Tải bản đầy đủ (.pdf) (368 trang)

Giáo trình luật dân sự việt nam tập 2 đinh văn thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 368 trang )

GIÁO TRÌNH

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
TẬP II


394-2018/CXBIPH/45-188/CAND


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁO TRÌNH

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
TẬP II
(Tái bản có sửa đổi, bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2018


Chủ biên
PGS.TS. ĐINH VĂN THANH
TS. NGUYỄN MINH TUẤN

Tập thể tác giả
PGS.TS. TRẦN THỊ HUỆ

Chương VII (mục N)

TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ


TS. PHẠM CÔNG LẠC

Chương X

PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP
TS. NGUYỄN MINH TUẤN

Chương VII, VIII, IX

PGS.TS. PHẠM VĂN TUYẾT

Chương VI


CHƯƠNG VI
NGHĨA VỤ VÀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
A. NGHĨA VỤ
I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHĨA VỤ
1. Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ
1.1. Khái niệm nghĩa vụ
Nghĩa vụ, theo nghĩa chung nhất là việc mà theo quy định
của pháp luật hay vì đạo đức mà bắt buộc phải làm hoặc không
được làm đối với xã hội, đối với người khác. Theo cách hiểu
này thì nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với
nhau, trong đó một bên phải thực hiện hoặc không được thực
hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của bên kia.
Việc một bên phải thực hiện hoặc không được thực hiện
một số hành vi nhất định có thể khơng được đặt dưới sự bảo
đảm của nhà nước bằng pháp luật, pháp luật khơng buộc người
đó phải thực hiện, họ thực hiện cơng việc đó hồn tồn theo

lương tâm và vì uy tín của mình. Ở phương diện này, nghĩa vụ
được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức và thuộc về nghĩa
vụ đạo đức. Chẳng hạn, giúp người già qua đường, giúp đỡ
người tàn tật, nhường chỗ cho người già, phụ nữ trên xe buýt...
là những công việc phải làm vì đạo đức.
Những cơng việc phải làm hoặc khơng được phép làm theo

5


quy định của pháp luật là nghĩa vụ pháp luật nói chung. Trong
đó, các cơng việc phải làm hoặc khơng được phép làm theo
quy định của pháp luật dân sự là nghĩa vụ dân sự.
Nghĩa vụ có thể được hiểu là một bộ phận không tách rời
trong nội dung của một quan hệ pháp luật dân sự. Bao gồm
những hành vi mà một bên chủ thể phải thực hiện vì lợi ích của
chủ thể bên kia như chuyển giao tài sản, thực hiện một công
việc hoặc không được thực hiện một công việc đã được các
bên tham gia quan hệ đó hoặc pháp luật xác định v.v. Bên có
nghĩa vụ phải thực hiện các nghĩa vụ trước quyền yêu cầu của
phía bên kia.
Mặt khác, nghĩa vụ cịn được hiểu là một quan hệ pháp
luật, trong đó quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự của các bên
chủ thể phát sinh từ quan hệ đó phải được thực hiện dưới sự
đảm bảo của pháp luật.
Các BLDS của Việt Nam thời Pháp thuộc (Bộ dân luật Bắc
kì năm 1931 và Bộ dân luật Trung kì năm 1936) đã có những
định nghĩa về nghĩa vụ dân sự:
"Nghĩa vụ dân sự là mối liên lạc về luật thực tại hay luật
thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng

làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó.
Người bị bó buộc vào nghĩa vụ gọi là người mắc nợ, người
được hưởng nghĩa vụ gọi là người chủ nợ".(1)
"Nghĩa vụ là cái dây liên lạc về luật thực tại hay luật
thiên nhiên bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng
làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó, người bị bó
buộc là người mắc nợ hay trái hộ, người được hưởng là chủ
(1).Xem: Điều 644 Bộ luật dân luật Bắc kì năm 1931.

6


nợ hay trái chủ".(1)
"Nghĩa vụ về luật thiên nhiên thì khơng thể tố tụng trước
tịa án được".(2)
"Nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên là nghĩa vụ không thể
cưỡng bách thi hành".(3)
Theo quy định trong hai Bộ dân luật nói trên thì ngồi
nghĩa vụ thuộc về luật thực tại cịn bao gồm nghĩa vụ thuộc về
luật thiên nhiên. Thực ra, nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên
chỉ được đưa vào khái niệm cho hợp với truyền thống và
phong tục của người Á Đơng mà hồn tồn khơng có sự cưỡng
chế của pháp luật. Vì vậy, dù đã được quy định trong Bộ luật
nhưng nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên (nghĩa vụ tự nhiên)
vẫn chỉ là nghĩa vụ luân lí.
Nghĩa vụ được định nghĩa tại Điều 274 BLDS năm 2015
như sau: " Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ
thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao
vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
cơng việc hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì

lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là
bên có quyền).
1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ
Nếu nhìn nhận nghĩa vụ ở trạng thái là một quan hệ pháp
luật dân sự thì so với các quan hệ pháp luật dân sự khác, quan
hệ nghĩa vụ có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, nghĩa vụ là sự ràng buộc pháp lý giữa ít nhất là
hai người đứng về hai phía chủ thể khác nhau.
(1).Xem: Điều 675 Bộ dân luật Trung kì năm1936.
(2).Xem: Điều 642 Bộ dân luật Bắc kì năm 1931.
(3).Xem: Điều 677 Bộ dân luật Trung kì năm 1936.

7


Dù được hình thành theo thoả thuận hay theo luật định thì
nghĩa vụ ln là sự ràng buộc giữa các bên về việc phải làm
hay không được làm một việc nhất định. Bên phải làm một
công việc nếu không làm sẽ phải gánh chịu chế tài của luật.
Tuỳ từng trường hợp, mỗi bên trong nghĩa vụ có thể có nhiều
người hoặc nhiều chủ thể khác tham gia nhưng cũng có thể
mỗi một bên chỉ có một người tham gia.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ dân sự của hai bên chủ thể đối
lập nhau một cách tương ứng và chỉ có hiệu lực trong phạm vi
giữa các chủ thể đã được xác định.
Nghĩa vụ và quyền luôn đi đôi với nhau, nói đến quyền là
nói đến nghĩa vụ. Tuy nhiên, nói đến quyền và nghĩa vụ trong
quan hệ nghĩa vụ là nói đến sự đối lập, tính tương ứng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nói một cách cụ thể hơn,
quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Bên

này có bao nhiêu quyền với phạm vi bao nhiêu thì bên kia sẽ
có bấy nhiêu nghĩa vụ với phạm vi tương ứng. Mặt khác, trong
quan hệ nghĩa vụ, cả chủ thể mang quyền, cả chủ thể mang
nghĩa vụ luôn luôn được xác định một cách cụ thể nên quyền
của bên này chỉ là nghĩa vụ của bên kia. Nói cách khác, mối
quan hệ về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ này không liên
quan đến người khác ngoài các chủ thể đã được xác định cụ
thể. Trong một số trường hợp, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể trong quan hệ này có thể liên quan đến người thứ ba nhưng
người thứ ba đó phải là người đã được xác định cụ thể trước.
Ví dụ, trong quan hệ cho vay, bên có quyền địi nợ là người đã
cho vay, bên có nghĩa vụ trả nợ là người vay nhưng cũng có
thể người phải trả khoản nợ đó lại là người thứ ba (là người
bảo lãnh đã được các bên xác định trước).

8


Chính từ đặc điểm này mà quan hệ pháp luật về nghĩa vụ
được coi là loại quan hệ pháp luật tương đối. Đồng thời cũng
qua đặc điểm này, chúng ta thấy rằng quan hệ pháp luật về
nghĩa vụ hoàn toàn khác với quan hệ pháp luật về sở hữu.
Trong quyền sở hữu, chỉ có chủ thể mang quyền là được xác
định cụ thể nên tất cả các chủ thể khác đều phải có nghĩa vụ
tơn trọng các quyền dân sự của chủ thể mang quyền đó. Chủ sở
hữu tự thực hiện các quyền đối với tài sản để đáp ứng các nhu
cầu của mình, vì vậy quyền đân sự trong quan hệ pháp luật về
sở hữu là quyền tuyệt đối.
Thứ ba, quan hệ nghĩa vụ là quan hệ trái quyền nên quyền
của các bên chủ thể là quyền đối nhân.

Nếu trong quan hệ sở hữu, quyền của chủ thể mang quyền
được thực hiện bằng hành vi của chính họ thì trong quan hệ
nghĩa vụ dân sự quyền của bên này lại được thực hiện thông
qua hành vi của chủ thể phía bên kia. Nói cách khác, quyền
của bên này chỉ được đáp ứng khi bên kia đã thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của họ. Mặt khác, nếu việc thực hiện quyền trong
quan hệ sở hữu là việc tác động trực tiếp đến vật thì trong
nghĩa vụ dân sự người mang quyền dân sự không được tác
động trực tiếp đến tài sản của người mang nghĩa vụ. Khi
người mang nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ đó, người
mang quyền chỉ có thể sử dụng các phương thức mà pháp luật
đã quy định để tác động và yêu cầu người đó phải thực hiện
nghĩa vụ cho mình. Nói cách khác, trong nghĩa vụ, quyền của
người này là đối với người có nghĩa vụ bên kia chứ không đối
với tài sản của họ.
2. Các yếu tố của quan hệ nghĩa vụ
2.1. Chủ thể của nghĩa vụ

