Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.16 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRỊNH THỊ THU HẢI

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRỊNH THỊ THU HẢI

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Thị Hải Yến

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
Tác giả luận văn

Trịnh Thị Thu Hải


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
SHTT

: Sở hữu trí tuệ

SHCN

: Sở hữu công nghiệp

BLDS


: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ .. 6
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ ........................................................... 6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ............................. 6
1.1.2. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ ......................................................... 9
1.2. Khái quát về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ...... 11
1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ....... 11
1.2.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ ............................................................................................................ 12
1.2.3. . Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ .................................................................................................. 14
1.3. Quy định Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ ........................................................................................... 16
1.3.1. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong một
số Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên ...................................... 16
1.3.2. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong quy
định của pháp luật Việt Nam .................................................................... 20
Chương 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ......................................... 22
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm

quyền sở hữu trí tuệ...................................................................................... 22
2.2. Xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ .......................... 41
2.2.1 Xác định thiệt hại về vật chất .......................................................... 42
2.2.2. Xác định thiệt hại về tinh thần ........................................................ 50
2.2.3. Căn cứ xác định mức bồi thường do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ . 51
2.2.4. Sự tương thích giữa Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam và pháp luật quốc tế ............................. 58


Chương 3. THỰC TIỄN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ HƯỚNG HỒN THIỆN ...................... 61
3.1. Tình hình thực thi pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ...................................................................................... 61
3.2. Đánh giá tình hình thực thi pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ............................................................................ 74
3.2.1. Mặt tích cực ................................................................................... 74
3.2.2. Mặt hạn chế .................................................................................... 77
3.3. Hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ .................................................................................. 87
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 94


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh gay gắt hiện nay, tài
sản trí tuệ ngày càng trở nên có giá trị và là một cơng cụ chiến lược để phát
triển đối với mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, khơng giống tài sản hữu hình, tài
sản trí tuệ mang bản chất vơ hình, khơng thể nắm giữ và có thể di chuyển tự
do sau khi được cơng bố cơng khai mà khơng bị phát hiện. Do đó, việc chiếm
đoạt, sử dụng trái phép quyền sở hữu trí tuệ của người khác có thể mang lại

lợi nhuận lớn, đồng thời khó bị phát hiện, xử lý, khiến cho tình trạng sản xuất,
bn bán hàng hóa giả mạo, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể diễn ra
phổ biến khơng chỉ trong mỗi quốc gia mà cịn lan sang quốc gia khác, gây
thiệt hại cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Vấn đề bảo hộ, thực thi quyền sở
hữu trí tuệ khơng chỉ là vấn đề riêng của mỗi quốc gia mà còn là vấn đề chung
mang tính tồn cầu.
Việt Nam trên con đường phát triển đất nước cũng khơng nằm ngồi quy
luật của thế giới. Tuy nhiên, biện pháp được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ ở Việt Nam chủ yếu là biện pháp hành chính. Trong khi đó, trên thế
giới hiện nay, biện pháp dân sự mới được coi là cơ chế bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ phổ biến và hữu hiệu nhất. Ngay ở hệ thống pháp luật của Việt Nam,
chúng ta cũng có thể nhận thấy biện pháp dân sự đã thể hiện được những ưu
thế riêng so với biện pháp hành chính và biện pháp hình sự. Nếu như biện
pháp hành chính và biện pháp hình sự chỉ có ý nghĩa ngăn chặn hành vi xâm
phạm, áp dụng các chế tài hành chính hay hình sự nhằm răn đe, giáo dục các
đối tượng vi phạm thì trong biện pháp dân sự, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ
bên cạnh quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm cịn có quyền u cầu bồi
thường thiệt hại đối với những thiệt hại thực tế do hành vi xâm phạm gây ra
cả về vật chất lẫn tinh thần.

1


Đây chính là biện pháp bồi thường thiệt hại, một trong những biện pháp
dân sự về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, biện pháp này rất ít được áp
dụng trong thực tế. Lần đầu tiên, những quy định riêng về bồi thường thiệt hại
do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ
2005. Cịn trước đó, quy định về bồi thường thiệt hại liên quan đến sở hữu trí
tuệ được áp dụng theo Bộ luật dân sự. Chính vì vậy, việc tìm hiểu những quy
định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đối với vấn đề bồi thường thiệt hại

do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng như việc áp dụng, thực hiện
các quy định này trong thực tiễn đều rất cần thiết. Từ đó có thể đưa ra những
hướng hồn thiện nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của biện pháp bồi thường
thiệt hại trong thực tế.
Do đó, việc lựa chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ và hướng hồn thiện” làm đề tài luận văn Thạc
sỹ luật học mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay tại Việt Nam có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ như:
Năm 2011, đề tài “Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”, khóa luận tốt nghiệp của
tác giả Đinh Thị Thúy Vân, trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài tập trung vào
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Năm 2012, đề tài “Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, khóa luận tốt nghiệp của tác
giả Ngô Thị Thu Huyền, trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài nghiên cứu các
vấn đề lý luận về quyền sở hữu trí tuệ, xác định thiệt hại do xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ, nguyên tắc bồi thường và thực tiễn xử lý thơng qua hoạt động
của tịa án.

2


Năm 2014, đề tài “Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả theo
pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hường, Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp
luật và đánh giá việc áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự, trong đó có vấn
đề bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm trong lĩnh vực quyền tác giả.

Ngồi ra cịn một số bài nghiên cứu liên quan về vấn đề này như: “Một
số vấn đề về chế định bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ,
Trương Hồng Quang – nghiên cứu viên, Viện khoa học pháp lý, Bộ tư pháp”;
“Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về
bồi thường thiệt hại trong vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, do cán bộ
phịng pháp chế và chính sách - Cục sở hữu trí tuệ thực hiện”; “Bồi thường
thiệt hại do giảm sút thu nhập, lợi nhuận khi có hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ - