Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự,kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tại tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.76 KB, 81 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của Trường
Đại học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tơi trong suốt thời
gian tơi học chương trình Cao học luật tại cơ sở đào tạo.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn đến TS. Đặng Vũ Huân, Tổng biên tập
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật- Người thầy đã tận tình hướng dẫn để tơi hồn
thành tốt bản luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Luật, phòng
Đào tạo Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tơi trong suốt q
trình học tập. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một
cách hoàn chỉnh nhất, nhưng khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định
mà tự bản thân không thể tự nhận thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp
ý của Q thầy, cơ giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Đức Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI
SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ, KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI ........................................................................................................... 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,


kinh doanh, thương mại .............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ................................................................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ............................................................................................... 11
1.1.3. Phân loại kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ............................................................................................... 15
1.1.4. Vai trò của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ............................................................................................... 17
1.2. Nội dung pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại .................................................................................... 20
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản trong kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại................................................................. 20
1.2.2. Thẩm quyền kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại ............................................................................................... 21
1.2.3. Trình tự, thủ tục kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại.................................................................................... 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................... 27
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ, KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN ................ 28
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay................................. 28
2.1.1. Căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản ........................ 28


2.1.2. Các trường hợp thực hiện kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án ..... 31
2.1.3. Thủ tục kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án................................. 36
2.1.4. Xử lý tài sản kê biên để bảo đảm thi hành án .................................... 39
2.2. Thực thi pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh

doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Điện Biên ........................................... 40
2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Điện Biên ....................... 40
2.2.2. Thực trạng thực thi pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại ở tỉnh Điện Biên ....................................... 43
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Điện Biên ........................ 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.......................................................................... 56
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐIỆN BIÊN ................................ 57
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự, kinh doanh, thương mại .................................................... 57
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại phải trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về
Chiến lược xây dựng pháp luật và Chiển lược cải cách tư pháp .................. 57
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại phải trên cơ sở hoàn thiện pháp luật về thi hành án
dân sự ...................................................................................................... 58
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kê
biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại phải
đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.......................................... 59
3.1.4. Cần phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức trong hệ
thống chính trị trong giáo dục thuyết phục, hồ giải trong hoạt động kê biên
tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại ................. 60
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành
án dân sự, kinh doanh, thương mại ............................................................ 60


3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản
pháp luật có liên quan............................................................................... 61

3.2.2. Hoàn thiện các quy phạm pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự, kinh doanh, thương mại trong Luật Thi hành án dân sự năm
2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành ................................................... 61
3.2.3. Tăng cường bồi dưỡng, trao đổi nghiệp vụ trong công tác áp dụng và
thực thi pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án ...................... 64
3.2.4. Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án và nâng cao năng lực
hoạt động của đội ngũ chấp hành viên, cán bộ giúp việc ở các cơ quan thi
hành án dân sự ......................................................................................... 65
3.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với
các cơ quan hữu quan trong việc kê biên tài sản ........................................ 67
3.2.6. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành
án dân sự các cấp ..................................................................................... 68
3.2.7. Tăng cường công tác động viên thuyết phục đối với người phải thi hành
án trong quá trình kê biên ......................................................................... 70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.......................................................................... 72
KẾT LUẬN.............................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kê biên tài sản là một trong những biện pháp cưỡng chế của pháp luật
thi hành án dân sự và là biện pháp nghiêm khắc nhất mà chấp hành viên áp
dụng trong quá trình giải quyết thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại.
Kê biên tài sản thể hiện quyền lực nhà nước một cách rõ ràng nhất khi người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành các khoản nghĩa vụ của mình trong
bản án, quyết định của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật. Theo đó, Nhà nước đã
trao cho chấp hành viên quyền kê biên, định đoạt tài sản của người phải thi
hành án để đảm bảo các nghĩa vụ thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại.
Do nghĩa vụ thi hành án được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa

án phần lớn là nghĩa vụ bằng tiền, cho nên, biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản của người phải thi hành án được chấp hành viên áp dụng phổ biến trong
quá trình tổ chức thi hành án. Trên thực tế, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế
này sẽ làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi
hành án, người có phần tài sản sở hữu chung với người phải thi hành án,
người đang nhận bảo đảm bằng tài sản của người phải thi hành án hoặc tài sản
bảo lãnh của người thứ ba… nên việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên
tài sản của người phải thi hành án được quy định cụ thể, chặt chẽ trong Luật
Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được Quốc hội sửa đổi, bổ sung
năm 2014 đã có nhiều quy định cụ thể hơn về kê biên tài sản, nhưng trong
thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại cho thấy, vẫn
cịn nhiều bất cập, kẽ hở, quy định khơng rõ ràng hoặc chồng chéo, mâu thuẫn
với các quy định pháp luật về đất đai, pháp luật về nhà ở... dẫn đến quá trình
áp dụng gặp nhiều vướng mắc, dễ dẫn đến sai phạm. Mặc dù đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về pháp luật thi hành án dân sự đối với vấn đề này, song vẫn
chưa phản ánh toàn diện, đầy đủ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng biện pháp kê biên tài sản để thi hành án. Cho nên, việc tiếp tục nghiên
cứu những vấn đề lý luận về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hiện nay vẫn mang tính thời sự và cấp
thiết.
1