9


Chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung là những người
tham gia quan hệ pháp luật đó. Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ
là những người tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, bao gồm: Cá
nhân, pháp nhân, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Các chủ thể này có những quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ quan hệ nghĩa vụ mà họ tham gia.
Các chủ thể này khi tham gia một quan hệ nghĩa vụ sẽ thiết
lập mối liên hệ pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên.
Trong đó, một bên được gọi là người có quyền, một bên được

gọi là người có nghĩa vụ.
- Bên có quyền: Là một bên trong quan hệ nghĩa vụ được
pháp luật bảo đảm quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải
thực hiện hoặc khơng được thực hiện một hoặc một số hành vi
nhất định vì lợi ích của mình.
- Bên có nghĩa vụ: Là một bên trong quan hệ nghĩa vụ buộc
phải thực hiện hoặc không được thực hiện một hoặc một số
hành vi nhất định vì lợi ích của bên có quyền.
Tuỳ theo tính chất của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà có
những quan hệ nghĩa vụ trong đó một bên chỉ có quyền u
cầu nhưng khơng phải gánh vác nghĩa vụ, cịn một bên có
nghĩa vụ thực hiện cho bên kia cơng việc nhất định mà khơng
có quyền u cầu. Những quan hệ nghĩa vụ ở dạng này được
gọi là quan hệ đơn vụ.
Mặt khác, trong phần lớn các quan hệ nghĩa vụ thì mỗi bên
chủ thể tham gia đều có quyền yêu cầu bên kia thực hiện những
hành vi nhất định nhằm đem lại lợi ích cho mình. Và ngược lại
họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm đáp ứng
lợi ích cho phía bên kia. Nghĩa là, trong những quan hệ nghĩa
vụ, mỗi bên chủ thể vừa là người có quyền, vừa là người có

10


nghĩa vụ. Những quan hệ nghĩa vụ ở dạng này được gọi là
quan hệ song vụ. Khi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
trong các quan hệ nghĩa vụ mang tính song vụ cần phải xem
xét để xác định tương ứng với hành vi nhất định, chủ thể nào là
người có nghĩa vụ thực hiện hành vi đó.
Ví dụ: Quan hệ nghĩa vụ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng

mua bán tài sản là quan hệ song vụ. Trong đó, đối với hành vi
giao vật bán thì bên bán là người có nghĩa vụ, đối với hành vi
trả tiền thì bên mua là người có nghĩa vụ.
2.2. Nội dung của nghĩa vụ
Khi tham gia quan hệ nghĩa vụ, mỗi bên hướng tới lợi ích
nhất định. Theo đó, lợi ích mà một bên hướng tới chỉ đạt được
khi bên kia thực hiện đầy đủ các hành vi mang tính nghĩa vụ
của họ. Quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự là hai yếu tố cấu
thành nội dung của quan hệ nghĩa vụ.
Vì vậy, có thể nói nội dung của quan hệ nghĩa vụ là tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ
nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nghĩa
vụ có thể do các bên tự thoả thuận xác định hoặc do luật định.
Bao gồm:
- Quyền yêu cầu: Là xử sự mà bên có quyền được phép
thực hiện theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Xử
sự được coi là quyền trong quan hệ nghĩa vụ chính là quyền
yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực
hiện những hành vi nhất định.
- Nghĩa vụ dân sự: Là xử sự bắt buộc theo thoả thuận hoặc
theo quy định của pháp luật mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
Xử sự được coi là nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ chính là
việc phải thực hiện hành vi nhất định như chuyển giao vật,

11


chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công
việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì
lợi ích của bên có quyền.

2.3. Khách thể của nghĩa vụ
Ở góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì khách
thể của quan hệ pháp luật là lợi ích mà các chủ thể hướng tới
và nhằm đạt được. Quan hệ nghĩa vụ có đặc trưng cơ bản là
quyền và nghĩa vụ của các bên ln đối lập nhau một cách
tương ứng. Vì vậy, trong các quan hệ nghĩa vụ, hướng tới
quyền lợi của mình chính là việc chủ thể có quyền ln hướng
tới hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể phía bên kia. Ngược
lại, để bên kia thực hiện lợi ích cho mình thì mỗi bên chủ thể
đều phải quan tâm và thực hiện những hành vi nhất định để
hoàn thành nghĩa vụ của mình. Nói cách khác, hành vi thực
hiện nghĩa vụ của các bên chủ thể luôn được sự quan tâm và
hướng tới của các bên chủ thể. Chẳng hạn, trong quan hệ nghĩa
vụ phát sinh từ một hợp đồng mua bán tài sản, để đạt được lợi
ích của mình, bên mua quan tâm đến hành vi giao vật bán của
bên bán, bên bán quan tâm đến hành vi trả tiền của bên mua.
Mặt khác, để bên bán giao vật bán cho mình, bên mua phải
thực hiện hành vi trả tiền, để bên mua trả tiền, bên bán phải
thực hiện hành vi giao vật. Vì vậy, hành vi thực hiện nghĩa vụ
là khách thể trong quan hệ nghĩa vụ.
Khách thể của quan hệ nghĩa vụ là những xử sự của các
bên chủ thể mà chỉ thơng qua đó, quyền u cầu cũng như
nghĩa vụ của các chủ thể mới được thực hiện.
Hành vi thực hiện nghĩa vụ là một phương tiện mà thơng
qua đó, quyền lợi của các chủ thể được thực hiện. Vì vậy,
trong các quan hệ nghĩa vụ, hành vi là cái mà các chủ thể đều

