác. Trải qua từng thời kì, các quy
định về bảo đảm nghĩa vụ có sự thay đổi phù hợp hơn với xu hướng phát triển
của xã hội hiện đại. Cụ thể trong BLDS 2015 ghi nhận 9 biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ (tăng thêm hai biện pháp so với BLDS 2005), trong đó có bảo lưu
quyền sở hữu được cho là biến thể của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự1.
BLDS 2015 không đưa ra khái niệm về bảo lưu quyền sở hữu, ở mỗi cơng
trình nghiên cứu có những sự nhìn nhận khác nhau về vấn đề này. Theo “Hoàn
thiện chế định bảo đảm thực hiên nghĩa vụ dân sự” – Phạm Văn Tuyết và Lê
Kim Giang (đồng chủ biên), “Bảo lưu quyền sở hữu chỉ là điều khoản trì hỗn
việc chuyển quyền sở hưu cho đến khi bên mua thanh toán đầy đủ tiền mua tài

sản”. Hay trong cuốn Bình luận khoa học BLDS năm 2015 nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của TS. Nguyễn Minh Tuấn cho rằng “về bản chất, bảo
lưu quyền sở hữu là việc ghi nhận quyền sở hữu cho chủ thể bán mặc dù tài sản
đã được đưa vào giao dịch, thậm chí đã giao tồn bộ cho bên mua 2”. Có quan
1 Theo “Hồn thiện chế định bảo đảm thực hiên nghĩa vụ dân sự” – Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (đồng
chủ biên) – NXB Dân trí – tr6.
2 Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) - Bình luận khoa học BLDS nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2015 - NXB Tư Pháp – năm 2016 – tr.505.

4


điểm cho rằng bảo lưu quyền sở hữu chỉ là điều khoản trì hỗn việc chuyển
quyền sở hữu cho đến khi bên mua thanh tốn đầy đủ.3
Nói tóm lại, trong BLDS 2015 cũng như các cơng trình khoa học chưa thống
nhất về một khái niệm cụ thể nào về bảo lưu quyền sở hữu. Ở góc độ giải thích
từ ngữ ta có thể hiểu rằng bảo lưu là giữ nguyên như cũ (để có thể dùng về sau) 4.
Vậy bảo lưu quyền sở hữu là việc bên bán được trì hoãn tạm thời việc thực
hiện nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho bên mua, nhằm bảo đảm cho việc bên
mua sẽ thanh toán đầy đủ số tiền mua bán tài sản theo đúng thời hạn đã thỏa
thuận.
2.

Các đặc điểm của bảo lưu quyền sở hữu:

Về cơ bản, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là một loại chế tài trong
nghĩa vụ dân sự. Chế tài này do các bên thỏa thuận đặt ra dưới dự “hậu thuẫn”
của pháp luật.5 Khi có sự vi phạm về nghĩa vụ, các bên có thể tự áp dụng như đã
thỏa thuận hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để đảm bảo
lợi ích cho bên có quyền. Về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, có nhiều quan

điểm với sự nhìn nhận khác nhau từ các nhà nghiên cứu, có tác giả cho rằng bảo
lưu quyền sở hữu khơng phản ánh được bản chất của biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ dân sự. Tuy nhiên, bảo lưu quyền sở hữu đã được ghi nhận tại Điều BLDS
2015.
2.1.

Các đặc điểm chung của bảo lưu quyền sở hữu:

BLQSH mang đầy đủ các đặc điểm với vai trò là biện pháp bảo đảm:
3 Nguyễn Mạnh Bách, Luật dân sự Việt Nam lược giải - Các hợp đồng dân sự thông dụng - NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 1997, tr32.

4 Tratu.soha.vn
5 Giáo trình luật dân sự Việt Nam – Tập II – Trường Đại học Luật Hà Nội – năm 2018

5


- Hình thành từ sự thỏa thuận của các bên: Đặc điểm này xuất phát từ nguyên
tắc tự do thỏa thuận của luật dân sự, cho phép các chủ thể tự nguyện cam kết về
mọi vấn đề liên quan đến nội dung quan hệ mà mình tham gia. Trong quá trình
tham gia quan hệ bảo đảm, các bên bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
- Thực hiện biện phạm bảo lưu quyền sở hữu chỉ xảy ra khi có vi phạm về
nghĩa vụ. Biện pháp bảo lưu quyền sở hữu phát sinh hiệu lực cùng với hợp đồng
mua bán tài sản, tuy nhiên trên thực tế nó sẽ chỉ phát sinh hiệu lực nếu có sự vi
phạm về nghĩa vụ (bên mua khơng thanh tốn hết tiền).
- Tạo ra phương thức bảo vệ quyền lợi cho bên bị vi phạm: Xét về mặt thực
tế, khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ mà các bên không áp dụng biện pháp
bảo đảm thì bên có quyền vẫn có thể u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết. Song, khơng có gì để đảm bảo chắc chắn rằng khi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đã ra quyết định giải quyết tranh chấp và xác định nghĩa vụ của

bên có nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ sẽ thực hiện quyết định đó. Để hạn chế gặp
phải rủi ro, bên có quyền có thể thỏa thuận lựa chọn biện pháp bảo lưu quyền sở
hữu để bảo đảm cho quyền và lợi ích của mình trước sự vi phạm đó.
- Khi quan hệ nghĩa vụ xác lập cùng biện pháp bảo đảm, biện pháp bảo đảm
có giá trị càng cao thì bên bảo đảm sẽ đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng về
quyền và lợi ích bấy nhiêu. Bởi vậy nó tác động đến bên có nghĩa vụ, ngăn chặn
sự vi phạm nghĩa vụ xảy ra.
2.2. Đặc điểm riêng của BLQSH:
Ngoài các đặc điểm trên, bảo lưu quyền sở hữu cũng có những đặc điểm
riêng nhằm phân biệt với các biện pháp bảo đảm khác như sau:

6


Thứ nhất, bảo lưu QSH là biện pháp bảo đảm gắn liền với hợp đồng mua bán
tài sản: Thông thường các biện pháp bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thực hiện
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng, còn đối với bảo lưu QSH
chỉ nhằm bảo đảm việc thanh thoán tiền mua tài sản phát sinh từ hợp đồng mua
bán tài sản.
Thứ hai, tài sản bảo đảm không thuộc sở hữu của bên bảo đảm: Tài sản bảo
đảm thường thuộc sở hữu của bên bảo đảm, khi bên có nghĩa vụ vi phạm, bên
nhận bảo đảm có thể xử lí tài sản bảo đảm để bù vào giá trị nghãi vụ đã bị vi
phạm. Trong Bảo lưu QSH, bên mua là bên nhận và sử dụng tài sản bảo đảm, đối
tượng của biện pháp bảo đảm chính là đối tượng của hợp đồng mua bán, và tài
sản bảo đảm không thuộc sở hữu của bên bảo đảm nên bên mua có khả năng vi
phạm nghĩa vụ thanh toán là cao. Tuy nhiên, trên thực tế, việc bên mua địi lại
được tài sản là vấn đề khó khăn, phương án này chỉ khả thi nếu đối tượng giao
dịch là tài sản phải đăng kí quyền sở hữu, cịn nếu khơng tài sản sẽ rất dễ bị bên
mua tẩu tán.
Thứ ba, tài sản bảo đảm sẽ không bị xử lí ngay cả khi bên có nghĩa vụ vi

phạm nghĩa vụ. Về nguyên tắc, khi có sự vi phạm nghĩa vụ, bên nhận tài sản bảo
đảm sẽ tiến hành xử lí tài sản theo phương thức đã thỏa thuận hoặc theo quy định
của pháp luật. Song ở biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, tài sản bảo đảm sẽ khơng
bị xử lí ngay cả khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ. Bởi tài sản bảo đảm thuộc
sở hữu của bên bán (tức bên nhận bảo đảm), nên khi bên mua khơng thanh tốn
tiền, bên bán sẽ khơng thực hiện quyền xử lí tài sản bảo đảm mà sẽ tiến hành địi
lại tài sản từ bên mua.
II.
1.

Phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về bảo lưu quyền sở
hữu:
Đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu:
7


Tài sản là đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu cũng mang đầy đủ các điều
kiện như tài sản là đối tượng của hợp đồng, bao gồm:
Một là tài sản được phép giao dịch: Ngoại trừ tài sản cấm lưu thơng, bởi việc
lưu thơng tài sản này có thể sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc phòng
hoặc chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hai là tài sản phải thuộc sở hữu của người bán hoặc người có quyền bán:
Bản chất của hợp đồng mua bán là bên bán chuyển quyền sở hữu cho bên mua,
tức bên bán thực hiện quyền định đoạt của mình với tài sản thuộc sở hữu của
mình. Do vậy, đối tượng của hợp đồng mua bán và bảo lưu quyền sở hữu phải
thuộc sở hữu của bên bán. Tuy nhiên, pháp luật dân sự cũng quy định người bán
tài sản có thể là người có quyền bán tài sản thuộc các trường hợp sau:
Bên nhận bảo đảm có quyền xử lí tài sản bảo đảm tại các trường hợp thuộc
Điều 299 BLDS 2015 như sau:
- Thông qua việc bán đấu giá tài sản theo quyết định thi hành án.

- Bên nhận gửi giữ tài sản trong hợp đồng gửi giữ tài sảm có quyền bán tài
sản gửi giữ nếu tài sản có nguy cơ hư hỏng nhằm hạn chế thiệt hại có thể xảy ra
với bên gửi giữ tài sản theo quy định tại điều 558 BLDS 2015.
Ba là tài sản phải được xác định cụ thể, nhằm giúp bên bán thực hiện quyền
đòi lại tài sản dễ dàng hơn khi bên mua khơng thanh tốn hết tiền mua tài sản.
Bốn là tài sản hiện tại khơng có tranh chấp về quyền sở hữu. Về nguyên
tắc tài sản phải thuộc sở hữu của một bên. Tài sản đang tranh chấp thì khơng rõ
quyền sở hữu có thuộc về bên bán hay khơng thì khó có thể đảm bảo quyền sở
hữu của bên mua với tài sản mua bán

8


Năm là không phải là tài sản đang bị kê biên để chờ thi hành án hoặc để thực
hiện quyết định của cơ quan nhà nước cơ thẩm quyền. Việc bán tài sản bị kê biên
sẽ dẫn đến mục đích của việc kê biên không đạt được, khiến quyền lợi của chủ
thể hoặc quyền và lợi ích cải nhà nước, lợi ích cơng cộng bị ảnh hưởng
Cuối cùng, tài sản không phải đối tượng của biện pháp bảo đảm khác.
Theo khoản 4 Điều 312; khoản 8 Điều 320; khoản 4,5 Điều 321 thì tài sản là đối
tượng của biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp thì bên bảo đảm khơng được
bán tài sản đó trừ trường hợp bên nhận bảo đảm đồng ý hoặc luật có quy định
khác.
2.

Điều kiện riêng về tài sản bảo đảm trong biện pháp bảo lưu quyền sở hữu:

Tài sản phải là vật không tiêu hao: nếu là vật tiêu hao qua sử dụng sẽ mất đi
tính chất hình dáng và tính năng ban đầu (Khoản 1 Điều 112). Khi bên mua đã sử
dụng tài sản thì sẽ khơng cịn nữa hoặc khơng cịn tình trạng như ban đầu. Vì vậy
khi xác lập bảo lưu quyền sở hữu với vật tiêu hao thì quyền lợi của bên bán

khơng được bảo đảm, nói cách khác quyền u cầu hồn trả tài sản của bên bán
khơng được thực hiện trên thực tế.
Tài sản là đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu không thuộc sở hữu của bên
bảo đảm: Tuy BLDS không quy định nhưng trong bảo lưu quyền sở hữu cũng
bao gồm hai bên, bên nhận bảo đảm (bên bán), bên bảo đảm (bên mua), thông
thường khi các biện pháp bảo đảm khác xác lập, bên bảo đảm sẽ chuyển giao tài
sản hoặc giấy tờ liên quan đến tài sản cho bên nhận bảo đảm. Tức là tài sản bảo
đảm phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Tuy nhiên, tài sản là đối tượng của bảo
lưu quyền sở hữu lại thuộc sở hữu của bên nhận bảo đảm (bên bán) theo quy
định tại Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015.