Về mặt thực tiễn, việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự, kinh doanh, thương mại ở tỉnh Điện Biên những năm qua đã
đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong giải quyết những vụ án khó, kéo
dài, án tồn đọng lâu năm, đảm bảo tình hình an ninh, chính trị xã hội được giữ
vững, các quan hệ dân sự được pháp luật bảo vệ, thể hiện tính răn đe và
nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, vấn đề

áp dụng kê biên tài sản để bảo đảm thi hành bản án dân sự, kinh doanh,
thương mại từ thực tiễn tỉnh Điện Biên vẫn còn những vướng mắc, bất cập,
như nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng chậm tổ chức thi
hành; việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên còn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc..., các nguyên nhân chủ quan và khách quan liên quan đến vấn đề
này có thể xuất phát từ những bất cập của pháp luật về kê biên tài sản hoặc do
công tác phối hợp kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại chưa được các cấp chính quyền địa phương chú trọng phối hợp;
điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành thi hành
án dân sự chưa được quan tâm tốt...
Từ thực trạng lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản để
bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại nêu trên, cần phải có
những phân tích, đánh giá nhằm khắc phục những bất cập và nâng cao hiệu
quả công tác kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh thương mại
theo pháp luật thi hành án dân sự. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Kê biên tài
sản để đảm bảo thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại từ thực tiễn
tại tỉnh Điện Biên” để làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên qua đến biện pháp kê biên tài
sản để thi hành án dân sự được công bố, trong số đó có các cơng trình nghiên
cứu đáng chú ý, bao gồm:
- Luận văn Tiến sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân
sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy - Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2010;

2


- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản
thi hành án dân sự ở Việt Nam”, của tác giả Trần Thị Lan Hương - Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự” của tác giả Nguyễn Long - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự"
, của tác giả Phan Huy Hiếu – Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Kê biên tài sản để thi hành bản án kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Gia Lai”, của tác giả Nguyễn Văn
Phượng - Học viện Khoa học Xã hội, năm 2014;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Kê biên tài sản là quyền sử dụng đất
trong thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng”
của tác giả Nguyễn Bá Nam - Học viện Khoa học Xã hội, năm 2015;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp
luật thi hành án dân sự từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh” của
tác giả Lê Văn Hoàn - Học viện Khoa học Xã hội, năm 2019;
Ngoài các luận án, luận văn được dẫn ra ở trên, cịn có rất nhiều bài viết
trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như: Bài viết “Vấn đề đổi mới thủ tục
thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay”, của tác giả Nguyễn Thanh Thủy đăng
trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về Thi hành án dân sự - năm
2006; Bài viết “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án
dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Khanh đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 05/2010; Bài viết “Áp dụng pháp luật thi hành án về kê biên tài sản
chung” của tác giả Đinh Thị Thanh Mai đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 10/2011, tr. 55 - 56); Bài viết “Một số vướng mắc trong áp dụng pháp
luật về kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác giả Vũ Hịa
đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2012 tr. 61 - 64; Bài viết “Kê
biên, xử lý tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án – Một số
vấn đề từ thực tiễn” của tác giả Hồ Quân Chính đăng trên
www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ke-bien-xu-ly-tai-san-thuoc-so-huuchung-cua-nguoi-phai-thi-hanh-an-mot-so-van-de-tu-thuc-tien, tháng 8 năm
2018; Bài viết “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án”


3


của tác giả Lê Anh Tuấn, trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề
Thi hành án dân sự, năm 2010; Bài viết “Về kê biên, xử lý tài sản” của TS.
Nguyễn Thanh Thủy và ThS Lê Thị Kim Dung trong cuốn “Xử lý tình huống
trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự”,
Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2010; Bài viết “Kê biên xử lý tài sản của người
phải thi hành án đã chuyển quyền sở hữu kể từ thời điểm có bản án, quyết
định sơ thẩm” của Nguyễn Ngọc Thủy Phúc trên />Các cơng trình nghiên cứu khoa học trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận về thi hành án dân sự nói chung, kê biên thi hành án nói riêng nhưng
chưa có đề tài nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng biện
pháp kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại
từ thực tiễn tỉnh Điện Biên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về kê
biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại và đặc
biệt là qua khảo cứu thực tiễn công tác thi hành án tại tỉnh Điện Biên, từ đó,
đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật trong công tác kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn được xác định là:
- Làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự kinh doanh, thương mại, như khái niệm, đặc điểm và trình tự,
thủ tục áp dụng pháp luật để kê biên tài sản bảo đảm thi hành án kinh doanh,
thương mại trong thi hành án dân sự.
- Phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên
tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại trên địa bàn