12



hướng tới, là khách thể nói chung của mọi quan hệ nghĩa vụ.
Tuy nhiên, tương ứng với sự đa dạng của các quan hệ nghĩa
vụ, hành vi là khách thể của quan hệ nghĩa vụ cũng rất đa
dạng, phong phú.
Trong nhiều quan hệ nghĩa vụ, hành vi của các chủ thể gắn
liền với một vật nhất định mà nếu không có vật đó sẽ khơng có
hành vi. Ví dụ: Nếu khơng có vật bán sẽ khơng có hành vi giao
vật bán. Vật được gắn liền với hành vi trong quan hệ nghĩa vụ,
được gọi là đối tượng của nghĩa vụ. Đối tượng của nghĩa vụ có
ý nghĩa quan trọng. Nếu thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ
của một bên, quyền của bên kia sẽ được thoả mãn thì chỉ thơng
qua tính chất, đặc điểm của đối tượng mới thấy được quyền
của bên có quyền đã được thoả mãn ở mức độ nào. Vì vậy,
trong các quan hệ nghĩa vụ mà hành vi với tư cách là khách thể
của quan hệ nghĩa vụ đó gắn liền với vật thì bên có quyền khơng
chỉ quan tâm tới hành vi mà cịn quan tâm đến vật gắn liền với
hành vi đó. Ví dụ: Trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ một hợp
đồng mua bán tài sản, người mua không chỉ quan tâm đến việc
người bán có chuyển vật bán cho mình hay khơng mà cịn quan
tâm đến vật mà người bán chuyển giao có đúng với số lượng,
chất lượng hoặc tình trạng như đã thoả thuận hay không.
Trái lại, trong các quan hệ nghĩa vụ mà hành vi của chủ thể
không gắn liền với vật thì bên có quyền chỉ cần quan tâm đến
việc thực hiện hành vi đó của chủ thể mang nghĩa vụ. Ví dụ:
Trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ một hợp đồng dịch vụ thì
bên thuê dịch vụ chỉ cần quan tâm đến việc bên cung ứng dịch
vụ thực hiện hành vi cung ứng dịch vụ như thế nào, có bảo
đảm quyền và lợi ích của mình hay khơng.
Hành vi (sự xử sự của các chủ thể) có thể được thể hiện ở


13


dạng hành động (tác vi) nhưng cũng có thể được thể hiện ở dạng
không hành động (bất tác vi). Nếu hành vi là hành động và kết
quả được tạo ra từ hành vi đó là vật cụ thể thì hành vi này được
gọi là hành vi được vật chất hoá. Trái lại, nếu kết quả đó khơng
phải là một vật cụ thể, thì hành vi này là hành vi khơng được vật
chất hố. Ngồi ra, trong nhiều trường hợp hành vi cịn tồn tại ở
dạng khơng hành động (khi đối tượng của nghĩa vụ là một
công việc không được làm). Trong những trường hợp này,
người ta quan tâm đến sự "bất động" của nhau, vì chính sự
"bất động" đó sẽ bảo đảm lợi ích cho bên có quyền.
3. Đối tượng của nghĩa vụ
3.1. Khái niệm và các loại đối tượng của nghĩa vụ
Đối tượng của nghĩa vụ là cái mà các bên tác động tới
trong việc xác lập, thực hiện quan hệ nghĩa vụ với nhau.
Trong quan hệ nghĩa vụ, hành vi của các chủ thể sẽ tác
động vào một tài sản, một cơng việc cụ thể nào đó. Những tài
sản, cơng việc này chính là đối tượng của việc thực hiện nghĩa
vụ dân sự. Tuỳ thuộc vào tính chất và nội dung của từng quan
hệ nghĩa vụ cụ thể mà đối tượng của nó có thể là một tài sản,
một công việc phải làm hoặc một công việc không được làm.
Điều 276 BLDS năm 2015 quy định:
"1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực
hiện hoặc không được thực hiện.
2. Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định”.
Từ quy định trên cho thấy, đối tượng của nghĩa vụ có thể là:

- Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản

Đa phần các nghĩa vụ dân sự đều có đối tượng là tài sản.
Tài sản trong luật dân sự được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ

14


là những vật có thực mà cịn bao gồm cả tiền, các giấy tờ trị
giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Tài sản là vật có thể là
động sản hoặc bất động sản, có thể là vật chia được hoặc là vật
khơng chia được, có thể là vật cùng loại hoặc vật đặc định, có
thể là vật được xác định theo chủng loại hay được xác định là
vật đồng bộ. Tuỳ theo tính chất của từng loại tài sản cụ thể
trong quan hệ nghĩa vụ dân sự mà các bên thoả thuận để xác
định nội dung của quan hệ nghĩa vụ.Vật là đối tượng của nghĩa
vụ có thể là vật hiện hữu (vật có thực), có thể là vật được hình
thành trong tương lai.
- Đối tượng của nghĩa vụ là công việc phải làm
Công việc phải làm được coi là đối tượng của nghĩa vụ,
nếu từ một công việc được nhiều người xác lập với nhau một
quan hệ nghĩa vụ mà theo đó, người có nghĩa vụ phải thực hiện
công việc theo đúng nội dung đã được xác định.
Cơng việc phải làm có thể được hồn thành với một kết
quả nhất định nhưng cũng có thể khơng gắn liền với một kết
quả (do các bên thoả thuận hoặc do tính chất của cơng việc).
Mặt khác, kết quả của cơng việc phải làm có thể được biểu
hiện dưới dạng một vật cụ thể nhưng cũng có thể khơng biểu
hiện dưới dạng một vật cụ thể nào (các loại dịch vụ).
Thơng thường, các quan hệ nghĩa vụ có đối tượng là công
việc phải làm là những quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ các hợp
đồng mang tính dịch vụ như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng

gửi giữ tài sản...
- Đối tượng của nghĩa vụ là công việc không được làm
Công việc không được làm là đối tượng của nghĩa vụ trong
những trường hợp các bên từ cơng việc đó xác lập với nhau