9


Thơng thường là tài sản phải đăng kí quyền sở hữu: Do nếu tài sản thuộc
loại khơng phải đăng kí quyền sở hữu sẽ gây bất lợi cho bên bán, bởi khi hết thời
hạn bảo lưu, bên mua không thanh tốn được tiền mua và có hành vi tẩu tán tài
sản thì việc địi lại tài sản là khơng thể. Tài sản là đối tượng của bảo lưu quyền
sở hữu chính là đối tượng của hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lưu
quyền sở hữu.
3.

Phạm vi bảo lưu của quyền sở hữu:

Khoản 1 Điều 331 quy định: Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài
sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực
hiện đầy đủ. Cho thấy rằng chỉ có thể sử dụng đi kèm với hợp đồng mua bán tài
sản, trong khi nếu xét về bản chất của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu thì nó có
thể đi kèm với các giao dịch liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản. Bảo lưu
quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm, xét hợp đồng trao đổi tài sản quy định tại

Điều 455: Mỗi bên được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là
người mua đối với tài sản nhận về. Các quy định về hợp đồng mua bán từ điều
430 đến điều 439, từ điều 441 đến 449 và điều 454 của Bộ luật này. Như vậy có
thể hiểu rằng phạm vi bảo lưu quyền sở hữu đi kèm với hợp đồng mua bán tài
sản, hợp đồng trao đổi tài sản.
4.

Hình thức bảo lưu của quyền sở hữu:

Tại khoản 2 Điều 331 quy định: Bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành
văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán. Do việc thực hiện nghĩa
vụ của các bên khơng phát sinh và chấm dứt ngay mà đó là cả một quá trình rất
phức tạp dễ xảy ra tranh chấp.
Việc pháp luật quy định chặt chẽ về hình thức nhằm tăng tính vững chắc của
biện pháp bảo đảm, do tài sản là đối tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
10


đã nằm trong tay người mua. Nếu không lập thành văn bản, khi có tranh chấp
xảy ra sẽ khơng có căn cứ nào để xác định quyền của người bán trên tài sản đó
nữa. Đây là một trong số ít các biện pháp được quy định bắt buộc về hình thức.
5. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lưu quyền sở hữu và
chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu:
Bảo lưu quyền sở hữu có thể xem như một quan hệ đơn vụ, theo đó chỉ có
bên mua tài sản là có nghĩa vụ phải thanh tốn tiền mua tài sản; cịn bên bán có
quyền u cầu thanh toán và quyền lấy lại tài sản theo điều 332 BLDS 2015.
6.

Hiệu lực bảo lưu của quyền sở hữu:


Hiệu lực đối kháng với người thứ ba được coi là nội dung mới trong BLDS
2015. Trước đây trong BLDS 2005 sử dụng với cụm từ “có giá trị pháp lí đối
với người thứ ba”. Khoản 3 Điều 331 quy định “Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.
Có thể thấy rằng pháp luật không bắt buộc về việc đăng kí BLQSH, việc đăng
kí chỉ là cơ sở để phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, nếu khơng đăng
kí thì nó chỉ có giá trị với các bên tham gia quan hệ giao dịch.
Mua bán trả chậm, trả dần là một phương thức kinh doanh hiệu quả, có tính
kích cầu tạo điều kiện cho người có nhu cầu sử dụng hàng hố nhưng khả năng
tài chính còn hạn hẹp. Tuy nhiên việc mua bán này còn nhiều rủi ro nếu người
mua định đoạt tài sản mà không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Để bảo đảm cho việc
thanh tốn nghĩa vụ, PL cho phép đăng kí giao dịch để đối kháng với người thứ
ba.
7.

Chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu:

11


Điều 334 BLDS 2015 quy định về ba trường hợp chấm dứt BLQSH bao gồm:
Nghĩa vụ thanh toán cho bên bán được thực hiện xong; Bên bán nhận lại tài sản
bảo lưu quyền sở hữu; Theo thỏa thuận của các bên.
III.
1.