tỉnh Điện Biên, từ đó, đi sâu phân tích những kết quả đã đạt được và những
hạn chế, tồn tại, làm rõ những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Xây dựng quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
4


và nâng cao hiệu quả việc áp dụng kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân
sự, kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp luật về kê biên tài sản để bảo
đảm thi hành án kinh doanh, thương mại; hệ thống các quy định pháp luật liên
quan đến kê biên tài sản để thi hành án và thực trạng áp dụng pháp luật về vấn
đề này tại tỉnh Điện Biên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại theo pháp luật về thi hành án dân sự, (cụ thể là Luật Thi hành án
dân sự năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành).
Về không gian và thời gian, Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc áp
dụng biện pháp kê biên tài sản để thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại
từ thực tiễn tại tỉnh Điện Biên trong 3 năm (từ năm 2017 đến năm 2019)
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử
dụng một số nguyên lý, quy luật và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật
biện chứng để phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn và đề xuất các kiến
nghị phù hợp với tình hình và yêu cầu mới.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương

pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp để tổng hợp các tri thức khoa học và
luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, trong chừng mực nhất định, luận văn đã hệ thống hóa
các vấn đề lý luận gắn với thực tiễn vấn đề kê biên tài sản bảo đảm thi hành
án dân sự, kinh doanh thương mại từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Điện Biên,
cung cấp một góc nhìn mới và để tạo cơ sở sau này có thể phát triển lên các
đề tài ở mức cao hơn. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ
5


thêm một số vấn đề lý luận pháp luật về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại.
Về mặt thực tiễn, Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan
thi hành án dân sự trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác kê biên tài sản bảo
đảm thi hành án kinh doanh thương mại. Đối với các cơ quan có liên quan đến
thi hành án dân sự, luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong việc thực hiện
trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật, trong việc phối hợp trong
hoạt động kê biên tài sản bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh thương mại.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu được chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về kê biên tài sản để bảo
đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về kê biên tài
sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh
Điện Biên.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê
biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh
Điện Biên.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN
TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ,
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Một số vấn đề lý luận về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại
1.1.1.1. Khái niệm về kê biên tài sản
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thơng tin, thì “kê”
được hiểu là viết lần lượt vào từng tên, từng thứ một [39; tr. 224], còn “biên”
được hiểu là ghi chép, viết vào sổ, biên tên vào sổ [39; tr. 38]. Theo Từ điển
tiếng Việt của Nhà xuất bản Thời đại năm 2014, thì “kê” được hiểu là để đặt
vào chỗ nào đó [40; tr. 235] cịn “biên” được hiểu là chép, biên ghi vào sổ
[40; tr. 52]. Như vậy có thể hiểu, kê biên là tính toán và ghi chép lại theo một
thứ tự nhất định.
Theo Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản bao gồm: “Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên, theo Điều
105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khái niệm về tài sản được mở rộng hơn, bao
gồm: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và
tài sản hình thành trong tương lai”.
Ở một góc độ khác thì kê biên tài sản được hiểu là sự hạn chế hoặc cấm
chủ sở hữu, sử dụng không được thực hiện các hành vi như tẩu tán, phá huỷ
hay các hành vi khác làm thay đổi hiện trạng đối với tài sản đó để đảm bảo
cho việc xét xử và thi hành án.

1.1.1.2. Khái niệm về các loại án dân sự, kinh doanh, thương mại
Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm
2014), những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được thi hành theo
Luật này bao gồm:

7


(i) Bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu
tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định
dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định
hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan
đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định);
(ii) Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi
hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị bao gồm: (a) Bản án,
quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ
cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
(b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Về khái niệm kinh doanh, thương mại, hiện nay chưa có sự thống nhất
về cách hiểu cũng như có sự tách bạch giữa kinh doanh và thương mại. Theo
quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các tranh chấp thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định theo hướng mở rộng hơn
bao gồm:
(i) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận.
(ii) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá

nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
(iii) Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên cơng ty nhưng có
giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với cơng ty, thành viên cơng ty.
(iv) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp
giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của cơng ty, chuyển
đổi hình thức tổ chức của công ty.

8


(v) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, ta có thể hiểu án kinh doanh, thương mại là văn bản pháp lý
được Tồ án có thẩm quyền, theo một trình tự tố tụng do luật định có nội
dung tun bố về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp của hành vi hoặc quan
hệ pháp luật phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại mà ít nhất một
bên chủ thể trong tranh chấp có đăng ký kinh doanh và có mục đích lợi nhuận.
1.1.1.3. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại
Kê biên tài sản đang tranh chấp theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 là một biện pháp khẩn cấp tạm thời, do Toà án quyết định theo
yêu cầu của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong vụ án dân
sự, nhằm mục đích để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo
vệ chứng cứ, bảo tồn tình trạng hiện có và tránh gây thiệt hại khơng thể khắc
phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. Từ khái niệm này cho thấy, kê biên
tài sản đang tranh chấp trong tố tụng dân sự là biện pháp mang tính chất khẩn

cấp và tạm thời. Nó được Tồ án ra quyết định ngay khi nhận đơn và xét thấy
có đủ điều kiện, đồng thời quyết định này có hiệu lực ngay khi ban hành
(được tổ chức thi hành ngay), tính chất tạm thời được thể hiện ở chỗ nó không
phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ án dân sự cũng như đối với tài
sản bị kê biên và có thể bị thay đổi trong q trình giải quyết vụ án, tài sản bị
kê biên không bị xử lý ngay (bán hoặc giao cấn trừ vào nghĩa vụ thi hành án)
mà phải chờ đến khi bản án, quyết định của Tồ án có hiệu lực, cơ quan thi
hành án dân sự thụ lý mới tiếp tục tổ chức thi hành [2, tr. 20].
Trong giai đoạn thi hành án dân sự, việc kê biên tài sản của người phải
thi hành để đảm bảo thi hành án là biện pháp cưỡng chế thi hành án do chấp
hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ trả
tiền theo bản án, quyết định có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện
thi hành. Kê biên tài sản của người phải thi hành án có những đặc điểm chung
của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là thể hiện quyền năng đặc
biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước,
được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không
9


tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo
bản án, quyết định của Tòa án. Đối tượng của kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự là tài sản. Người bị áp dụng thi hành án ngoài việc phải thực
hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa án tun họ cịn phải chịu
mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự.
Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người phải thi hành án chỉ
được áp dụng khi có đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của Tòa
án, người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án;
người phải thi hành án có tài sản để thi hành nghĩa vụ trả tiền cho người được
thi hành án; đã hết thời gian tự nguyện do chấp hành viên ấn định, nhưng
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian

tự nguyện nhưng cần ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản... Ngồi ra, biện
pháp kê biên tài sản cịn phải tn thủ những nguyên tắc riêng như: Mọi tài
sản của người phải thi hành án đều có thể bị kê biên để thi hành án trừ những
tài sản mà pháp luật quy định không được kê biên; người phải thi hành án có
quyền thỏa thuận với người được thi hành án về tài sản được kê biên để đảm
bảo thi hành án; trong trường hợp khơng thỏa thuận được thì người phải thi
hành án có quyền đề nghị thứ tự kê biên tài sản và chấp hành viên phải chấp
hành để nghị đó nếu đề nghị đó khơng cản trở việc thi hành án. Nếu người
phải thi hành án khơng có đề nghị kê biên tài sản nào trước thì tài sản thuộc
quyền sở hữu riêng của người phải thi hành án được kê biên trước; nếu người
phải thi hành án khơng có hoặc khơng đủ tài sản riêng để thi hành án thì mới
kê biên đến tài sản chung của người phải thi hành án với người khác. Trong
số những tài sản thuộc diện kê biên, thì kê biên bất động sản trước, sau khi kê
biên hết các động sản mà vẫn khơng đủ để thi hành án thì kê biên các động
sản. Chấp hành viên chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án tương
ứng với nghĩa vụ thi hành án và các chi phí liên quan. Nếu người phải thi
hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thực hiện
mà tài sản đó khơng thể phân chia được hoặc nếu phân chia sẽ làm giảm đáng
kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản đó. Nếu
tài sản của người phải thi hành án đã được cầm cố, thế chấp cho người khác
nhưng tài sản đó có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm bằng việc cầm cố,
thế chấp hoặc người phải thi hành án khơng cịn tài sản nào khác thì chấp

10


hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản này để thực hiện thi hành án. Đây là
biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán
tài sản thông qua một giao dịch dân sự khác.
Với những phân tích ở trên, có thể hiểu: “Kê biên tài sản để đảm bảo

thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại là một biện pháp cưỡng chế thi
hành án do chấp hành viên áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (người
phải thi hành án) phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa
án về dân sự, kinh doanh, thương mại đã có hiệu lực pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại
Thứ nhất, hoạt động kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại có tính chất cưỡng chế
Cưỡng chế là một tích chất cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế
làm cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo V.I. Lênin, thì pháp
luật sẽ khơng cịn là gì nữa nếu khơng có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức
người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng
như khơng [5, tr. 63]. Các quy tắc đạo đức, phong tục được con người tuân
theo, chủ yếu nhờ vào sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và tác động của
xã hội; còn quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thi hành, nếu ai
khơng chấp hành thì Nhà nước sẽ cưỡng chế thi hành. Cưỡng chế nhà nước
được áp dụng vì lợi ích của Nhà nước, xã hội và cơng dân do các cơ quan nhà
nước và người có thẩm quyền nhân danh, đại diện cho quyền lực nhà nước áp
dụng. Như vậy, cưỡng chế nhà nước mang tính giai cấp và xã hội là một
thuộc tính vốn có của Nhà nước.
Cưỡng chế thi hành án là một dạng cưỡng chế nhà nước thông qua cơ
quan thi hành án dân sự áp dụng để khôi phục các quan hệ dân sự bị xâm
phạm buộc các cơ quan, tổ chức nhà nước, xã hội, tổ chức kinh tế thực hiện
các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp
luật, đảm bảo pháp chế, trật tự xã hội và xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật.
Thứ hai, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản là chấp hành viên
của cơ quan thi hành án dân sự

11



Trong hoạt động thi hành án dân sự, chủ thể được Nhà nước giao trách
nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Toà án là cơ quan thi hành
án dân sự mà người trực tiếp tổ chức thi hành án là chấp hành viên. Đây là
chủ thể chính có nhiệm vụ tổ chức thi hành án với sự hỗ trợ, giúp việc của các
cán bộ, công chức thi hành án dân sự khác như thư ký, thẩm tra viên, chuyên
viên. Khi thực hiện nhiệm vụ, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Tại Điều 20 Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên là phải: “… Kịp thời tổ chức thi
hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm
quyền; thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên; triệu
tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi
hành án. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án;
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh
địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên
quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án.
Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi
hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án; yêu
cầu cơ quan công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định
của pháp luật. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử
phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền
xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người vi phạm; quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi
tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu
phí thi hành án và các khoản phải nộp khác. Được sử dụng công cụ hỗ trợ

trong khi thi hành cơng vụ theo quy định của Chính phủ. Thực hiện nhiệm vụ
khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Khi thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật,
chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”. Bên cạnh đó, Điều 11

12


Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy
định trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan thi hành
án dân sự, chấp hành viên: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ
của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi
hành án dân sự trong việc thi hành án; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành
viên theo quy định của Luật này. Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật
đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên đều bị xử lý
theo quy định của pháp luật”.
Từ những căn cứ nêu trên có thể khẳng định, chấp hành viên của cơ
quan thi hành án dân sự là chủ thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản để thi
hành án với sự phối hợp của các cơ quan chuyên môn, tổ chức và cá nhân
khác.
Thứ ba, hoạt động kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại có tính độc lập tương đối
Tính độc lập của hoạt động kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh
doanh thương mại được hiểu là trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án;
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại theo đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình kê kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh doanh
thương mại các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân không được phép can

thiệp làm ảnh hưởng đến quá trình kê biên, làm cho quá trình kê biên khơng
đúng với bản án, quyết định, chậm tiến hành kê biên hoặc kê biên không đúng
quy định theo pháp luật. Chỉ người có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật mới có quyền dừng việc kê biên. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất
định, quá trình kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh doanh thương mại
ảnh hưởng đến trật tự, an ninh chính trị trên địa bàn của địa phương nên cần
có ý kiến của Ban chỉ đạo thi hành án. Nhưng sự phụ thuộc này cũng khơng
có nghĩa là các cơ quan có liên quan có quyền can thiệp, yêu cầu cơ quan thi
hành dân sự kê biên trái với pháp luật, mà chỉ có tính chất bổ trợ, tạo điều
kiện để việc kê biên có hiêu quả hơn, nhanh hơn đồng thời cũng phù hợp hơn
với tình hình an ninh, chính trị địa phương.

13


Thứ tư, tài sản kê biên để đảm bảo thi hành án dân sự, kinh doanh,
thương mại thường có giá trị lớn
Thi hành các vụ án liên quan đến hoạt động kinh doanh, thương mại là
một hình thức cụ thể của thi hành án dân sự, mang đầy đủ những đặc điểm
của thi hành án dân sự. Tuy nhiên, thi hành án kinh doanh thương mại cũng
có một số đặc điểm riêng để nhận định như chủ thể của thi hành án chủ yếu là
các doanh nghiệp, tranh chấp trong các vụ án kinh doanh, thương mại thường
được xác định là giữa các chủ thể kinh doanh với nhau vì mục đích lợi nhuận
(hiện nay thì chủ yếu là tranh chấp giữa một bên là ngân hàng, tổ chức tín
dụng với một bên là doanh nghiệp). Trong đó, mục đích lợi nhuận là yếu tố
quan trọng nhất để phân biệt vụ án dân sự với vụ án kinh doanh thương mại.
Ngoài ra, trong thi hành án kinh doanh thương mại tài sản đưa ra thi hành
thường có giá trị rất lớn.
Thứ năm, những tài sản không được kê biên
Những tài sản khơng được áp dụng kê biên trong q trình thi hành án

