Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÁCDOANH NGHIỆP XÂY DỰNG CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.52 KB, 27 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ
SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÁCDOANH
NGHIỆP XÂY DỰNG CƠ BẢN.
I- Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây dựng cơ bản:
Xây dựng cơ bản (XDCB) là một ngành sản xuất vật chất độc lập và đặc biệt có khả
năng sản xuất Tài sản cố định (TSCĐ) cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân, nó
tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế, quốc phòng cho đất nước.
So với các ngành kỹ thuật khác, XDCB có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc trưng thể
hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành, cụ thể:
- Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc có qui mô lớn, kết cấu
phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài, trình độ kỹ mỹ thuật cao. Đặc
điểm này thường làm cho vốn đầu tư XDCB thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang xây
dựng, các công trình xây dựng dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây
dựng xong dễ bị hao mòn vô hình. Do vậy, việc tổ choc quản lý nhất thiết phải có dự toán,
thiết kế thi công.
- Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất, còn các điểu kiện sản xuất
như lao động, vật tư, thiết bị ... luôn phải di chuyển theo mặt bằng, vị trí thi công. Mặt
khác, hoạt động XDCB lại tiến hành ngoài trời, chịu ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu nên
dễ gây tình trạng hao hụt, mất mát, lãng phí vật tư, tài sản, làm tăng thiệt hại trong tổng chi
phí sản xuất.
- Sản phẩm xây lắp hoàn thành không nhập kho mà được tiêu thụ ngay
theo giá dự toán, hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư từ trước. Do đó, ính chất hàng hoá của
sản phẩm thể hiện không rõ.
- Quá trình tạo ra sản phẩm xây dựng từ khi khởi công đến khi công trình
hoàn thành bàn giao đưa vaò sử dụng thường dài, phụ thuộc vào qui mô, tính phức tạp của
từng công trình. Quá trình thi công xây dựng này được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn chia thành nhiều công việc khác nhau.
Đối tượng kế toán sản phẩm xây lắp có thể là các công trình, hạng mục công trình,
đơn đặt hàng, giai đoạn công việc hoàn thành. Về cơ bản, việc kế toán các phần hành kế
toán như: TSCĐ, vật liệu, công cụ, dụng cụ, chi phí nhân công ... Trong doanh nghiệp xây
lắp cũng tương tự như doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, do hoạt động sản


xuất kinh doanh và quản lý của ngành XDCB có đặc điểm riêng nên nội dung của chi phí
tạo nên chỉ tiêu của giá thành sản phẩm có một số khác biệt là:
- Giá thành công trình lắp đặt không bao gồm giá trị thiết bị do đơn vị chủ
đầu tư giao.
- Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt vật kết cấu bao gồm giá trị vật kết
cấu và giá trị thiết bị làm theo như vệ sinh, thông gió, thiết bị sưởi ấm, điều hoà nhiệt độ....
Từ những đặc điểm trên đòi hỏi công tác kế toán vừa phải đáp ứng những yêu cầu
chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất, vừa phải đảm bảo
phù hợp với đặc tính riêng của doanh nghiệp XDCB. Từ đó nhằm cung cấp số liệu chính
xác , kịp thời đánh giá đúng tình hình kế hoạch sản xuất kinh doanh, cố vấn cho lãnh đạo
trong việc tổ chức, quản lý để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh của doanh nghiệp.
II- Nhiệm vụ, vai trò của công tác quản lý kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây dựng.
1- Nhiệm vụ của công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây dựng.
Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản và sản phẩm của ngành xây dựng nên việc
quản lý đầu tư và xây dựng là một quá trình khó khăn phức tạp, trong đó tiết kiệm chi phí
sản xuất hạ giá thành sản phẩm là một trong những mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ
hết sức quan trọng của doanh nghiệp.
Chính vì thế nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây dựng là: xác định hợp lý đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
và đối tượng tính giá thành phù hợp với điểu kiện thực tế của doanh nghiệp, thoả mãn yêu
cầu quản lý đặt ra, vận dụng các phương pháp tính giá thành và phương pháp kế toán theo
một trình tự hợp lý, tính toán chính xác, đầy đủ, kiểm tra các khâu kế toán như: tiền lương,
vật liệu, TSCĐ. Cụ thể là phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát
sinh.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, lao động, sử
dụng máy thi công và các dự toán chi phí khác. Phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so
với định mức, các chi phí ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại, mất mát hư hang trong sản