15


một quan hệ nghĩa vụ, theo đó một bên có nghĩa vụ không
được thực hiện công việc theo nội dung mà các bên đã xác định.
Ví dụ: Hai người có bất động sản liền kề nhau thoả thuận
một bên nhận ở bên kia một khoản tiền và cam kết không xây
dựng nhà trên đất của mình để khỏi che lấp nhà của bên kia
(thời hạn không được xây nhà được xác định theo thoả thuận
của hai bên).
3.2. Điều kiện đối với đối tượng của nghĩa vụ
Qua việc xem xét đối tượng của nghĩa vụ dân sự ở các
dạng cụ thể thì một tài sản, một cơng việc phải làm hoặc một
công việc không được làm chỉ được coi là đối tượng của nghĩa
vụ dân sự khi chúng thoả mãn các điều kiện sau đây:
- Phải đáp ứng được lợi ích nào đó cho chủ thể có quyền
Thơng thường, lợi ích mà chủ thể có quyền hướng tới là
một lợi ích vật chất (vật cụ thể, khoản tiền v.v.) nhưng cũng có
thể là một lợi ích tinh thần.
Để chủ thể có quyền đạt được lợi ích vật chất nếu đối
tượng của nghĩa vụ dân sự là một vật cụ thể thì vật đó phải
mang đầy đủ các thuộc tính của hàng hoá (giá trị và giá trị sử
dụng). Nếu đối tượng của nghĩa vụ là cơng việc thì việc phải
làm hoặc việc khơng được làm phải hướng tới lợi ích của
người có quyền. Khi làm hoặc khơng làm cơng việc đó sẽ đem

đến cho bên kia lợi ích nhất định.
- Phải được xác định hoặc có thể xác định được
Khi các bên giao kết hợp đồng để từ đó xác lập quan hệ
nghĩa vụ đối với nhau, phải xác định rõ đối tượng của nghĩa vụ
là cơng việc hay vật gì. Trong trường hợp nghĩa vụ được thiết
lập theo quy định của pháp luật thì đối tượng đã được pháp luật

16


xác định rõ trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ ấy.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ là vật thì các bên phải xác định
rõ về số lượng, trọng lượng, khối lượng, tính chất, tình trạng
của tài sản thơng qua việc kiểm đếm và các giấy tờ liên quan
(nếu có). Nếu là tài sản hình thành trong tương lai thì phải có
các giấy tờ liên quan xác định cụ thể về tài sản đó và các căn
cứ để chứng minh tài sản đó chắc chắn sẽ hình thành và khi
hình thành sẽ thuộc sở hữu của một trong các bên. Nếu là giấy
tờ có giá hoặc quyền tài sản thì bên đưa tài sản đó làm đối
tượng của nghĩa vụ phải có đầy đủ bằng chứng chứng minh tài
sản đó thuộc sở hữu của mình.
- Đối tượng của nghĩa vụ có thể thực hiện được
Nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự là việc không thể thực
hiện được sẽ không thoả mãn được lợi ích của chủ thể có
quyền. Vì vậy, nếu đối tượng là tài sản thì phải là những tài sản
có thể đem giao dịch được, nếu là cơng việc thì phải là những
cơng việc có thể thực hiện được.
Khi xem xét đối tượng của nghĩa vụ có thể thực hiện được
hay không cần xác định theo hai vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định theo đặc tính của bản thân đối tượng,

đối tượng vốn dĩ là vật không thể xác định được hoặc nếu đối
tượng là công việc nhưng về bản chất đó là cơng việc khơng
thể thực hiện được sẽ không thể đem giao dịch.
Thứ hai, do pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội. Những
tài sản mà pháp luật cấm giao dịch, những công việc mà pháp
luật cấm làm hoặc những việc nếu làm sẽ trái với đạo đức xã
hội cũng là những đối tượng khơng thể thực hiện được. Vì vậy,
nó khơng bao giờ được coi là đối tượng của nghĩa vụ dân sự.
Ví dụ: Thuốc phiện là một vật có thực nhưng khơng thể đem