dân sự, kinh doanh, thương mại bao gồm: Tài sản bị cấm lưu thông theo quy
định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài
sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức.
Đối với tài sản sau đây của người phải thi hành án là cá nhân cũng
không được kê biên, bao gồm: (a) Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của người phải thi hành án và gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu
hoạch mới; (b) Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi
hành án và gia đình; (c) Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng
để chăm sóc người ốm; (d) Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở
địa phương; (đ) Công cụ lao động cần thiết, có giá trị khơng lớn được dùng
làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án
và gia đình; (e) Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia
đình.
Đối với tài sản sau đây của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp
tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ: (a) Số thuốc phục vụ việc phòng,
chữa bệnh cho người lao động; lương thực, thực phẩm, dụng cụ và tài sản
khác phục vụ bữa ăn cho người lao động; (b) Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế

14


và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là
tài sản để kinh doanh; (c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an
tồn lao động, phịng, chống cháy nổ, phịng, chống ô nhiễm môi trường.
1.1.3. Phân loại kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự, kinh
doanh, thương mại
Có nhiều tiêu chí để có thể phân loại kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án kinh doanh thương mại tuỳ thuộc vào từng tiêu chí để phân loại như:
Căn cứ vào chủ thể phải thi hành án chúng ta có thể phân chia kê biên tài sản
để đảm bảo thi hành án kinh doanh thương mại thuộc sở hữu chung và kê biên

tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh thương mại không thuộc sở hữu
chung. Căn cứ vào tính chất cưỡng chế trong kê biên để phân loại thành “kê
biên tài sản có huy động lực lượng” áp dụng đối với những vụ việc phức tạp,
có khả năng ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự tại địa phương, đương sự
chống đối hoặc “kê biên tài sản không huy động lực lượng” áp dụng đối với
những vụ việc ít phức tạp, người phải thi hành án không chống đối và đề nghị
kê biên tài sản cụ thể, việc kê biên không ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật
tự tại địa phương… Tuy nhiên, những cách phân chia trên theo tác giả chưa
thật sự làm rõ sự khác nhau trình tự thủ tục và mục đích biên tài sản để bảo
đảm thi hành án kinh doanh thương mại. Căn cứ vào loại tài sản kê biên thì
phân chia thành kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp và kê biên tài sản
không cầm cố, thế chấp vì tính dân sự, kinh doanh, thương mại bắt buộc giữa
các chủ thể phải có những ràng buộc nhất định như tài sản cầm cố, thế chấp
để đảm bảo cho những khoản nghĩa vụ của mình. Đây là cách phân chia tương
đối rõ ràng hơn theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2014):
Thứ nhất, kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp
Về cơ sở pháp lý để chấp hành viên áp dụng biện pháp kê biên tài sản
đang cầm cố, thế chấp để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại được
quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2014) về kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp như sau:
(i) Trường hợp người phải thi hành án khơng cịn tài sản nào khác hoặc
có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, chấp hành viên có quyền kê biên,

15


xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của
tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.
(ii) Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, chấp hành viên phải

thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê
biên, người nhận cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy
định tại khoản 3 Điều 47 của Luật Thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2014).
Điều luật này thiết kế cho những khoản nghĩa vụ chưa có bản án, quyết
định của Tòa án nhưng cơ quan thi hành án dân sự xác minh được tài sản của
người phải thi hành án nhưng tài sản này đã đảm bảo cho một nghĩa vụ khác.
Những tài sản đã cầm cố, thế chấp để bảo đảm thi hành án kinh doanh thương
mại, thì thơng thường khơng cần phải tiến hành xác minh thi hành án nữa, mà
tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật, nếu đương sự không tự nguyện
thi hành án dân sự theo Điều 45 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2014) về thời hạn tự nguyện thi hành án, cụ thể: Thời hạn tự
nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được
quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án;
trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại
tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì chấp hành viên
áp dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV của Luật Thi hành án dân sự.
Nếu quá thời hạn trên, thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án theo Điều 46: “Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều
45 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014),
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành
án thì bị cưỡng chế”. Tuy nhiên, cơ quan thi hành án “không tổ chức cưỡng
chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các
ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt
khác do Chính phủ quy định”.
Thứ hai, kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ
ba giữ
Trường hợp xác định người thứ ba đang giữ tài sản của người phải thi
hành án, kể cả trường hợp tài sản được xác định bằng bản án, quyết định khác
thì chấp hành viên ra quyết định kê biên tài sản đó để thi hành án; trường hợp