xuất và đề xuất các biện pháp ngăn chặn kịp thời.
- Tính toán chính xác và kịp thời giá thành sản phẩm xây dựng, các sản
phẩm và lao vụ khác của doanh nghiệp.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hạ chi phí của doanh nghiệp trong từng
công trình, từng loại sản phẩm, lao vụ vạch ra khả năng và các biện pháp hạ giá
thành một cách hợp lý, có hiệu quả.
- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng sản phẩm
xây dựng đã hoàn thành. Định kỳ kiểm kê và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo
nguyên tắc qui định.
- Đánh giá đúng kết quả hoạt động kinh doanh ở từng công trình, hạng
mục công trình (HMCT), từng bộ phận thi công, tổ đội sản xuất. Trong từng thời kỳ nhất
định, phải kịp thời lập báo cáo về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng,
cung cấp chính xác kịp thời các thông tin hữu dụng về chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
2- Vai trò của công tác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp xây dựng
Hạch toán kinh tế, thúc đẩy tiết kiệm thời gian lao động, động viên các nguồn vốn
dự trữ nội bộ của doanh nghiệp đồng thời đảm bảo tích luỹ, tạo điều kiện mở rộng không
ngừng sản xuất trên cơ sở áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm thoả mãn yêu cầu ngày
càng tăng và nâng cao phúc lợi của quần chúng lao động. Đối với các doanh nghiệp xây
dựng, việc kế toán sẽ cung cấp số liệu một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ phục vụ cho
việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật tư, nhân công, máy
thi công là bao nhiêu so với dự toán và kế hoạch, từ đó xác định được mức tiết kiệm hay
lãng phí chi phí sản xuất để đưa ra những biện pháp thích hợp. Còn việc tính giá thành sản
phẩm xây dựng thể hiện ở toàn bộ chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý
kinh tế tài chính của đơn vị.
II- Kế toán chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp XDCB:
1- Khái niệm chi phí sản xuất:
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp là một quá
trình biến đổi một cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào thi công xây dựng, tạo

thành các công trình, hạng mục công trình nhất định. Một doanh nghiệp để tiến hành sản
xuất bình thường, tạo ra sản phẩm nhất định thì không có gì thay đổi được là phải kết hợp
ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất đó là: tư liệu sản xuất, đối tượng lao động (biểu
hiện cụ thể là lao động vật hoá) và sức lao động (biểu hiện là hao phí về lao động sống).
Mặc dù hao phí bỏ ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nhiều loại, nhiều yếu tố
nhưng trong điều kiện cùng tồn tại quan hệ hàng hoá tiền tệ thì chúng đều được biểu hiện
dưới hình thức gía trị.
Như vậy, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các hao phí cần thiết khác mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để tiến hành các hoạt ddộng sản xuất sản phẩm xây lắp trong một thời kỳ
nhất định. Khi tiến hành xây dựng không phải tất cả các khoản chi phí đều liên quan đến
hoạt động sản xuất sản phẩm xây lắp mà còn có những khoản chi phí khác không có tổ
chức sản xuất như: chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí trả cho các khoản tiền phạt về vi
phạm hợp đồng, hao hụt vật liệu ngoài định mức. Do đó, chỉ những chi phí để tiến hành
các hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp phát sinh thường xuyên trong suốt quá
trình hoạt động của doanh nghiệp, vì vậy để khắc phục cho công tác quản lý một cách có
hiệu quả chi phí sản xuất phải được tập hợp theo từng thời kỳ (hàng tháng, quý, năm) phù
hợp với kỳ báo cáo và tuỳ thuộc vào thời gian xây dựng và đưa vào sử dụng. Trong đó, chi
phí phát sinh ở kỳ nào thì được tập hợp ở kỳ đó. Như vậy, lao động vật hoá và các hao phí
cần thiết khác mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thi
công trong một thời kỳ nhất định.
Về mặt lượng, chi phí sản xuất phụ thuộc vào hai nhân tố:
- Khối lượng sức lao động và tư liệu sản xuất đã chi ra trong một thời kỳ
nhất định
- Giá cả tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiền lương
của một dơn vị lao động đã hao phí.
2- Phân loại chi phí sản xuất:
Việc phân loại chi phí sản xuất không chỉ dựa vào các số liệu tổng hợp về chi phí
sản xuất mà còn căn cứ vào các số liệu cụ thể của từng loại chi phí theo từng công trình,

