Tải bản đầy đủ (.pdf) (355 trang)

Giáo trình luật dân sự việt nam tập 1 đinh văn thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.14 MB, 355 trang )

GIÁO TRÌNH

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
TẬP I


394-2018/CXBIPH/44-188/CAND

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁO TRÌNH

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
TẬP I
(Tái bản có sửa đổi, bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2018

3


Chủ biên
PGS.TS. ĐINH VĂN THANH
TS. NGUYỄN MINH TUẤN

Tập thể tác giả


4

TS. VŨ THỊ HỒNG YẾN
TS. PHẠM CÔNG LẠCh

Chương I, II

PGS.TS. BÙI ĐĂNG HIẾU
TS. KIỀU THỊ THANH

Chương III

PGS.TS. ĐINH VĂN THANH
TS. VƯƠNG THANH THÚY

Chương IV

PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP
TRẦN HỮU BIỀN

Chương V


LỜI GIỚI THIỆU
Bộ luật dân sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hồ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam Khố XIII, kì họp thứ 10 thơng qua
ngày 24/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017. Đây là bộ
luật lớn nhất ở nước ta hiện nay. Với 689 điều luật, Bộ luật
dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản và nhân thân có tính phổ
biến trong đời sống của nhân dân ta hiện nay.

Bộ luật dân sự quy định các chuẩn mực pháp lí cho cách
ứng xử của các chủ thể trong giao lưu dân sự nhằm bảo đảm
sự ổn định và lành mạnh hoá các quan hệ dân sự trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đáp ứng kịp thời việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập
của giảng viên, sinh viên và những người quan tâm, Bộ môn
luật dân sự Khoa Pháp luật dân sự Trường Đại học Luật Hà
Nội đã chỉnh lí giáo trình phù hợp với khoa học pháp lí dân sự
hiện đại và làm rõ nội dung cơ bản của các phần trong Bộ
luật dân sự năm 2015.
Việc chỉnh lí giáo trình luật dân sự Việt Nam căn cứ vào
chương trình, mục tiêu đào tạo của Trường Đại học Luật Hà
Nội và được xây dựng phù hợp với chương trình khung do Bộ
giáo dục và đào tạo quy định. Giáo trình luật dân sự được
biên soạn thành hai tập để thuận tiện cho việc học tập và
nghiên cứu.
5


Mặc dù tập thể tác giả đã hết sức cố gắng nhưng giáo trình
cũng khó tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong các độc giả
góp ý để giáo trình luật dân sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội ngày càng hoàn thiện.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


CHƯƠNG I

KHÁI NIỆM VỀ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
A. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH
CỦA LUẬT DÂN SỰ
Để quản lí xã hội bằng pháp luật và khơng ngừng nâng cao
tính thực thi của các văn bản pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một
hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, phản ánh tốt hơn
đường lối của Đảng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với
mục tiêu đó, động lực chính của sự phát triển là vì con người,
do con người, đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng
sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập
thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc; động viên và tạo mọi
điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự
cường, cần kiệm xây dựng Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và
cho đất nước. Trong đó, mọi người được tự do kinh doanh theo
pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật, điều chỉnh các
quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Trong đó, mỗi ngành luật
điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Những nhóm
7


quan hệ xã hội do một ngành luật điều chỉnh được gọi là đối
tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Để điều chỉnh các quan hệ
xã hội, Nhà nước sử dụng các biện pháp tác động khác nhau,
hướng cho các quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi, chấm dứt
phù hợp với ý chí của Nhà nước. Phương pháp tác động của Nhà
nước lên các quan hệ xã hội có những đặc thù khác nhau phụ

thuộc vào các quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật.
I. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là quan hệ nhân thân
và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình
thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự
chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự) (Điều 1
Bộ luật dân sự - BLDS năm 2015). Với quy định này, luật dân
sự nói chung và BLDS năm 2015 nói riêng đã mở rộng phạm
vi điều chỉnh đến các quan hệ thuộc lĩnh vực luật tư và trở
thành luật chung điều chỉnh các quan hệ tài sản. Trong trường
hợp luật riêng không quy định trực tiếp để điều chỉnh các quan
hệ xã hội trong lĩnh vực đó thì các quy định của BLDS năm
2015 sẽ điều chỉnh. Tuy nhiên, các quy định của luật riêng
không được trái với những nguyên tắc cơ bản được quy định
tại Điều 3 BLDS năm 2015. Trường hợp luật khác có liên quan
khơng quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm ngun tắc
trên thì quy định của BLDS năm 2015 được áp dụng.
1. Quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua
một tài sản. Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn với một tài sản
nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác.
8


