THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO
PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU CHI NHÁNH HÀ NỘI
2.1. Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng
từ tại Ngân hàng Á Châu chi nhánh Hà Nội
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, trong những năm qua, ACB-Chi
nhánh Hà Nội đã không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng nghiệp vụ thanh toán,
đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán L/C để phục vụ tốt cho khách hàng của mình, đáp ứng
nhu cầu thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu qua ACB-Chi nhánh Hà Nội, từ đó chi
nhánh đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.
2.1.1. Tình hình thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng
từ:
Hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ cho hàng hóa nhập khẩu
tại ACB-Chi nhánh Hà Nội không những đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đem lại một
nguồn lợi nhuận cho Ngân hàng mà còn góp phần nâng cao uy tín của hệ thống ngân
hàng ACB nói chung, của chi nhánh Hà Nội nói riêng.
Thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ hiện nay đang
là hoạt động chủ yếu của bộ phận TTQT tại chi nhánh Hà Nội. Nguyên nhận là do:
- Thứ nhất, do đặc điểm kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay đã có những bước
phát triển mới, giao lưu thương mại quốc tế đã được mở rộng, tỷ trọng xuất
nhập khẩu tăng lên đáng kể.
- Thứ hai, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thah toán quốc tế
phổ biến và an toàn nhất trong điều kiện hiện nay.
- Thứ ba, hầu hết khách hàng có giao dịch thanh toán với ACB-Chi nhánh Hà
Nội chỉ chuyên doanh hàng nhập khẩu.
Vì vậy, hiện nay, thanh toán hàng nhập khẩu là một trong những nghiệp vụ rất
được ACB-Chi nhánh Hà Nội quan tâm và dần hoàn thiện để mở rộng hoạt động. Mặc
dù qui mô trung bình nhưng chi nhánh Hà Nội thực sự đã khẳng định được vị trí và chỗ
đứng vững chắc của mình trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này. Điều này được thể
hiện cụ thể qua giá trị L/C được mở qua các năm 2006, 2007, 2008, 2009.
Bảng 2.1: Giá trị L/C nhập khẩu qua các năm từ 2006 đến 2009
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Doanh
số(USD)
Số
lượng
Doanh
số(USD)
Số
lượng
Doanh
số(USD)
Số
lượng
Doanh
số(USD)
Số lượng
hồ sơ
hồ sơ hồ sơ hồ sơ
51.332.066 134 35.116.000 187 61.887.465 241 87.461.752 296
(Nguồn:Báo cáo tình hình hoạt động TTQT của ACB-Chi nhánh Hà Nội hằng năm)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, doanh số và số lượng L/C nhập khẩu tăng dần
trong những năm gần đây.
Năm 2006 là năm mà hoạt động TTQT của chi nhánh có những kết quả đáng
khích lệ, số lượng L/C được mở là 134 bộ với tổng giá trị là 35.116.000 USD, gia tăng
đột biến so với năm 2005 là 120 bộ L/C được mở với tổng giá trị là 11.569.744 USD.
Sang năm 2007, số lượng L/C được mở vẫn tiếp tục tăng, đạt 187 bộ, tăng 53 bộ
so với năm 2006; tuy nhiên doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu bằng phương thức
tín dụng chứng từ lại có một sự giảm sút lớn. Doanh số chỉ đạt 35.116.000 USD, giảm
16.216.066 USD, tương ứng với giảm 46,2% so với năm 2006. Phần lớn kết quả của
những biến động này xuất phát từ sự thay đối bất thường trong doanh số giao dịch của
khách hàng. Sở dĩ có sự giảm sút này là do trong năm 2007, một khách hàng lớn của chi
nhánh bị giảm doanh số trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Điều này dẫn
đến sự sút giảm trong doanh số về L/C nhập khẩu của ACB-Chi nhánh Hà Nội.