hạng mục công trình trong từng thời điểm nhất định. Do vậy, phân loại chi phí sản xuất là
yêu cầu tất yếu cho công tác quản lý và kế toán ở doanh nghiệp. Tuỳ vào yêu cầu của từng
mặt quản lý, góc độ xem xét chi phí.... mà chi phí sản xuất được sắp xếp, phân loại theo
cách thức khác nhau. Thông thường, chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp được phân loại
theo các tiêu thức sau:
2.1- Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố:
Theo cách phân loại này, các yếu tố chi phí có cùng chung nội dung, tổ chức kinh tế
được sắp xếp chung vào một yếu tố, không kể chi phí sản xuất ở đâu hay dùng vào mục
đích gì trong quá trình sản xuất. Đối với các doanh nghiệp xây lắp bao gồm các chi phí sau:
- Chi phí nguyên liệu,vật liệu như: xi măng, sắt thép, tấm lợp, vôi, sỏi, giàn
giáo...
- Chi phí nhiên liệu, động lực sản xuất sử dụng vào quá trình sản xuất thi
công như: xăng, dầu, mỡ...
- Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương của công nhân viên trực
tiếp và gián tiếp sản xuất.
- Các khoản trích: BHXH, BHYT, KPCĐ (theo tỷ lệ 19%)
- Chi phí khấu hao TSCĐ: là khoản hao mòn của các loại tài sản có trong
doanh nghiệp như nhà xưởng làm việc, ô tô, cần cẩu, máy thi công.... và khấu hao các
TSCĐ dùng cho quản lý khác.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: điện, nước, điện thoại, điện báo....
- Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh, ngoài các chi phí trên.
Việc phân loại chi phí theo nội dung, tổ chức kinh tế có tác dụng rất lớn trong công
tác kế toán cũng như công tác quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết nội dung dinh tế ban
đầu đồng nhất của từng khoản chi phí, là cơ sở để lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch
quĩ tiền lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau và cung cấp tài liệu để tính toán
thu nhập quốc dân.
2.2- Tính toán chi phí sản xuất theo mối quan hệ với quá trình sản xuất:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia làm 2 loại:
- Chi phí trực tiếp: là những khoản chi phí có liên quan trực tiếp tới quá

trình sản xuất và tạo ra sản phẩm. Nó bao gồm chi phí về nguyên vật liệu xây dựng, tiền
lương công nhân sản xuất, khấu hao máy móc thi công.
- Chi phí gián tiếp: gồm những khoản chi phí phục vụ chung cho tổ chức
thi công và không được tính trực tiếp cho từng đối tượng cụ thể. Các chi phí này gồm có:
chi phí quản lý hành chính, chi phí phục vụ nhân công, chi phí phục vụ thi công, chi phí về
ngừng sản xuất, chi phí các khoản thiệt hại phá đi làm lại và các chi phí chung khác.
Cách phân loại chi phí này có ý nghĩa lớn đối với việc xác định phương pháp kế
toán, tổng hợp và phân bổ chi phí cho các đối tưọng một cách đúng đắn, hợp lý, đồng thời
có kế hoạch để tiết kiệm chi phí.
2.3-Phân loại chi phí theo khoản mục và giá thành:
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong sản
xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản chi phí bao gồm những chi
phí có cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như
thế nào. Toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được chia làm các khoản mục chi phí sản xuất:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là tất cả các chi phí về nguyên vật liệu
chi ra đểcấu tạo nên thực thể công trình như: gạch, đá, cát, xi măng, thép... các cấu kiện bê
tông và các phụ gia khác. Giá trị vật liệu kể trên được tính theo giá thực tế gồm giá mua
ghi trên hoá đơn của người bán và chi phí thu mua thực tế: vận chuyển bốc dỡ... Trong
khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp không bao gồm các loại vật liệu phụ dùng cho máy
thi công, các loại vât liệu làm công trình tạm như lán trại che mưa, các chi phí định mức
cho phép.
- Chi phí nhân công trực tiếp: là toàn bộ tiền lưong chính, lương phụ, phụ
cấp và các khoản trích theo tiền lương của nhân công trực tiếp sản xuất, công nhân vận
chuyển vật liệu cho thi công, công nhân chuẩn bị thi công và thu dọn hiển trường, Như vậy
chi phí nhân công trực tiếp sản xuất bao gồm: tiền lương trả theo thời gian, trả theo sản
phẩm, trả theo giờ... nhưng khoản mục này không bao gồm tiền lương và các khoản tổ
chức lương của công nhân điều khiển máy móc thi công, tiền lương công nhân vận chuyển
ngoài cự ly của công trình.
- Chi phí sản xuất chung: là những khoản chi phỉtực tiếp phục vụ cho sản
xuất của đội, chi phí liên quan đến nhiều công trình. Chi phí này bao gồm: chi phí tiền