Đánh giá quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS 2015:
Ưu điểm của quy định về bảo lưu quyền sở hữu theo BLDS 2015:

Thứ nhất, BLDS 2015 quy định một cách có hệ thống các nội dung liên quan

đến bảo lưu quyền sở hữu, khơng có mâu thuẫn và chồng chéo. Đặc biệt còn quy
định cụ thể về thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba tại khoản
3 Điều 331. Kế thừa và bổ sung các quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong
BLDS 2005, BLDS 2015 đã quy định cụ thể về hình thức, quyền của bên bán khi
bên mua vi phạm nghĩa vụ, hiệu lực bảo lưu quyền sở hữu của các bên và hiệu
lực đối kháng với người thứ ba. Các bên có thể giải quyết rõ ràng các vấn đề như
quyền của bên bán khi bên mua không thanh tốn hết tiền, khi nào thì bảo lưu
quyền sở hữu chấm dứt,…
Thứ hai, tạo thêm một phương thức bảo đảm để bảo vệ quyền và lợi ích của
bên bán. Biện pháp bảo lưu quyền sở hữu có ưu thế hơn vì các bên khơng cần sử
dụng bất kì biện pháp bảo đảm nào khác, hơn nữa nếu lựa chọn biện pháp bảo
đảm khác có thể phát sinh chi phí liên quan, đây là điều không chủ thể nào mong
muốn khi giao kết hợp đồng mua bán.
Thứ ba, việc pháp luật quy định bảo lưu quyền sở hữu bắt buộc bằng văn bản
đảm bảo được tính xác thực khi thoả thuận, các bên có thể dựa vào đó để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Hơn nữa, khi có tranh chấp phát sinh sẽ được giải
quyết nhanh chóng, đưa ra phán quyết đúng đắn của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ tư, trường hợp người mua mua TS với phương thức trả chậm, trả dần rồi
đem bán, tặng cho, trao đổi TS mà không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc vì lí do
12


nào đó khơng thực hiện nghĩa vụ thì bên bán có quyền địi lại TS đã bán và thanh
tốn cho bên mua số tiền đã nhận sau khi trừ giá trị hao mòn, hư hỏng do sử
dụng. Trường hợp bên mua làm mất thì phải bồi thường theo giá trị tài sản mua
và được trừ số tiền thanh toán. 6 Vì vậy BLQSH giúp bên bán kiểm sốt được TS
đã bán và thu hồi TS nếu bên mua không thực hiện nghĩa vụ.
Nói tóm lại, cách tiếp cận BLQSH dưới góc nhìn là biện pháp bảo đảm của
BLDS năm 2015 khá phù hợp với bản chất bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của biện
pháp BLQSH. Việc bổ sung quy định này không mới nhưng cần thiết nhằm tạo

hành lang pháp lí cho các bên tham gia giao dịch dân sự có nhiều phương án để
lựa chọn BPBĐ, bảo đảm tính linh hoạt cho q trình kí kết, tham gia, thực hiện
hợp đồng dân sự của các chủ thể, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của kinh
tế đất nước.
2.

Hạn chế về quy định bảo lưu quyền sở hữu:

Thứ nhất việc quy định hai chế định bảo lưu quyền sở hữu trong chế định hợp
đồng và chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dẫn đến khó khăn trong việc xác
định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên khi bên mua khơng hồn thành nghĩa
vụ thanh tốn trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần. Trường hợp hợp đồng trả
chậm trả dần, bảo lưu quyền sở hữu được xác lập tự động khi các bên lựa chọn
phương thức thanh tốn là trả chậm, trả dần. Cịn với tính chất là biện pháp bảo
đảm, bảo lưu quyền sở hữu không được xác lập một cách tự động mà buộc các
bên phải lập bằng văn bản hoặc thiết lập bằng một điều khoản cụ thể trong chính
hợp đồng mua bán.
6 TS. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) - Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015 - NXB Tư Pháp - năm 2016
- Tr43.

13


Thứ hai, việc thừa nhận bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm có phải
mang tính miễn cưỡng của các nhà làm luật. Vì nếu xét về tính chất thì biện pháp
này khơng có chức năng bảo đảm và tính dự phịng, bởi tài sản bảo đảm lại chính
là tài sản của bên bán, hơn nữa tài sản lại đang do bên mua chiếm giữ và sử
dụng, nên nó khơng thể bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa
vụ với bên nhận bảo đảm. Trên thực tế, nếu như bên mua khơng thanh tốn đủ
tiền mua, cộng thêm có hành vi tẩu tán tài sản khi có việc địi lại tài sản thì việc