17


giao dịch được vì đã bị pháp luật cấm lưu thơng.
Mặt khác, một người chỉ có thể dùng tài sản làm đối tượng
giao dịch nếu họ là chủ sở hữu của tài sản, là người được chủ
sở hữu uỷ quyền giao dịch hoặc là người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
II. CÁC LOẠI NGHĨA VỤ
Như đã xác định ở phần trước, chủ thể của nghĩa vụ là
những người tham gia quan hệ nghĩa vụ. Họ đứng về hai phía và
có quyền, nghĩa vụ dân sự đối lập nhau một cách tương ứng.
Một quan hệ nghĩa vụ được hình thành làm phát sinh mối liên
hệ về quyền và nghĩa vụ giữa ít nhất là hai người đứng ở hai
phía đối lập nhau (một người có quyền, một người có nghĩa vụ)
nhưng cũng có thể mối liên hệ đó là giữa nhiều người đối với
nhau (nhiều người có quyền, nhiều người có nghĩa vụ). Đồng
thời cũng có nhiều quan hệ nghĩa vụ mà quyền, nghĩa vụ liên
quan đến cả người thứ ba. Căn cứ vào chủ thể tham gia, tính
chất, đặc điểm, nội dung và phương thức thực hiện nghĩa vụ

mà nghĩa vụ có thể được phân thành các loại sau đây:
1. Nghĩa vụ một người
Nghĩa vụ một người là nghĩa vụ mà trong đó, mỗi bên chủ
thể chỉ có một người tham gia. Nghĩa vụ một người chỉ tồn tại
ở một dạng duy nhất là: Một người có nghĩa vụ đối với một
người có quyền. Vì vậy, việc xác định quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong các quan hệ nghĩa vụ này hết sức đơn giản
bởi theo đặc điểm của nghĩa vụ thì quyền của bên này là nghĩa
vụ của bên kia và ngược lại. Tuy nhiên, nếu là quan hệ song vụ
thì cần xác định ai là người có quyền, ai là người có nghĩa vụ
tương ứng với từng hành vi cụ thể.
2. Nghĩa vụ nhiều người

18


Nghĩa vụ nhiều người là nghĩa vụ mà trong đó, một bên
chủ thể có nhiều người tham gia.
Nghĩa vụ nhiều người có thể là một trong các dạng sau:
- Nhiều người có nghĩa vụ đối với một người có quyền;
- Nhiều người có quyền đối với một người có nghĩa vụ;
- Nhiều người có nghĩa vụ đối với nhiều người có quyền.
Trong những trường hợp này, cần phải xác định rõ phạm vi
quyền yêu cầu của mỗi một người có quyền đối với người có
nghĩa vụ, cũng như phạm vi nghĩa vụ mà từng người có nghĩa
vụ phải thực hiện trước người có quyền. Mặt khác, cần phải
xác định giữa những người có nghĩa vụ hoặc giữa những người
có quyền có mối liên quan như thế nào trong q trình cùng
nhau thực hiện nghĩa vụ hoặc cùng nhau hưởng quyền. Vì vậy,
đối với các quan hệ nghĩa vụ nhiều người cần phải xác định là

nghĩa vụ riêng rẽ hay nghĩa vụ liên đới.
3. Nghĩa vụ dân sự riêng rẽ
Điều 287 BLDS năm 2015 quy định: "Khi nhiều người cùng
thực hiện một nghĩa vụ, nhưng mỗi người có một phần nghĩa vụ
nhất định và riêng rẽ thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa
vụ của mình".
Nghĩa vụ dân sự riêng rẽ là loại nghĩa vụ nhiều người, trong
đó mỗi một người trong số những người có nghĩa vụ chỉ phải
thực hiện phần nghĩa vụ của mình hoặc mỗi người trong số
những người có quyền chỉ có thể yêu cầu người có nghĩa vụ
thực hiện nghĩa vụ cho riêng phần quyền của mình.
Bản chất của loại nghĩa vụ này là khơng có sự liên quan lẫn
nhau giữa những người cùng thực hiện nghĩa vụ, cũng như
khơng có sự liên quan trong việc thực hiện quyền yêu cầu của

19


những người có quyền. Nếu nhiều người có nghĩa vụ thì nghĩa
vụ được xác định thành từng phần và mỗi người thực hiện
nghĩa vụ theo phần của mình một cách riêng rẽ. Người nào
thực hiện xong nghĩa vụ của mình thì quan hệ nghĩa vụ giữa
người đó với người có quyền sẽ chấm dứt (họ không phải chịu
trách nhiệm đối với phần nghĩa vụ mà những người có nghĩa
vụ khác chưa thực hiện). Nếu nhiều người có quyền thì mỗi
người chỉ có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa
vụ cho riêng phần quyền của mình (khơng được phép u cầu
người có nghĩa vụ phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ). Khi một
trong số những người có quyền đó nhận được sự thực hiện
nghĩa vụ đối với phần quyền cuả mình thì quan hệ nghĩa vụ

giữa người đó với người có nghĩa vụ được coi là chấm dứt.
Quan hệ nghĩa vụ giữa người có nghĩa vụ với những người có
quyền khác vẫn tồn tại và vẫn có hiệu lực.
4. Nghĩa vụ dân sự liên đới
Để quyền dân sự của các chủ thể được bảo đảm, trong một
số trường hợp, nghĩa vụ nhiều người sẽ được xác định là nghĩa
vụ dân sự liên đới nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có
quy định. Mục đích của việc xác định một nghĩa vụ liên đới
khi có nhiều người tham gia quan hệ nghĩa vụ là buộc những
người có nghĩa vụ phải cùng nhau gánh vác toàn bộ nghĩa vụ
nhằm bảo đảm quyền lợi cho chủ thể có quyền được trọn vẹn, kể
cả khi có một trong số những người có nghĩa vụ khơng có khả
năng thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, trong quan hệ nghĩa vụ liên đới,
những người có nghĩa vụ ln ln liên quan với nhau trong cả
q trình thực hiện tồn bộ nghĩa vụ cũng như quyền u cầu
của những người có quyền ln được coi là một thể thống
nhất.