lương nhân viên quản lý đội, các khoản trích theo tiền lương, khấu hao TSCĐ dùng cho
đội, chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ dùng chung cho quản lý đội, chi phí hội họp, tiếp
khách, điện thoại, điện nước và các chi phí chung khác.
- Chi phí quản lý Doanh Nghiệp: là những khoản chi phí gián tiếp phục vụ
cho quản lý doanh nghiệp bao gồm tiền lương và các khoản phụ cấp của nhân viên quản lý
doanh nghiệp, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỉ lệ qui định, khấu hao nhà
cửa, máy móc, thiết bị, văn phòng phẩm, thuế, lệ phí, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi
phí bằng tiền mặt khác.
- Chi phí sử dụng máy thi công: là những khoản chi phí để sử dụng xe,
máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình theo phương thức thi công
hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy.( Hoặc là chi phí trả cho việc thuê ngoài máy
thi công)
Trong đó 4 khoản chi phí (nguyên vật liệu trực tiếp,nhân công trực tiếp,sản xuất
chung, sử dụng máy thi công) được tính vào giá trị sử dụng, còn chi phí quản lý doanh
nghiệp được cộng thêm vào để hình thành giá thành toàn bộ. Như vậy, cách phân loại này
cho ta biết được địa điểm sử dụng chi phí,công dụng của từng khoản chi phí và mức phân
bố của từng loại giúp cho việc xác định chỉ tiêu giá trị nhanh chóng kịp thời. Do đặc điểm
của sản phẩm xây lắp và phương pháp dự toán lập cho từng đối tượng xây dựng,theo các
khoản mục giá trị nên phương pháp phân loại chi phí khoản mục là phương pháp được sử
dụng rất phổ biến trong các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp.
3- Đối tượng kế toán chi phí sản xuất:
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí thực tế
phát sinh trong kỳ. Để xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí ở từng doanh nghiệp cần
căn cứ các yếu tố sau:
- Tính chất sản xuất, loại hình sản xuất và đặc điểm qui trình công nghệ
sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất.
- Căn cứ vào yêu cầu tính giá trị, yêu cầu quản lý, trình độ kế toán và quản
lý ở doanh nghiệp.
Như vậy, thực chất việc xác định đối tượng kế toán chi phí là việc xác định giới hạn
tập hợp chi phí hay xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí.

Trong ngành XDCB, do sản phẩm mang tính đơn chiếc, thời gian xây dựng lâu dài,
mỗi công trình có dự toán thiết kế riêng vì vậy đối tượng tập hợp chi phí trong doanh
nghiệp xây lắp là công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn, công việc của hạng mục
công trình hoặc nhóm hạng mục công trình cùng loại theo đơn đặt hàng. Doanh nghiệp căn
cứ vào đối tượng tập hợp chi phí, điều kiện bảo quản vật tư, lao động, trình độ quản lý và
kế toán của đơn vị để áp dụng phương pháp kế toán thích hợp. Xác định đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết của kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác
định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đúng đắn, phù hợp với đặc điểm tình hình sản xuất
của doanh nghiệp thì mới tổ chức đúng công tác tập hợp chi phí sản xuất từ khâu kế toán
ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản đến khâu ghi sổ theo đúng đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất xác định.
4- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất:
Phương pháp kế toán chi phí sản xuất là một phương pháp hoặc một hệ thống các
phương pháp được sử dụng và phân loại các chi phí sản xuất theo yếu tố và các khoản mục
trong phạm vi giới hạn của đôí tượng kế toán chi phí. Trong doanh nghiệp kinh doanh xây
lắp thường sử dụng một số phương pháp kế toán chi phí sản xuất sau:
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục công
trình: hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến công trình, hạng mục công trình
chi phí nào thì tập hợp cho công trình, hạng mục công trình đó. Các khoảnh chi phí đó
được phân chia theo các khoản mục giá thành, giá thành thực tế của đối tượng đó, chính là
tổng số chi phí tập hợp được cho từng đối tượng kể từ khi khởi công cho đến khi hoàn
thành.
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng: chi phí sản xuất
hàng tháng sẽ được tập hợp và phân loại theo đơn đặt hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng
hoàn thành, tổng chi phí sản xuất tập hợp theo đơn đặt hàng từ lúc khởi công đến khi hoàn
thành là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.
- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất theo đơn vị thi công: các chi phí
sản xuất được tập hợp theo từng đơn vị thi công. Trong từng đơn vị: các chi phí lại được
tập hợp theo từng đối tượng chi phí như: hạng mục công trình, nhóm hạng mục công
trình... Cuối tháng tổng hợp chi phí phát sinh ở từng đơn vị thi công, so sánh với dự toán