Tài sản (được khái quát chung ở Điều 105 BLDS năm 2015)
bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quan hệ tài
sản tài sản không chỉ bó hẹp ở những vật vơ tri mà cịn hàm
chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến
một tài sản.
Quan hệ tài sản không chỉ bao gồm vật thuộc về ai, do ai

chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà còn bao gồm cả việc dịch
chuyển những tài sản đó từ chủ thể này sang chủ thể khác,
quyền yêu cầu của một hay nhiều chủ thể và nghĩa vụ tương
ứng với các quyền yêu cầu đó của một hay nhiều chủ thể khác
trong quan hệ nghĩa vụ cũng được coi là quan hệ tài sản. Quan
hệ tài sản rất đa dạng và phức tạp bởi các yếu tố cấu thành nên
các quan hệ đó bao gồm: chủ thể tham gia, khách thể được tác
động và nội dung của các quan hệ đó. Quan hệ tài sản là đối
tượng điều chỉnh của luật dân sự có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang
tính ý chí. Quan hệ tài sản phát sinh giữa các chủ thể là những
quan hệ kinh tế cụ thể trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu
thông và tiêu thụ sản phẩm cũng như cung ứng dịch vụ trong
xã hội. Quan hệ tài sản luôn gắn liền với quan hệ sản xuất và
phù hợp với quan hệ sản xuất vốn là hạ tầng của xã hội. Quan
hệ sản xuất tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của con người
mà nó phát sinh, phát triển theo những quy luật khách quan.
Nhưng những quy luật này được nhận thức và phản ánh thông
qua những quy phạm pháp luật lại mang tính chủ quan - ý chí
của giai cấp thống trị phản ánh sự tồn tại xã hội thông qua các
quy phạm pháp luật. Mỗi chủ thể tham gia vào một quan hệ
9


kinh tế cụ thể đều đặt ra những mục đích và với động cơ nhất
định. Bởi vậy, quan hệ tài sản mà các chủ thể tham gia mang ý
chí của các chủ thể và phải phù hợp với ý chí của Nhà nước
thông qua các quy phạm pháp luật dân sự. Nhà nước dùng các
quy phạm pháp luật dân sự tác động lên các quan hệ kinh tế,
hướng cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi theo ý chí của

Nhà nước. Vì vậy, sự tác động của Nhà nước thơng qua các quy
phạm pháp luật dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc định
hướng cho các quan hệ tài sản phát triển. Nếu sự định hướng phù
hợp với những quy luật khách quan của sự phát triển thì sẽ thúc
đẩy quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển và ngược
lại sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể nói rằng quan hệ tài sản là biểu hiện ý chí của chủ
thể, của nhà nước về quan hệ sản xuất trong một giai đoạn lịch
sử nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang xây
dựng và hình thành nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều
hình thức sở hữu và hình thức kinh doanh thì việc xác định các
quan hệ tài sản phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là định hướng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tác
dụng thúc đẩy mạnh mẽ nền sản xuất xã hội.
Thứ hai, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang
tính chất hàng hố và tiền tệ. Định hướng chiến lược của nước
ta hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 15
Hiến pháp năm 1992). Trong mơ hình kinh tế này, các tài sản
được thể hiện dưới dạng hàng hoá và được quy thành tiền. Sản
xuất ra hàng hoá và dịch vụ để bán, để trao đổi là đặc trưng của
10


nền sản xuất này. Nó tạo động lực cho mọi cá nhân và tổ chức,
khơi dậy mọi tiềm năng của họ, phát huy ý chí tự lực, tự cường
ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Nhưng nền kinh tế
hàng hố theo cơ chế thị trường cũng có những mặt trái của nó
(cạnh tranh khơng lành mạnh, phân hố giàu nghèo…). Cho
nên, khuyến khích tính năng động, sáng tạo đi đôi với thiết lập

trật tự kỉ cương trong hoạt động kinh tế, bảo đảm cho mọi đơn
vị kinh tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo
cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình
đẳng trước pháp luật. Bởi vậy, cần phải có hành lang pháp lí
vừa mềm dẻo, linh hoạt, vừa chặt chẽ mới có thể đáp ứng được
các yêu cầu trên. Hơn nữa chúng ta đang trong quá trình hội
nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, do vậy pháp luật nói chung
và pháp luật dân sự nói riêng cịn phải tương thích với pháp
luật của các nước trên thế giới và trong khu vực. Quy luật của
nền kinh tế thị trường trong sản xuất xã hội chi phối các quan
hệ tài sản mà một trong các biểu hiện của nó là quan hệ tiền hàng. Sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế thị
trường chủ yếu thơng qua hình thức tiền - hàng. Khái niệm
hàng hoá càng ngày càng được mở rộng cùng với sự chun
mơn hố của nền sản xuất, cùng với sự phát triển của khoa họckĩ thuật và quan niệm xã hội về các đối tượng trao đổi. Tài sản
là đối tượng và cũng là khách thể của quan hệ tài sản phải trị
giá được thành tiền và có thể chuyển giao thông qua các giao
dịch dân sự. Do vậy, các quan hệ tài sản này cũng khơng nằm
ngồi sự chi phối của quy luật hàng hoá - tiền tệ.
Thứ ba, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính
chất đền bù tương đương. Sự đền bù tương đương trong trao
11


đổi là biểu hiện của quan hệ hàng hoá và tiền tệ, là đặc trưng
của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Nhưng không phải tất cả
sự dịch chuyển tài sản, dịch vụ đều có sự đền bù tương đương
như: cho, tặng, thừa kế, sử dụng các tác phẩm văn học nghệ
thuật... Nhưng các quan hệ này không phải là quan hệ cơ bản
và không phổ biến trong trao đổi; nó khơng chỉ đơn thuần là
quan hệ pháp luật mà còn bị chi phối bởi nhiều quan hệ xã hội

khác (truyền thống, phong tục...).
2. Quan hệ nhân thân
Cùng với quan hệ tài sản, luật dân sự còn điều chỉnh các
quan hệ nhân thân (Điều 1 BLDS năm 2015). Quan hệ nhân thân
là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá
nhân hay các tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là
quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyền
tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền
dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể chuyển
giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy
định khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều có
nghĩa vụ tơn trọng quyền nhân thân của người khác.
Các quyền nhân thân được nhiều ngành luật điều chỉnh.
Luật hành chính quy định về trình tự, thủ tục để xác định các
quyền nhân thân như: phong các danh hiệu cao quý của Nhà
nước; tặng thưởng các loại huân, huy chương; cơng nhận các
chức danh... Luật hình sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng
cách quy định những hành vi nào khi xâm phạm đến những giá
trị nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: vu khống,
làm nhục người khác, làm hàng giả...).
12


Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách
quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân
thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân đó,
đồng thời quy định các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền
nhân thân (Điều 11 – Điều 14 BLDS năm 2015).
Các quan hệ nhân thân xuất phát từ quyền nhân thân do luật
dân sự điều chỉnh có thể chia làm hai nhóm căn cứ vào khoản 1

Điều 17 BLDS năm 2015:
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;
- Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản.
Những quan hệ nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có
những đặc điểm sau:
- Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định
và không thể dịch chuyển được cho các chủ thể khác. Tuy
nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được dịch
chuyển. Những trường hợp cá biệt này phải do pháp luật quy
định (quyền công bố tác phẩm của tác giả các tác phẩm, các đối
tượng sở hữu công nghiệp...).
- Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền - giá trị
nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương
đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân thân
không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân, danh dự, uy tín của tổ chức; quyền đối với họ, tên; thay
đổi họ tên; quyền xác định dân tộc, thay đổi dân tộc; quyền
đối với hình ảnh; với bí mật đời tư; quyền kết hôn, li hôn…
(từ Điều 26 đến Điều 39 BLDS năm 2015). Một số quyền
13