20


Nghĩa vụ dân sự liên đới là loại nghĩa vụ nhiều người,
trong đó, một trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện
toàn bộ nội dung của nghĩa vụ hoặc một trong số những người
có quyền đều có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có
nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
5. Nghĩa vụ theo phần
Đối tượng của nghĩa vụ dân sự hết sức đa dạng, mỗi loại
đối tượng cụ thể có những đặc điểm và tính chất khác nhau. Do
đó, tuỳ thuộc đối tượng như thế nào mà nghĩa vụ dân sự đó có

thể là nghĩa vụ phân chia được theo phần hoặc là nghĩa vụ
không phân chia được theo phần.
Nếu đối tượng của nghĩa vụ là một vật được xác định và vật
đó là vật khơng chia được hoặc đối tượng là một cơng việc mà
theo tính chất cơng việc đó phải được thực hiện cùng một lúc thì
được gọi là nghĩa vụ không phân chia được theo phần. Ngược
lại, nếu đối tượng của nghĩa vụ là một vật chia được hoặc cơng
việc có thể thực hiện theo từng phần khác nhau thì được gọi là
nghĩa vụ phân chia được theo phần (nghĩa vụ theo phần).
6. Nghĩa vụ hoàn lại
Luật thực định khơng có định nghĩa về nghĩa vụ hồn lại.
Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, từ quy định của pháp luật đã
làm hình thành một nghĩa vụ mới sau một nghĩa vụ trước đó.
Chẳng hạn tại khoản 2 Điều 288 BLDS năm 2015 đã quy định:
"Trường hợp một người đã thực hiện tồn bộ nghĩa vụ thì có
quyền u cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực
hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình”.
Trong khoa học pháp lí, thuật ngữ nghĩa vụ hồn lại được
dùng để chỉ những nghĩa vụ phát sinh từ một nghĩa vụ khác. Vì

21


vậy, nghĩa vụ hồn lại có thể được hiểu như sau:
Nghĩa vụ hoàn lại là một quan hệ nghĩa vụ, trong đó một
bên có quyền yêu cầu bên kia (người có nghĩa vụ) thanh tốn
lại khoản tiền hoặc lợi ích vật chất khác mà người có quyền đã
thay người có nghĩa vụ thực hiện cho người khác hoặc một bên
có nghĩa vụ phải hồn trả cho bên có quyền khoản tiền hay lợi
ích vật chất mà họ đã nhận được từ người khác trên cơ sở

quyền yêu cầu của bên có quyền.
Thơng thường, từ một nghĩa vụ dân sự liên đới có thể làm
phát sinh nghĩa vụ hồn lại theo một trong hai trường hợp sau đây:
- Khi một trong số những người có nghĩa vụ liên đới đã
thực hiện tồn bộ nghĩa vụ thì người đó trở thành người có
quyền trong quan hệ nghĩa vụ hồn lại, có quyền yêu cầu
những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thanh tốn cho
mình khoản tiền hoặc lợi ích vật chất mà người đó đã bỏ ra để
thay họ thực hiện cho người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ
dân sự liên đới trước đó.
- Khi một trong số những người có quyền liên đới đã nhận
việc thực hiện tồn bộ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ thì
người đó trở thành người có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ
hồn lại. Người đã nhận việc thực hiện toàn bộ nghĩa vụ có
nghĩa vụ hồn lại cho mỗi người có quyền liên đới khác khoản
lợi ích vật chất mà người này đã thay họ để nhận từ người có
nghĩa vụ trong nghĩa vụ dân sự liên đới trước đó.
Ngồi ra, theo quy định của BLDS, nghĩa vụ hồn lại cịn
phát sinh trong các trường hợp sau:
- Nghĩa vụ hoàn lại phát sinh từ một nghĩa vụ trước trong
trường hợp nghĩa vụ trước có thoả thuận biện pháp bảo lãnh.