cấp phát để xác định kế toán nội bộ. Khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành phải
tính giá riêng cho công trình, hạng mục công trình đó băng phương pháp tính giá thành
thích hợp.
5- Trình tự kế toán chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây dựng cơ bản bao gồm nhiều loại chi phí có
tổ chức và nội dung khác nhau, phương pháp kế toán và tập hợp chi phí sản xuất vào giá
thành cũng khác nhau. Do đó, để có thể tính giá thành một cách chính xác, kịp thời, tập
hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý. Trình tự kế toán chi phí
sản xuất là bước công việc cần tiến hành nhằm tập hợp chi phí sản xuất để phục vụ cho
việc tính giá thành công trình được kịp thời. Trong ngành xây dựng cơ bản cá thể khái
quát việc tập hợp chi phí sản xuất theo các bước sau:
- Bước I: tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp đến từng công trình,
hạng mục công trình.
- Bước II: tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh có liên
quan trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình.
- Bước III: tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất cho các công trình liên quan.
- Bước IV: xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
6- Phương pháp kế toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp kinh doanh
xây dựng cơ bản
Theo quyết định số 1141 TC/CĐKT ngày 1-11-1995 của Bộ tài chính, doanh nghiệp
căn cứ váo điều kiện cụ thể của mình có thể lựa chọn một trong hai phương pháp kế toán
sau:
-Phương pháp kê khai thường xuyên: áp dụng ở những doanh nghiệp có qui mô sản
xuất lớn tiến hành nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau.
- Phương pháp kiểm kê định kỳ: sử dụng ở những doanh nghiệp có qui mô sản xuất
kinh doanh nhỏ, chỉ có một loại hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong các doanh nghiệp xây lắp hiện nay chỉ áp dụng phương pháp kế toán kê khai
thường xuyên.
a- Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỉ trọng lớn nhất trong chi phí sản xuất sản

phẩm xây lắp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị thực tế của nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, các cấu kiện, các bộ phận rời lẻ, vật liệu luân chuyển cần cho vịc thực
hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong sản xuất xây
lắp không bao giờ gồm giá trị vật liệu xuất dùng cho quản lí hành chính, vật liệu cho chi
phí tạm ( chi phí lán, trại...) và giá trị máy móc thiết bị nhận để lắp đặt. Trong xây dựng cơ
bản cũng như các ngành khác, vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công trình nào
được tập hợp trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó trên cơ sở các chứng từ gốc
theo giá thưc tế của vật liệu và số lượng vật liệu thực tế đã sử dụng. Nếu trong điều kiện
sản xuất thực tế không cho phép tính trực tiếp chi phí nguyên vật liệu cho từng công trình,
hạng mục công trình thì áp dụng phương pháp phân bổ theo tiêu thức hợp lý (như tỉ lệ với
định mức tiêu hao vật liệu ).
Việc phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được thực hiện theo công thức sau:
Trong đó: C: tổng chi phí nguyên vật liệu cần phân bổ.
T: tổng tiêu thức phân bổ.
Ci: chi phí nguyên vật liệu phân bổ cho công trình i.
Ti: tiêu thức phân bổ của công trình i.
Để theo dõi tài khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản
621- CFNVLTT. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí
( công trình, hạng mục công trình).
Kết cấu của tài khoản 621:
- Bên nợ: giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất thi công.
- Bên có: + Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vào tài khoản chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang.
+ Giá trị nguyên vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho.
Tài khoản 621 không có số dư cuối kỳ.
C
C
i
T
i