nhân thân mới được ghi nhận và bảo hộ trong BLDS năm
2015 như: quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật
gia đình; chuyển đổi giới tính; quyền nhân thân trong quan hệ
hơn nhân và gia đình...
Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là
quyền nhân thân và quy định các biện pháp bảo vệ các giá
trị nhân thân đó. Mỗi chủ thể có những giá trị nhân thân
khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị

xâm phạm. Khi quyền nhân thân bị xâm phạm thì chủ thể có
quyền tự mình cải chính, u cầu người có hành vi xâm
phạm hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc
người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm: xin lỗi, cải chính
cơng khai; tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin
đại chúng; yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu toà án buộc
người vi phạm phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp
những tổn thất về tinh thần.
Các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là những giá trị
nhân thân khi được xác lập làm phát sinh các quyền tài sản.
Quyền nhân thân là tiền đề làm phát sinh các quyền tài sản
khi có những sự kiện pháp lí nhất định như tác giả các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật; quyền tác giả
các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp...
được hưởng tiền nhuận bút, thù lao, được hưởng tiền thù lao
do áp dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp nêu trên.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân
nhưng khi hình ảnh đó được người khác sử dụng vì mục đích
thương mại thì người có hình ảnh sẽ được trả thù lao. Đó là
sự kiện làm phát sinh quyền nhân thân gắn với tài sản.
14


II. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
Pháp luật không tạo ra các quan hệ xã hội mà chỉ điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Cơ chế điều chỉnh các quan hệ xã
hội rất phức tạp bao gồm một hệ thống cơ quan, tổ chức sử
dụng các biện pháp, cách thức tác động vào hành vi của các
chủ thể, định hướng cách xử sự của các chủ thể tham gia vào
các quan hệ đó. Tuỳ theo các nhóm quan hệ xã hội cần điều

chỉnh mà Nhà nước lựa chọn các biện pháp tác động khác
nhau lên các quan hệ đó.
Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là những cách
thức, biện pháp mà Nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản,
các quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay
đổi, chấm dứt theo ý chí của Nhà nước phù hợp với ba lợi ích
(Nhà nước, xã hội và cá nhân).
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân
thân của cá nhân, pháp nhân được hình thành trên cơ sở bình
đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm.
Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự có những đặc
điểm sau:
- Các chủ thể tham gia các quan hệ tài sản và các quan hệ
nhân thân do luật dân sự điều chỉnh độc lập về tổ chức và tài
sản, bình đẳng với nhau về địa vị pháp lí. Độc lập về tổ chức
và tài sản là tiền đề tạo ra sự bình đẳng trong các quan hệ mà
các chủ thể tham gia. Bởi các quan hệ tài sản mà luật dân sự
điều chỉnh mang tính chất hàng hố - tiền tệ và đền bù tương
đương là đặc trưng khi trao đổi. Nếu không độc lập về tài sản
và bình đẳng về địa vị pháp lí thì sẽ khơng tạo ra sự đền bù
15


tương đương. Sự bình đẳng và độc lập được thể hiện ngay cả
trong trường hợp các chủ thể có các mối quan hệ khác mà họ
khơng bình đẳng (trong quan hệ hành chính, lao động...) và
chính sự bình đẳng, độc lập của các chủ thể mới tạo được tiền
đề cho sự tự định đoạt sau này. Nếu vợ chồng tặng cho nhau tài
sản trong thời kì hơn nhân mà nguồn gốc tài sản tặng cho có
được từ tài sản chung thì quan hệ tặng cho đó chủ yếu mang

màu sắc tình cảm, chứ khơng làm dịch chuyển quyền sở hữu
sang cho người được tặng cho vì khi xác lập quan hệ tặng cho
này khơng có sự độc lập về tài sản giữa vợ và chồng.
- Pháp luật dân sự ghi nhận quyền tự định đoạt của các chủ
thể trong việc tham gia các quan hệ tài sản. Khi tham gia vào
các quan hệ tài sản, mỗi chủ thể đều đặt ra những mục đích với
những động cơ nhất định. Bởi vậy, việc lựa chọn một quan hệ
cụ thể do các chủ thể tự quyết định, căn cứ vào khả năng, điều
kiện, mục đích mà họ tham gia vào các quan hệ đó. Khi tham
gia vào các quan hệ cụ thể, các chủ thể tuỳ ý theo ý chí của
mình lựa chọn đối tác sẽ tham gia, nội dung quan hệ mà họ
tham gia, cách thức, biện pháp thực hiện các quyền và nghĩa
vụ. Trong nhiều trường hợp, các chủ thể có thể tự đặt ra các
biện pháp bảo đảm, hình thức và phạm vi trách nhiệm, cách
thức áp dụng trách nhiệm khi bên này hay bên kia không thực
hiện hay thực hiện không đúng thoả thuận.
Tuy nhiên, việc tự định đoạt của các chủ thể khi tham gia
vào các quan hệ không đồng nghĩa với tự do, tuỳ tiện trong
việc tạo lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ đó. Đặc điểm
chung các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân là đa dạng,
phức tạp. Bởi vậy, các quy phạm pháp luật không thể dự liệu
16