địi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có khó thực hiện và khơng có
cơ chế nào bảo đảm việc thực hiện quyền này trên thực tế.
Thứ ba, quy định về quyền của bên bán trong trường hợp có kèm theo biện
pháp bảo lưu quyền sở hữu, BLDS 2015 không quy định về quyền của họ đối với
người thứ ba. Thiếu sót này dẫn đến sự trùng lặp y hệt nhau về quyền của bên
bán trong mua trả chậm, trả dần có thoả thuận về biện pháp bảo lưu quyền sở
hữu với quyền của bên bán trong mua trả chậm, trả dần khơng có biện pháp bảo
lưu QSH kèm theo.7
Thứ tư, về quyền truy đòi tài sản: Thực tiễn hoạt động thương mại cho thấy
rằng đối với người mua hàng hố có mục đích kiếm lợi nhuận, sau khi nhận hàng
từ người bán, họ sẽ không giữ lại mà đem chuyển nhượng cho những người
khác. Như vậy việc thực hiện quyền truy đòi tài sản sẽ gặp các vấn đề sau:
Một là tài sản đã được chuyển giao cho nhiều người một cách hợp pháp, vậy
nếu người bán truy địi tài sản có bảo lưu quyền sở hữu thì sẽ địi từ ai trong số
những người nói trên?

7 Giao dịch bảo đảm đặc thù - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn - Luận văn thạc sĩ Luật học / Lê Việt Hòa, PGS.TS Nguyễn
Văn Tuyết hướng dẫn, tr67.

14


Hai là sau khi mua tài sản được bảo lưu quyền sở hữu, người mua bán lại cho
nhiều khách hàng và họ lại chuyển cho người khác. Như vậy xác định rõ được
hết số khách hàng đã mua tài sản là đối tượng của BLQSH là điều rất khó, đặc
biệt sẽ rắc rối hơn nếu tài sản đó là động sản và là vật cùng loại.
Ba là tài sản được bảo lưu quyền sở hữu đã được khách hàng của người mua
trộn lẫn với các loại tài sản khác thành tài sản chung hợp nhất. Lúc này người
bán sẽ chỉ truy địi được giá trị của phần tài sản đó, việc xác định này rất khó
khăn và cịn gây mất nhiều chi phí - điều mà các chủ thể tham gia giao dịch dân

sự không hề mong muốn.
Bốn là việc thực hiện quyền truy địi tài sản có thể sẽ mang lại rủi ro cho
người thứ ba là khách hàng của người mua. Rủi ro này khách hàng của ngừoi
mua khó có thể lường trước được. Mơi trường kinh doanh nhiều rủi ro khi mà
người mua luôn cảm thấy bất an về việc hàng hố mình mua có thuộc đối tượng
bảo lưu quyền sở hữu theo BLDS 2015 hay không. Theo quy định tại khoản 1
Điều 387, một bên phải thông báo cho bên kia biết thông tin ảnh hưởng đến việc
chấp nhận giao kết hợp đồng. Người mua phải có nghĩa vụ báo cho khách hàng
của mình biết về việc tài sản mua bán thuộc đối tượng bảo lưu quyền sở hữu, và
nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Song nếu người mua
đã khơng thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người bán thì việc bồi thường
cho khách hàng là khó có thể xảy ra. Hậu quả là khách hàng của người mua có
thể bị truy địi tài sản, vừa bị thiệt hại nhưng khơng được bồi thường. Về mặt lí
thuyết, người thứ ba có thể tìm hiểu xem hàng hố họ định mua có thuộc đối
tượng của bảo lưu quyền sở hữu và biện pháp bảo lưu này có được đăng kí bảo
đảm hay không theo quy định tại khoản 1 Điều 59 nghị định 102/2017 NĐ - CP
ngày 01/09/2017 của Chính phủ song không bao quát hết được với những tài sản
khơng đăng kí quyền sở hữu.
15