*=
T
 Phương pháp kế toán cụ thể:
- Khi xuất dùng nguyên vật liệu chính sử dụng trực tiếp cho công trình, hạng mục
công trình, kế toán căn cứ vào những chứng từ như ( phiếu xuất kho, hoá đơn mua hàng)
để ghi:
Nợ tài khoản 621 (Chi phí đối tượng)
Có tài khoản 152 : giá thực tế vật liệu xuất dùng.
Có tài khoản 331,111,112: vật liệu mua ngoài.
Có tài khoản 154 : vật liệu tự sản xuất.
Có tài khoản 331,336,338: Vật liệu vay mượn.
Có tài khoản 441 : vật liệu nhận cấp phát, liên doanh.
-Trường hợp vật liệu sử dụng không hết, phế liệu thu hồi ( bán hoặc nhập lại kho),
kế toán ghi:
Nợ tài khoản 152:
Có tài khoản 621:
- Cuối kỳ kết chuyển giá trị nguyên vật liệu trực tiếp theo từng công trình, hạng mục
công trình:
Nợ tài khoản 154 ( chi tiết đối tượng )
Có tài khoản 621 ( chi tiết đối tượng )
b- Kế toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ tiền lương cơ bản, các khoản phụ cấp lương,
lương phụ có tổ chức ổn định thực tế trả công nhân trực tiếp xây lắp. Chi phí nhân công
này bao gồm tiền lương trả theo thời gian, trả theo sản phẩm, trả làm thêm giờ. Ch phí
nhân công trực tiếp này không bao gồm tiền lương của công nhân xây lắp, vận chuyển vật
liệu ngoài phạm vi thi công, tiền lương công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công.
Chi phí nhân công trực tiếp được tính vào giá thành công trình chủ yếu theo phương
pháp trực tiếp. Trường hợp chi phí nhân công trực tiếp liên quan đến nhiều đối tượng hay
nhiều công trình thì có thể phân bổ theo tiêu thức: định mức lương của mỗi công trình hoặc
hệ số tỷ lệ với khối lượng xây lắp hoàn thành. Ngoài ra, tiền lương nghỉ phép cho lao động

trực tiếp sản xuất được tính như sau:
Mức trích trước tiền
lương nghỉ phép
Tỷ lệ trích
Tỷ lệ
trích
Tiền lương thực tế
Phải trả
=
*
Tổng số tiền lương phép kế hoạch
=
trước
Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng Tài khoản 622 - Chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi
phí( công trình, hạng mục công trình)
Kết cấu của TK 622 như sau:
- Bên nợ: Tập hợp toàn bộ chi phí nhân công trực tiếp phát sinh trong kỳ
liên quan đến từng đối tượng.
- Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp liên quan đến từng đối
tượng.
Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư.
 Phương pháp kế toán cụ thể:
- Hàng tháng kế toán căn cứ vào bảng thanh toán lương, bảng phân bổ
lương.... tính ra số tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất thi công.
Nợ TK 622 (chi tiết đối tượng)
Có TK 334, 111 (số tiền lương phải trả)
- Trích trước tiền lương phép kế hoạch của công nhân trực tiếp sản xuất
xây lắp
Nợ TK 622 (chi tiết đối tượng)

Có TK 335 (Tiền lương trích trước)
- Cuối kỳ kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá
thành theo từng đối tượng tập hợp chi phí
Nợ TK 154 (chi tiết đối tượng )
Có TK 622 (chi tiết đối tượng)
c- Kế toán chi phí sử dụng máy thi công:
Đây là khoản chi phí đặc trưng cho hoạt động kinh doanh xây dựng cơ bản. Trong
quá trình sản xuất sản phẩm (thi công), máy thi công trợ lực rất nhiều cho người lao động
và chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm xây lắp. Máy thi công bao gồm máy
móc thiết bị được sử dụng trong quá trình thi công công trình. Chi phí máy thi công gồm:
chi phí vật tư, lao động, nhiên liệu, động lực, chi phí sửa chữa bảo dưỡng máy và chi phí
thuê máy. Sử dụng máy thi công ở doanh nghiệp xây dựng cơ bản để xây lắp công trình,
kế toán sử dụng TK 623 - chi phí sử dụng máy thi công để theo dõi. Không hạch toán vào
TK 623 khoản trích về BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên lương phải trả công nhân sử dụng
máy thi công. Kết cấu của TK 623 như sau:
Tổng số tiền lương chính kế hoạch

×