22


Trường hợp này được quy định tại Điều 340 BLDS năm 2015:
“Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực
hiện, trừ trường hợp có thoả thuận khác".
- Nghĩa vụ hồn lại phát sinh giữa người của pháp nhân với

pháp nhân sau khi pháp nhân đã bồi thường cho người bị thiệt
hại do người của pháp nhân gây ra được quy định tại Điều 597
BLDS năm 2015: "Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do
người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được
pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có
quyền u cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn
trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật".
- Nghĩa vụ hoàn lại phát sinh giữa người thi hành công vụ
theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Theo luật này, người thi hành cơng vụ gây thiệt hại phải hồn
lại cho ngân sách nhà nước một khoản tiền theo quy định của
pháp luật.
- Nghĩa vụ hoàn lại phát sinh giữa người làm công, học
nghề với chủ làm công, dạy nghề sau khi chủ làm công, dạy
nghề đã bồi thường cho người bị thiệt hại do người làm công
gây ra trong khi thực hiện cơng việc được giao.
Nghĩa vụ hồn lại mang một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, nghĩa vụ hoàn lại bao giờ cũng phát sinh từ một
nghĩa vụ cơ bản khác. Nó khơng thể phát sinh với ý nghĩa là
một nghĩa vụ đầu tiên.
Thứ hai, trong nghĩa vụ hồn lại bao giờ cũng có một
người liên quan đến cả hai quan hệ nghĩa vụ. Người đó, nếu là
người đã thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ trước thì trong quan
hệ nghĩa vụ hồn lại họ là người có quyền. Ngược lại, nếu

23


trong quan hệ trước đó họ là người đã hưởng quyền thì ở nghĩa
vụ hồn lại họ là người có nghĩa vụ.

Thứ ba, nếu nghĩa vụ hoàn lại là nghĩa vụ nhiều người thì
theo ngun tắc, nghĩa vụ đó được xác định là nghĩa vụ riêng
rẽ. Người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ hồn lại chỉ có thể
địi từng người có nghĩa vụ hồn lại cho mình phần mà mình
đã thực hiện thay cho người đó. Nếu một người đã hưởng
quyền dân sự trên cơ sở quyền yêu cầu của nhiều người thì mỗi
người trong số họ chỉ có quyền u cầu người đó hồn lại cho
phần quyền của riêng mình.
7. Nghĩa vụ bổ sung
Thuật ngữ “bổ sung” cho thấy chức năng của nghĩa vụ này
là thực hiện phần nội dung của nghĩa vụ chính trước đó khi đến
thời hạn mà nghĩa vụ chính khơng được thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ. Như vậy, nghĩa vụ bổ sung
bao giờ cũng có mối liên quan đối với một nghĩa vụ chính. Nói
cách khác, nghĩa vụ bổ sung làm cho quyền và nghĩa vụ dân sự
không chỉ là mối liên hệ giữa hai bên trong một quan hệ nghĩa
vụ mà còn liên quan đến cả người thứ ba.
Khoa học pháp lí dùng thuật ngữ nghĩa vụ bổ sung để chỉ
nghĩa vụ của người thứ ba đối với người có quyền trong quan
hệ nghĩa vụ chính. Người thứ ba chỉ có nghĩa vụ khi có sự thoả
thuận giữa họ với người có quyền hoặc trong những trường
hợp mà pháp luật quy định.
Chẳng hạn, sự thoả thuận giữa các bên trong quan hệ bảo
lãnh là căn cứ làm xuất hiện một nghĩa vụ bổ sung. Trong
trường hợp này, bên cạnh quan hệ nghĩa vụ giữa người có
quyền với người có nghĩa vụ (được gọi nghĩa vụ chính) cịn có

24



mối quan hệ nghĩa vụ giữa người có quyền với người bảo lãnh
(gọi là nghĩa vụ bổ sung). Xét về mối liên quan giữa nó với
nghĩa vụ chính thì nghĩa vụ này cịn được gọi là nghĩa vụ phụ.
Vì rằng người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho
người được bảo lãnh nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà
người có nghĩa vụ chính khơng thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Mặt khác, hiệu lực của loại
nghĩa vụ này phụ thuộc vào hiệu lực của nghĩa vụ chính. Ví dụ:
Nếu hợp đồng cho vay bị coi là vơ hiệu thì vấn đề bảo lãnh
cũng bị coi là vô hiệu (trừ trường hợp hợp đồng vay tài sản đã
được thực hiện).
III. THAY ĐỔI CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ NGHĨA VỤ
Trong một quan hệ nghĩa vụ, các bên là người trực tiếp thực
hiện nghĩa vụ và trực tiếp hưởng quyền theo nội dung của quan
hệ ấy trong suốt quá trình kể từ khi quan hệ nghĩa vụ được xác
lập cho đến khi chấm dứt hoàn toàn. Tuy nhiên, rất nhiều trường
hợp, để tiện lợi trong việc thực nghĩa vụ hoặc vì những lí do
nhất định, các bên có thể thoả thuận cho một người thứ ba thay
thế một trong hai bên. Người thứ ba này có thể là người kế tục
pháp lí về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trước (họ sẽ là
người thế quyền nếu thay thế người có quyền, là người thế
nghĩa vụ nếu thay thế người có nghĩa vụ). Mặt khác, người thứ
ba có thể chỉ là người thực hiện nghĩa vụ thay cho người có
nghĩa vụ hoặc thực hiện quyền yêu cầu thay cho người có
quyền trên cơ sở sự uỷ quyền của những người này.
Như vậy, sẽ có sự thay đổi về chủ thể của một quan hệ
nghĩa vụ trong những trường hợp sau đây:
1. Chuyển giao quyền yêu cầu
Chuyển giao quyền yêu cầu là sự thoả thuận giữa người có


25


×