Năm 2008, nhờ sự cố gắng của các thanh toán viên cùng sự quan tâm chỉ đạo và
hướng dẫn của ban lãnh đạo ACB-Chi nhánh Hà Nội nên doanh số thanh toán hàng
nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ gia tăng trở lại, đạt 61.887.465 USD,
tăng 76,2% so với năm 2007. Số bộ hồ sơ L/C nhập khẩu đạt 241 bộ, tăng 54 bộ so với
năm 2007. Năm 2008 là một năm nhiều biến động của kinh tế thế giới. Ở Việt Nam,
bên cạnh những vấn đề nội tại, kinh tế cũng chịu nhiều tác động xấu từ những diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, đạt mức
thấp nhất kể từ năm 2000, tuy còn giữ được ở mức khá cao so với các nước khác; xuất
khẩu gặp khó khăn, nhập siêu tăng đột biến; hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng trong nước thu hẹp đáng kể; thị trường bất động sản bị đóng băng; thị trường
chứng khoán tụt dốc... Điều này cho thấy ngay trong thời kì khó khăn ngân hàng vẫn
duy trì được một doanh số giao dịch tương đối ổn định.
Sang năm 2009, doanh số thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng
chứng đạt 87.461.752 USD, tăng 25.574.287 USD so với năm 2008, tương ứng với tăng
41,3%. Số lượng L/C nhập khẩu đạt 296 bộ, tăng 55 bộ so với năm 2008.
Một tiêu thức nữa giúp ta có thể nhận thức đầy đủ hơn về tình hình thanh toán
hàng hóa nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại ACB-Chi nhánh Hà Nội là
xem xét doanh số nhập khẩu mà chi nhánh đạt được trong những năm qua
Bảng 2.2: Doanh số thanh toán nhập khẩu của ACB-
Chi nhánh Hà Nội từ 2006 đến 2009
Chỉ
tiêu
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Doanh số
(USD)
Số
lượn
g hồ
sơ
Doanh số
(USD)
Số
lượn
g hồ
sơ
Doanh số
(USD)
Số
lượn
g hồ
sơ
Doanh số
(USD)
Số
lư
ợn
g
hồ
sơ
L/C
NK
51.332.06
6
134 35.116.00
0
187 61.887.465 241 87.461.752 29
6
T/T 44.157.46
1
1960 50.210.00
0
2102 39.751.000 1832 49.832.000 20
67
Nhờ
thu
nhập
1.748.594 70 1.907.160 75 2.142.033 78 2.427.277 82
Doan
h số
nhập
97.238.12
1
2164 87.233.16
0
2364 103.780.49
8
2142 139.721.02
9
24
45
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động TTQT của ACB-Chi nhánh Hà Nội hằng năm)
Qua bảng 2.2 ta có thể thấy, doanh số thu được từ hoạt động thanh toán hàng nhập
khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ chiềm một tỷ trọng lớn trong doanh số nhập
khẩu hằng năm. Doanh số thanh toán hàng nhập khẩu nói chung và doanh số thanh toán
hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ gia tăng đều qua các năm.
Năm 2006, doanh số thanh toán hàng nhập khẩu bằng L/C là 51.332.066 USD,
chiếm 52,8% trong tổng doanh số nhập khẩu.
Năm 2007, như đã phân tích ở trên, doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu bằng
phương thức tín dụng chứng từ lại có một sự giảm sút lớn, chỉ đạt 35.116.000 USD,
chiếm 40,2% trong tổng doanh số nhập khẩu. Doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu
bằng phương thức tín dụng chứng từ giảm kéo theo tổng doanh số nhập khẩu cũng
giảm. Năm 2007 chỉ đạt 87.233.160 USD, giảm 11,4% so với năm 2007.