Thứ năm, đặt vấn đề rằng quy định tại Điều 332 có phải đang gián tiếp đẩy
rủi ro cho bên mua tài sản kể từ thời điểm được giao hay khơng khi mà đang
thực hiện nghĩa vụ thanh tốn thì tài sản bị mất, quyền yêu cầu bên mua bồi
thường sẽ phát sinh. Trong khi đó, bên bán với tư cách chủ sở hữu tài sản sẽ
không gánh chịu rủi ro.
Thứ sáu, về hạn chế cụ thể: Tại Điều 332 có sự khơng thống nhất giữa tên gọi
và nội dung điều luật, tên điều luật là quyền đòi lại tài sản của bên bán song nội
dung lại có cả nghĩa vụ của bên bán. Sự đan xen giữa quyền và nghĩa vụ tạo sự
lộn xộn khó hiểu, có thể gây áp dụng không thống nhất. Tại khoản 1 Điều 333,

quy định bên mua có quyền “sử dụng tài sản” và “hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản”. Song tại điều 189 BLDS 2015 quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai
thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Vậy thuật ngữ “quyền sử
dụng” đã bao gồm cả hai nội dung là quyền khai thác công dụng và hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản. Trong quan hệ dân sự, quyền của bên này là nghĩa vụ của
bên kia, tức nó tương ứng với nhau. Tuy nhiên, so Điều 332 và Điều 333 thì
khơng có quyền và nghĩa vụ nào của bên mua tài sản trong Điều 333 ứng với
Điều 332.
IV. Đề xuất hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề bảo
lưu quyền sở hữu ở Việt Nam hiện nay:
Thông lệ về giao dịch bảo đảm hiện đại xem bảo lưu quyền sở hữu là một loại
“thế chấp” đặc thù. Theo đó, việc bên bán giao cho bên mua tài sản được hiểu là
bên bán đã cấp một “giá trị” nhất định cho bên mua trong tín dụng thương mại.
Do vậy, pháp luật phải có những điều chỉnh nhằm bảo vệ bên bán nhằm khuyến
khích, thúc đẩy loại tín dụng thương mại phát triển. Một số ngoại lệ trong quan
hệ này cần được nghiên cứu, điều chỉnh toàn diện hơn như: Bên bán tài sản trong
trường hợp người mua là người tiêu dùng; Bên bán tài sản trong trường hợp đó là
16


hàng hóa luận chuyển trong q trình sản xuất kinh doanh… Nhiều chuyên gia
khuyến nghị, các quy định liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu phải được xây
dựng dựa trên nguyên tắc thúc đẩy giao dịch thương mại, hàng hóa phát triển.
Nếu để nhìn nhận BLQSH là biện pháp bảo đảm thì về lâu dài cần ban hành
văn bản hướng dẫn quy định, bổ sung hay chi tiết hóa các nội dung quy định về
bảo lưu quyền sở hữu trong BLDS 2015, cụ thể như sau:
Về hiệu lực đối kháng với người thứ ba: cần quy định rõ giá trị hiệu lực đối
kháng trong trường hợp bên mua tài sản bán lại tài sản này cho người khác, cần
công nhận là người mua tài sản phải chấp nhận quyền của bên bán.
Đối với trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu: Ngoài các quy định tại

điều 334, BLQSH cịn có thể chấm dứt khi được thay thế bằng biện pháp bảo
đảm khác như bảo lãnh; tài sản là đối tượng hợp đồng mua bán hay đối tượng
của BLQSH khơng cịn; hợp đồng mua bán bị hủy bỏ hoặc đơn phương chấm
dứt.
Về nội dung điều luât: Cần sửa tên Điều 332, phần nội dung điều khoản cũng
cần tách thành nhưng khoản riêng biệt để cụ thể về quyền và nghĩa vụ; Sửa đổi
khoản 1 Điều 333 thành: “Khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản trong thời hạn BLQSH có hiệu lực.”8

8 Hồn thiện quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015 - Nguyễn Văn Hợi, Giáp Minh Tâm - Nhà
nước và Pháp luật. 2019. - Số 2, tr. 16