16


người thứ ba khơng tự nguyện giao tài sản thì Cchấp hành viên cưỡng chế
buộc họ phải giao tài sản để thi hành án. Trường hợp tài sản kê biên đang cho
thuê thì người thuê được tiếp tục thuê theo hợp đồng đã giao kết.
Đối với trường hợp kê biên vốn góp, chấp hành viên yêu cầu cá nhân,
cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án có vốn góp cung cấp thơng tin về
phần vốn góp của người phải thi hành án để kê biên phần vốn góp đó. Trong
trường hợp cần thiết, chấp hành viên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định
phần vốn góp của người phải thi hành án; trưng cầu tổ chức, cá nhân có
chun mơn xác định phần giá trị vốn góp của người phải thi hành án để
cưỡng chế thi hành án. Đương sự có quyền u cầu Tịa án xác định phần vốn
góp của người phải thi hành án.
Thứ ba, kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói
Khi kê biên đồ vật đang bị khóa hoặc đóng gói, thì chấp hành viên yêu
cầu người phải thi hành án, người đang sử dụng, quản lý đồ vật mở khóa, mở
gói; nếu họ khơng mở hoặc cố tình vắng mặt thì chấp hành viên tự mình hoặc
có thể th cá nhân, tổ chức khác mở khóa, phá khóa hoặc mở gói, trong
trường hợp này phải có người làm chứng. Người phải thi hành án phải chịu
thiệt hại do việc mở khóa, phá khóa, mở gói.
Trường hợp cần thiết, sau khi mở khóa, phá khóa, mở gói, chấp hành
viên niêm phong đồ vật và giao bảo quản theo quy định tại Điều 58 của Luật
Thi hành án dân sự hiện hành. Việc mở khóa, phá khóa, mở gói hoặc niêm
phong phải lập biên bản, có chữ ký của những người tham gia và người làm
chứng.
1.1.4. Vai trò của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại
Kê biên tài sản là một trong sáu biện pháp cưỡng chế được quy định tại
Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014)

là một trong bốn biện pháp của cơ quan thi hành án dân sự. Nên vai trò của kê
biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại khơng tách rời ra
khỏi vai trị của cơ quan thi hành án dân sự trong hệ thống tư pháp, vai trò của
cơ quan thi hành dân sự được thể hiện, phản ánh ở những khía cạnh sau:

17


Một là, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và khôi phục lại
những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ
Kê biên tài sản để bảo đảm thi hành bản án kinh doanh thương mại
được áp dụng có mục đích đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu
quả, thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, thể hiện sự tôn
nghiêm, tôn trọng đối với phán quyết nhân danh Nhà nước của cơ quan Tồ
án. Thơng qua hoạt động kê biên tài sản để thi hành án làm cho các phán
quyết của Tồ án được hiện thực hố, các mối quan hệ xã hội bị xâm hại được
khôi phục, trật tự pháp luật được bảo đảm; quyền, lợi ích hợp pháp được công
nhận và bảo vệ trên thực tế thông qua sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước; tác
động đến ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án nói riêng và
của tồn xã hội nói chung. Cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và kê biên
tài sản nói riêng góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị đất nước, đảm
bảo tính thượng tơn của pháp luật, tạo tiền đề phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động thi hành án thi hành án dân sự nói riêng có một vai trị quan
trọng trong hoạt động Nhà nước. Thông qua cơ quan thi hành án dân sự,
những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện quyền lực, ý chí
của Nhà nước được trở hành hiện thực, đảm báo tính nghiêm minh của pháp
luật, quá trình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc khi bản án, quyết định của
Tòa án được thi hành kịp thời và đầy đủ. Nếu công tác thi hành án dân sự
khơng được quan tâm và khơng có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác
động đến toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, trật tự kỷ

cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước không được coi trọng, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân bị xâm hại. Thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ
mang lại niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp
phần khơi phục lại những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Ngược lại, một
bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành
trên thực tế cho thấy sự thiếu nghiêm minh của pháp luật, làm mất niềm tin
của nhân dân với hệ thống pháp luật.
Hai là, nâng cao nhận thức pháp luật của người dân
Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
đặc thù của thi hành án dân sự là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động,
phát huy trách nhiệm của chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ đạo
18


của chính quyền địa phương, sự phối hợp các cơ quan tổ chức có liên quan và
sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách
nhiệm của cộng đồng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án không
chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan thi hành án, chấp hành viên mà
còn là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đồn thể xã
hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua công tác thi hành án, ý
thức pháp luật được tuyên truyên và nâng cao nhận thức của người dân với
pháp luật.
Ba là, thước đo tính hiệu quả của q trình xét xử của Tòa án
Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt
động tư pháp khác. Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp
và tốn kém, song những hoạt động đó có thể chỉ là con số khơng nếu như Bản
án, Quyết định của Tịa án khơng được đưa ra thi hành trên thực tế. Với ý
nghĩa đó, thi hành án dân sự là một hoạt động không thể thiếu được trong quá
trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua thi hành án,
kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của