Sang năm 2008, doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu bằng phương thức tín
dụng chứng từ đã có sự tăng trưởng trở lại, đạt 61.887.465 USD, chiếm 59,6% trong
tổng doanh số nhập khẩu. Và năm 2009, con số này đạt 87.461.752 USD, chiếm 62,9%
trong tổng doanh số nhập khẩu. Đây là những kết quả rất khả quan trong điều kiện nền
kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng và nền kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng,
đặc biệt là năm 2008. Sang năm 2009, tuy đã có những chuyển biến tích cực nhờ những
biện pháp kịp thời của Chính phủ, Nhà nước và NHNN tuy nhiên công tác xuất nhập
khẩu, ngành ngân hàng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh như vây, nhưng
doanh số nhập khẩu nói chung và doanh số thanh toán hàng hóa nhập khẩu bằng
phương thức tín dụng chứng từ nói riêng trong hai năm gần đây vẫn gia tăng. Đây là kết
quả của sự nỗ lực từ phía ngân hàng: không ngừng nâng cao trình độ thanh toán viên,
liên tục đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, tăng cường các hoạt động marketing sản phẩm,
tạo ra những dịch vụ mới hấp dẫn khách hàng...
Để có được sự tăng trưởng đáng kể qua các năm hoạt động một phần phải kể đến
biểu phí hấp dẫn mà ngân hàng đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện.
Bảng 2.3: Biểu phí giao dịch thanh toán hàng nhập khẩu
bằng phương thức tín dụng chứng từ của ACB
STT Giao dịch Mức phí
1 Phát hành thư tín dụng
- Ký quỹ 100% 0,075% - 10,0%; TT
20USD, TĐ 10.000USD
- Ký quỹ <100% (Kể cả trường hợp ký quỹ
bằng 0%)
TT: 20USD
Số tiền ký quỹ 0,075% - 10,0%, TĐ
10.000USD
Số tiền không ký quỹ 0,15% - 10,0%
2 Tu chỉnh thư tín dụng
Tu chỉnh tăng số tiền Như phát hành thư tín dụng
Các tu chỉnh khác 10USD
3 Ký hậu vận đơn/ phát hàng ủy quyền nhận
hàng
2USD
4 Chấp nhận hối phiếu/ chấp nhận thanh toán
thư tín dụng trả chậm (phí tính trọn tháng)
- Ký quỹ 100% 0,05%/ tháng; TT:50USD
- Ký quỹ <100% 0,08%/ tháng; TT: 50USD
5 Thanh toán thư tín dụng 0,20% - 10,0% ; TT
20USD,
TĐ 10.000USD
6 Hủy thư tín dụng 10 USD + Phí trả ngân
hàng nước ngoài (nếu có
phát sinh)
Nhờ những sự cố gắng từ chính bản thân chi nhánh, trong những năm qua, ACB-
Chi nhánh Hà Nội đã thu hút được rất nhiều khách hàng lớn trên nhiều lĩnh vực như:
lĩnh vực thiết bị y tế ( Công ty cố phần dược phẩm-thiết bị y tế Hà Nội, Tập đoàn y
dược Bảo Long , Công ty cổ phần Traphaco…); lĩnh vực điện tử, điện gia dụng (Công
ty TNHH điện tử Samsung Vina, Công ty cổ phần thế giới di động,…), lĩnh vực sắt
thép, kim khí ( Công ty cổ phần kim khí Thăng Long, Công ty cổ phần kim khí Hà
Nội…)
Như vậy, có thể nói hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín
dụng chứng từ của ACB-Chi nhánh Hà Nội trong những năm qua đã đạt được những
thành tựu đáng kể, đem lại nhiều lợi ích cho chi nhánh và khách hàng. Tuy nhiên, bên
cạnh đó cũng còn rất nhiều những hạn chế mà ACB-Chi nhánh Hà Nội cần khắc phục
để đưa hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ ngày
một phát triển, có thể sánh ngang với các ngân hàng truyền thống trong lĩnh vực này.