17


KẾT LUẬN
Bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
thông dụng được các nước trên thế giới ghi nhận và áp dụng rộng rãi, điển hình
như các nước Pháp, Đức, Nhật Bản,… Ở Việt Nam, nó có ý nghĩa rất lớn trong
nền kinh tế hiện nay, thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển, đồng thời tạo sự lựa
chọn, đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia vào quan hệ dân sự một cách tốt
nhất. BLDS 2015 có những ghi nhận bước đầu về biện pháp bảo đảm này, việc
ghi nhận ấy là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cần phải đưa ra những quy định
hợp lí, cụ thể hơn để khắc phục những bất cập từ thực tế, để hoàn chỉnh hơn hệ
thống pháp luật dân sự nói riêng.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập II NXB - năm 2018.
2. Bảo lưu quyền sở hữu của người bán đối với tài sản mua bán theo Bộ luật
Dân sự năm 2015 - Đỗ Viết Anh Thái - Nhà nước và Pháp luật. Số 9/2016, tr. 18
- 27.
3. Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam: luận văn thạc sĩ luật
học - Giáp Minh Tâm; TS. Nguyễn Minh Oanh hướng dẫn.
4. Bảo lưu quyền sở hữu và hiệu lực đối kháng với người thứ ba - Dương Anh
Sơn - Nhà nước và Pháp luật. Số 2/2018, tr. 19 – 25.
5. Cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu theo Bộ luật Dân sự năm 2015 Đoàn Thị Phương Diệp - Nghiên cứu lập pháp. Số 17/2017, tr. 42 - 47.
6. Hoàn thiện quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm
2015 - Nguyễn Văn Hợi, Giáp Minh Tâm - Nhà nước và Pháp luật. 2019. - Số 2,
tr. 12-17.
7. Một số vấn đề về bảo lưu quyền sở hữu - Nguyễn Văn Hợi - Kiểm sát 2019
- Số 11, tr. 39-46.
8. Giao dịch bảo đảm đặc thù - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn - Luận văn
thạc sĩ Luật học / Lê Việt Hòa, PGS.TS Nguyễn Văn Tuyết hướng dẫn.
9. TS. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) - Bình luận khoa học những điểm mới
của BLDS 2015 - NXB Tư Pháp - năm 2016.
10. Quốc hội - Bộ luật Dân sự 2005, 2015.
19


11. Thông tư số 04/2007/TT- BTP ngày 17/05/2007 Bộ Tư pháp hướng dẫn
về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua
trả chậm, trả dần có bảo lưu quyền sở hữu của bên bán, hợp đồng thuê tài sản,
hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền địi nợ.
12.

/>
cua-bien-phap-bao-luu-quyen-so-huu-cam-giu-tai-san-trong-blds-nam-2015.

13. Tìm hiểu về bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản theo quy định của
BLDS 2015:
/>
20


PHỤ LỤC
Một số tham chiếu luật pháp các nước về vấn đề bảo lưu quyền sở
hữu (Theo ):
Bảo lưu quyền sở hữu động sản theo BLDS Pháp:
Là điều khoản bảo đảm rất phổ biến trong hợp đồng mua bán tài sản là
động sản theo đó bên bán được bảo lưu quyền sở hữu cho tới khi bên mua thanh
toán hết giá trị hợp đồng, ngay cả khi tài sản đã được giao cho bên mua.
Do quyền sở hữu được bảo lưu gắn liền với quyền yêu cầu thanh toán nên
kéo theo hai hệ quả sau:
- Nếu quyền đòi nợ này được chuyển nhượng thì quyền sở hữu được bảo
lưu cũng đi theo quyền đòi nợ;
- Nếu bên mua bán lại tài sản thì quyền sở hữu được bảo lưu cũng đi theo
tài sản. Nếu bên mua khơng có khả năng thanh tốn thì phải trả lại tài sản. Nếu
tại thời điểm trả lại tài sản, giá trị của tài sản lớn hơn số tiền nợ được bảo đảm thì
bên bán phải trả lại cho bên mua phần chênh lệch.
- Việc bảo lưu quyền sở hữu được một số nước coi là biện pháp bảo đảm
an tồn tín dụng như CHLB Đức, vì chậm thanh tốn hoặc thanh tốn theo định
kỳ là một trong các hình thức tín dụng rất phổ biến trong mua bán, cung ứng
hàng hóa, trong đó bên mua và bên nhận cung ứng hàng hóa được trả chậm, trả
dần. Do đó, các bên thường áp dụng cơ chế bảo lưu quyền sở hữu. Cũng có ý
kiến cho rằng trong trường hợp này, các bên nên áp dụng cơ chế thế chấp tài sản
sẽ phù hợp và thuận tiện hơn, vì BLDS đã có quy định rõ ràng về thế chấp….

21




×