Tòa án được đảm bảo. Mặt khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm
nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh, trung thực chất
lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Vì nếu như bản án tuyên đúng với
bản chất, hiện thực khách quan, có lý, có tình thì trong q trình thi hành án
sẽ thuận lợi hơn những trường hợp bản án, quyết định của Tịa án khơng đúng
sự thật, khơng phù hợp với thực tế khách quan. Thực tế cho thấy, có nhiều vụ
việc đương sự không tự nguyện thi hành hoặc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đi
nhiều nơi khơng phải vì cơ quan thi hành án làm sai mà vì khơng đồng tình
với quyết định của Tịa án nên cố tình trì hỗn việc thi hành án.
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động thực thi phán quyết của Tòa
án liên quan đến các vấn đề về tài sản và nhân thân, trong các bản án hình sự,
dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hơn nhân và gia đình...có thể nói hoạt
động thi hành án dân sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng. Để bản
án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế, đi vào đời sống dân sự
một cách hiệu quả nhất thì cơng tác thi hành án dân sự đóng vai trị rất quan
trọng.

19


1.2. Nội dung pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
dân sự, kinh doanh, thương mại
Q trình tổ chức thi hành án dân sự nói chung nói chung và kê biên tài
sản để thi hành án nói riêng, chấp hành viên phải căn cứ các quy định pháp
luật về thi hành án dân sự và các quy định pháp luật khác như: Luật Đất đai,
Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật các Tổ chức tín
dụng… và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này để giải quyết việc thi
hành đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp
pháp của cơng dân.
1.2.1. Các ngun tắc cơ bản trong kê biên tài sản để bảo đảm thi

hành án dân sự, kinh doanh, thương mại
Để áp dụng biện pháp kê biên tài sản, chấp hành viên cần tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản sau:
- Chỉ áp dụng biện pháp kê biên tài sản khi đã hết thời hạn tự nguyện
thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành án, trừ trường hợp cần
ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc
hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án.
- Tài sản bị kê biên phải thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng của người
phải thi hành án, trừ trường hợp tài sản chung gắn liền không thể phân chia
hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản. Người phải thi hành
án có quyền thỏa thuận với người được thi hành án về tài sản được kê biên để
đảm bảo thi hành án. Nếu hai bên không thỏa thuận được, người phải thi hành
án có quyền đề nghị chấp hành viên kê biên tài sản nào trước và chấp hành
viên phải chấp nhận đề nghị đó nếu xét thấy việc đề nghị đó khơng cản trở
việc thì hành án
- Chỉ kê biên tài sản tương ứng đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án và
thanh tốn các chi phí cần thiết.
- Chỉ kê biên những tài sản được chuyển quyền sở hữu, sử dụng theo
quy định pháp luật; không được kê biên những tài sản pháp luật quy định
không được kê biên.
- Đảm bảo quyền được đề nghị kê biên tài sản cụ thể của người phải thi
hành án (trường hợp có nhiều tài sản) nếu việc đề nghị đó không gây cản trở
20


cho việc thi hành án và giá trị tài sản đó đủ để thi hành án và thanh tốn các
chi phí liên quan.
- Áp dụng kê biên tài sản nếu người phải thi hành án có hành vi tẩu tán
tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án như chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển
nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác sau thời điểm bản án, quyết

định của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật và không sử dụng khoản tiền thu
được để thi hành án và khơng cịn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để
đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.
- Không tổ chức kê biên tài sản có huy động lực lượng trong thời gian
15 ngày trước và sau Tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối
tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án; các trường hợp đặc biệt
khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội,
phong tục, tập quán tại địa phương.
- Đảm bảo các quyền con người, quyền cơ bản của công dân của người
phải thi hành án và những người có quyền lợi liên quan về nhà ở, sinh hoạt,
thu nhập… như chỉ kê biên tài sản chung là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất khi các tài sản khác khơng đủ để thi hành án hoặc
khi có đề nghị của người phải thi hành án. Không thực hiện kê biên những tài
sản có ý nghĩa đảm bảo điều kiện sống tối thiểu cho người phải thi hành án
và người họ có nghĩa vụ ni dưỡng…
1.2.2. Thẩm quyền kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án dân sự,
kinh doanh, thương mại
Theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành,
thì thẩm quyền, trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về
dân sự; bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi; quyết định của Trọng tài
nước ngồi được Tịa án cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam; phán quyết,
quyết định của Trọng tài thương mại trong nước; quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc về hệ thống các cơ
quan thi hành án dân sự và thẩm quyền này được quy định cụ thể như sau:
1.2.2.1. Thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản án,
quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

21



×