hết được các quan hệ đang tồn tại và phát triển. Cho nên, pháp
luật đưa ra những giới hạn, vạch ra những hành lang an tồn,
cần thiết, trong đó các chủ thể có quyền tự do hành động. Giới
hạn đó được xác định bởi các nguyên tắc được quy định trong
BLDS và thể hiện rõ nét nhất ở Điều 3 BLDS năm 2015: “Việc
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự khơng được xâm

phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi
ích hợp pháp của người khác”. Khi vi phạm nguyên tắc này,
làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác sẽ
bị coi là vi phạm pháp luật dẫn đến hậu quả pháp lí, phải bồi
thường thiệt hại. Cam kết, thoả thuận là tự nguyện nhưng sau
khi đã tự nguyện cam kết, thoả thuận, các chủ thể buộc phải
tham gia vào quan hệ dân sự đó. Mặt khác, trong một số trường
hợp, nhằm bảo vệ quyền lợi của một số chủ thể nhất định, pháp
luật đã hạn chế quyền tự định đoạt đó (như quy định về điều
kiện chuyển quyền sử dụng đất, về người được hưởng di sản
không phụ thuộc nội dung của di chúc...).
- Xuất phát từ sự bình đẳng giữa các chủ thể, quyền tự định
đoạt của họ khi tham gia các quan hệ dân sự, cho nên đặc trưng
của phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là hoà giải.
Đây là nguyên tắc được quy định tại Điều 7 BLDS năm 2015 Nguyên tắc hoà giải. Việc thực hiện hay từ chối một quyền tài
sản của các chủ thể thuộc phạm vi tự định đoạt của họ (tuy
nhiên, chỉ trong trường hợp quyền của họ không đồng thời là
nghĩa vụ mà pháp luật quy định). Cho nên, việc giải quyết các
tranh chấp dân sự do các bên tự thoả thuận. Nếu không thể thoả
thuận hoặc hoà giải được, toà án chỉ giải quyết trong phạm vi
yêu cầu của nguyên đơn.
17


- Các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh chủ yếu là các
quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá và tiền tệ, việc vi
phạm nghĩa vụ của một bên trong quan hệ đó dẫn đến thiệt hại
về tài sản đối với bên kia. Bởi vậy, trách nhiệm dân sự trước
tiên là trách nhiệm tài sản. Trách nhiệm của bên vi phạm đối
với bên bị vi phạm và hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm là

phục hồi tình trạng tài sản của bên bị thiệt hại. Trong quan hệ
dân sự, các chủ thể có quyền tự định đoạt. Cho nên, họ có thể
quy định trách nhiệm và phương thức áp dụng trách nhiệm
cùng hậu quả của nó (những thoả thuận này phải phù hợp với
pháp luật). Bởi vậy, trách nhiệm dân sự không chỉ do pháp luật
quy định mà còn do các bên thoả thuận về điều kiện phát sinh
và hậu quả của nó.
III. ĐỊNH NGHĨA LUẬT DÂN SỰ, PHÂN BIỆT LUẬT
DÂN SỰ VỚI CÁC NGÀNH LUẬT KHÁC
Theo truyền thống trong khoa học pháp lí, một ngành luật
được xác định và phân biệt với ngành luật khác căn cứ vào đối
tượng điều chỉnh và các đặc điểm phương pháp điều chỉnh của
nó. Dựa vào đối tượng điều chỉnh và những nét đặc trưng cơ
bản của phương pháp điều chỉnh của luật dân sự có thể định
nghĩa luật dân sự như sau:
Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật
Việt Nam - tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ tài sản mang tính chất hàng hố-tiền tệ và các quan
hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể khi
tham gia vào các quan hệ đó.
Việc phân biệt ngành luật này với ngành luật khác cũng
18