2.1.2. Tình hình thanh toán hàng xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ
Song song với hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng
chứng từ , ACB-chi nhánh Hà Nội cũng rất quan tâm tới việc mở rộng hoạt động thanh
toán hàng xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ. Tuy nhiên, do khách hàng
của chi nhánh chủ yếu là kinh doanh hàng nhập khẩu nên thanh toán hàng xuất khẩu
bằng phương thức tín dụng chứng từ tại chi nhánh còn có nhiều hạn chế. Đây được coi
là một thị trường tiềm năng để phát triển trong thời gian tới.
Hoạt động thanh toán hàng hóa xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ
tại ACB-Chi nhánh Hà Nội tuy chưa thật an toàn và hiệu quả, song đã góp một phần
nhỏ vào sự tăng trưởng của hoạt động TTQT nói chung và hoạt động TTQT bằng tín
dụng chứng từ nói riêng của chi nhánh. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển
của đất nước, giao lưu thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng, theo đó hoạt thanh
toán hàng hóa xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại ACB-Chi nhánh Hà
Nội cũng đã có những bước tăng trưởng tích cực, đáng kể. Điều đó được thể hiện qua
doanh số và số lượng L/C xuất khẩu qua các năm từ 2006 đến 2009, như sau:
Bảng 2.4: Giá trị L/C xuất khẩu qua các năm từ 2006 đến 2009
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Doanh
số(USD)
Số
lượng
hồ sơ
Doanh
số(USD)
Số
lượng
hồ sơ
Doanh
số(USD)
Số
lượng
hồ sơ
Doanh
số(USD)
Số
lượng
hồ sơ
246.918 13 1.050.000 40 8.065.432 52 13.378.982 67
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động TTQT của ACB-Chi nhánh Hà Nội hằng năm)
Qua bảng số liệu 2.3 ta thấy, doanh số thu được từ hoạt động thanh toán hàng
xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ và số lượng L/C xuất khẩu tăng dần
qua các năm.
Năm 2006, doanh số thanh toán hàng xuất khẩu bằng phương thức tín dụng
chứng từ đạt 246.918 USD với 13 bộ hồ sơ được mở.
Năm 2007, số lượng hồ sơ L/C xuất khẩu tăng nhanh, đạt 40 bộ, tăng 27 bộ so
với năm 2006. Theo đó doanh số L/C xuất khẩu cũng tăng đáng kể, đạt 1.050.000
USD, tăng 325% so với năm 2006.
Năm 2008, trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động, hoạt động xuất nhập
khẩu bị ảnh hưởng nhiều thì tại ACB-Chi nhánh Hà Nội, nhờ sự nỗ lực của các cán bộ
thanh toán quốc tế trong công tác phục vụ, công tác marketing, và sự lãnh đạo của ban
Giám đốc cùng sự đổi mới công nghệ không ngừng, doanh số thanh toán hàng xuất
khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ có sự gia tăng đột biến, đạt 8.065.432 USD,
tăng 668,1% so với năm 2007. Số lượng hồ sơ đạt 52 bộ, tăng 12 bộ so với năm 2007.
Sang năm 2009 nền kinh tế đã có những sự chuyển biến, dần dần phục hồi sau
cuộc khủng hoảng. Mặc dù vậy, thị trường ngân hàng và tình hình xuất nhập khẩu trong
năm vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán
quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán hàng xuất khẩu nói riêng. Doanh số thanh
toán hàng xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ năm 2009 vẫn có tăng nhưng
không nhiều, đạt 13.378.982 USD, tăng 65,88% so với năm 2008. Số lượng hồ sơ L/C
xuất khẩu đạt 67 bộ, tăng 15 bộ so với năm 2008.
Ngoài ra , còn một tiêu thức nữa giúp ta có thể nhận thức đầy đủ hơn về tình hình
thanh toán hàng hóa xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại ACB-Chi nhánh
Hà Nội là xem xét doanh số xuất khẩu mà chi nhánh đạt được trong những năm qua.