dựa vào đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và
những đặc điểm của nó.
- Chúng ta dễ dàng phân biệt luật dân sự với luật hành
chính. Luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực điều hành và quản lí nhà nước. Các chủ thể tham gia
khơng bình đẳng về địa vị pháp lí và khơng thể thoả thuận

trong việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hành chính mà
được xác lập dựa trên các quy định của pháp luật.
- Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội bằng
cách quy định những hành vi nào bị coi là hành vi nguy hiểm
cho xã hội đồng thời quy định hình phạt tương ứng với mức độ
nguy hiểm của hành vi đó. Mặc dù việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế do luật hình sự quy định là sự cưỡng chế của Nhà
nước nhưng những biện pháp này trước tiên là trách nhiệm của
cá nhân với xã hội, với Nhà nước nói chung. Chức năng chủ
yếu của hình phạt là trừng phạt và giáo dục; còn trong dân sự,
trách nhiệm tài sản trước tiên là trách nhiệm của chủ thể này
đối với chủ thể khác và mục đích chủ yếu của nó là phục hồi
tình trạng tài sản của bên bị thiệt hại.
- Luật dân sự được coi là luật chung trong lĩnh vực luật tư,
bao gồm các quy định liên quan đến quyền lợi của chủ thể và
về nguyên tắc có thể thay đổi bằng sự thoả thuận của các bên.
Do sự phát triển của xã hội cũng như khoa học pháp lí, trên cơ
sở của luật dân sự đã phát triển thêm những lĩnh vực pháp luật
khác (như luật thương mại...). Trong các giao lưu dân sự, có
những quan hệ được coi là quan hệ thương mại. Đây là những
quan hệ đặc thù được điều chỉnh bởi luật thương mại. Khi điều
19


chỉnh các quan hệ thương mại, nếu khơng có quy phạm pháp
luật trực tiếp điều chỉnh thì áp dụng các quy định của BLDS
năm 2005 để điều chỉnh các quan hệ đó.
- Luật lao động được tách ra từ luật dân sự khi sức lao động
trở thành hàng hoá trong xã hội tư bản. Đối tượng điều chỉnh
của luật lao động là bản thân q trình lao động mà khơng phải

là kết quả của q trình đó giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Khi các quan hệ lao động khơng có quy phạm
pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì sẽ áp dụng các quy định của
BLDS năm 2015 để điều chỉnh các quan hệ đó.
- Luật hơn nhân và gia đình được tách ra từ luật dân sự để
điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ - chồng và
các thành viên trong gia đình, trong đó quan hệ nhân thân giữa
vợ - chồng là trung tâm, quyết định các quan hệ khác. Các
quan hệ tài sản mà luật hơn nhân và gia đình điều chỉnh giữa
các chủ thể không độc lập về tài sản và không thể áp dụng
nguyên tắc đền bù tương đương. Tài sản của vợ, chồng tạo ra
trong thời kì hôn nhân là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản riêng
của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình. Trong
trường hợp khơng có quy định trong luật hơn nhân và gia đình,
sẽ sử dụng các quy định trong BLDS năm 2015 để điều chỉnh
các quan hệ đó.
- Luật tố tụng dân sự được coi là luật hình thức của luật dân
sự và luật hơn nhân và gia đình, luật kinh tế, luật lao động; quy
định trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh tế, lao động. Luật tố tụng dân sự điều
20


chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng.
IV. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ, KHOA HỌC
LUẬT DÂN SỰ, GIÁO TRÌNH LUẬT DÂN SỰ
1. Hệ thống pháp luật dân sự
Hệ thống pháp luật dân sự là hệ thống các quy phạm dân sự
điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân. Các

quy phạm pháp luật này hợp thành những nhóm quy phạm điều
chỉnh những nhóm quan hệ tương đối đồng nhất. Những nhóm
quy phạm đó được gọi là chế định trong luật dân sự - những
chế định lớn (quyền sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng, thừa kế...)
được phân chia thành các chế định nhỏ hơn. Các chế định đều
phải tuân theo các quy định ở phần chung và mỗi chế định của
phần riêng có những quy định chung xuyên suốt phần riêng đó.
Căn cứ vào cách sắp xếp truyền thống và được thể hiện
trong BLDS, khoa học luật dân sự phân chia luật dân sự thành
hai phần lớn - Phần chung và Phần riêng.
Phần chung: Bao gồm những quy phạm chung, xuyên suốt
toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự, quy định những nguyên tắc,
nhiệm vụ của luật dân sự, chủ thể, địa vị pháp lí của chủ thể,
các căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền dân sự, thời hạn,
thời hiệu.
Phần riêng: Dựa theo các nhóm quan hệ mà luật dân sự
điều chỉnh, căn cứ vào khách thể của quan hệ dân sự, trong luật
dân sự, các quy phạm được chia thành các chế định lớn tương
ứng. Các chế định lớn này có phần chung và chỉ áp dụng cho
riêng phần đó. Hiện nay, luật dân sự Việt Nam hình thành các
21


chế định lớn sau đây:
+ Chế định quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản:
Đây là chế định trung tâm, quan trọng nhất không chỉ riêng cho
luật dân sự mà cho cả hệ thống pháp luật nói chung. Trong đó,
quy định các hình thức sở hữu; đối tượng của quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản; các căn cứ phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; nội dung

quyền sở hữu, các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu đồng thời
cũng quy định những hạn chế đối với chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản trong việc thực hiện các quyền năng
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
+ Chế định nghĩa vụ và hợp đồng: Đây là chế định lớn nhất
trong luật dân sự - là chế định dẫn xuất của chế định quyền sở
hữu, gồm các quy định liên quan đến nghĩa vụ và các căn cứ
phát sinh nghĩa vụ dân sự. Chế định lớn này được chia thành
những chế định nhỏ sau:
- Những quy định chung về nghĩa vụ dân sự, căn cứ phát
sinh nghĩa vụ dân sự, thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự
và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự;
- Hợp đồng dân sự thông dụng (mua bán, thuê tài sản...);
- Chế định thực hiện công việc khơng có uỷ quyền;
- Chế định được lợi về tài sản khơng có căn cứ hợp pháp;
- Chế định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại (quy định
căn cứ phát sinh trách nhiệm do gây thiệt hại và một số trường
hợp riêng biệt của trách nhiệm do gây thiệt hại).
+ Chế định thừa kế: Quy định về trình tự dịch chuyển di
sản của người chết cho những người còn sống, việc dịch
22


chuyển di sản theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Khoa học luật dân sự và giáo trình luật dân sự
Tương ứng với mỗi ngành luật có mơn khoa học pháp lí về
ngành luật đó, với ngành luật dân sự có khoa học luật dân sự.
Với tư cách là một môn học, một phân ngành khoa học pháp lí,
khoa học luật dân sự là hệ thống những khái niệm, những quan
điểm, phạm trù... về những vấn đề rất khác nhau của luật dân

sự. Nó bao gồm việc xác định luật dân sự như là một ngành
luật độc lập trong hệ thống pháp luật, các quan hệ xã hội mà
luật dân sự điều chỉnh, các phương pháp điều chỉnh, các đặc
trưng của quan hệ pháp luật, cấu thành các quan hệ đó..., về
lịch sử hình thành và phát triển của luật dân sự, mối liên kết
giữa các chế định luật dân sự và với các ngành luật khác. Khoa
học luật dân sự nghiên cứu bản thân các quy phạm pháp luật
dân sự, tính mâu thuẫn và thống nhất của nó, việc áp dụng luật
dân sự trong đời sống xã hội, đưa ra những giải thích có tính
khoa học các quy phạm pháp luật dân sự, tìm các lỗ hổng trong
pháp luật và biện pháp khắc phục những lỗ hổng đó...
Khoa học luật dân sự xây dựng trên cơ sở luật thực định
nhưng không đồng nghĩa với luật thực định.
Với tư cách là một môn học trong các trường chun ngành
luật, luật dân sự có vai trị, vị trí như những mơn học khác, đó
là mơn chun ngành nghiên cứu luật dân sự như là môn học
được xây dựng trên hệ thống lí luận truyền thống và hiện đại và
trên cơ sở luật thực định. Chương trình mơn học được kết cấu
theo nội dung sau:
Phần thứ nhất: Lí giải luật dân sự như là một ngành luật
độc lập, có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng; các
23


nguyên tắc, nhiệm vụ của luật dân sự, nguồn của luật dân sự và
việc áp dụng luật dân sự; nghiên cứu quan hệ pháp luật dân sự
như là một loại quan hệ xã hội đặc biệt được các quy phạm
pháp luật điều chỉnh; các thành tố cấu thành của quan hệ pháp
luật dân sự: chủ thể, khách thể và nội dung; những yếu tố riêng
biệt và các căn cứ làm phát sinh các quan hệ pháp luật dân sự;

thời hạn, thời hiệu...
Phần thứ hai: Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản:
Nghiên cứu những khái niệm chung về tài sản, quyền sở hữu,
sự phát triển các quan hệ sở hữu, quyền sở hữu, nội dung
quyền sở hữu và các hình thức sở hữu, các căn cứ làm phát
sinh, chấm dứt quyền sở hữu, phương thức bảo vệ quyền sở
hữu và những hạn chế về quyền sở hữu.
Phần thứ ba: Thừa kế: Xem xét việc kế quyền tổng hợp của
người sống đối với quyền và nghĩa vụ của người chết. Việc
dịch chuyển di sản của người chết cho những người cịn sống
theo ý chí của họ lúc cịn sống và theo diện và hàng thừa kế.
Phần thứ tư: Nghĩa vụ và hợp đồng: Đề cập những quy
định chung về nghĩa vụ như là một loại quan hệ pháp luật dân
sự liên quan đến việc dịch chuyển tài sản và dịch vụ từ chủ thể
này sang chủ thể khác; các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ; các
thành tố cấu thành quan hệ nghĩa vụ dân sự, việc thực hiện
cũng như các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
V. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT
LUẬT DÂN SỰ
Ngày 2/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được
tuyên bố thành lập - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
24


Đông Nam Á. Việc điều hành đất nước phải được thể chế hoá
bằng các quy định của pháp luật. Ngày 10/10/1945, không lâu
sau ngày nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra đời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 90/SL cho phép tạm sử dụng một
số luật lệ hiện hành ở Bắc - Trung - Nam cho đến khi ban hành
những bộ luật duy nhất cho toàn quốc nếu “những luật lệ ấy

không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính
thể dân chủ cộng hồ”. Với tinh thần đó, BLDS Nam Kì giản
yếu năm 1883, Bộ dân luật Bắc Kì năm 1931 và Bộ dân luật
Trung Kì năm 1936 (Hồng Việt Trung Kì Hộ luật) được tiếp
tục thi hành. Như vậy, tại ba miền Bắc - Trung - Nam tồn tại ba
bộ dân luật. Tiếp đó, trong điều kiện chiến tranh khốc liệt của
cuộc kháng chiến chống Pháp, để điều hành công việc của Nhà
nước và điều chỉnh các giao lưu dân sự trong điều kiện, hồn
cảnh mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí nhiều sắc lệnh, trong đó
Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 “Sửa đổi một số quy lệ và
chế định trong dân luật” có ý nghĩa đặc biệt trong sự phát triển
của luật dân sự. Sắc lệnh này một mặt không huỷ bỏ những quy
định của các bộ dân luật cũ, mặt khác nó bổ sung, thay đổi làm
cho các bộ luật của “đế quốc phong kiến” có nội dung mới,
đem đến những biến đổi thực sự trong cách thức sinh hoạt và
tư tưởng của nhân dân Việt Nam, đặt cơ sở, những nguyên tắc
cơ bản cho sự hình thành và phát triển của luật dân sự - pháp
luật dân sự của một Nhà nước độc lập, có chủ quyền. Những
nguyên tắc này thật sự dân chủ, tiến bộ, mang tính nhân dân
sâu sắc và cho đến nay vẫn cịn giữ nguyên ý nghĩa chủ đạo
cho sự hình thành và vận dụng các quy định pháp luật dân sự
mới. Đó là các nguyên tắc “Những quyền dân sự đều được luật
bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân
25


×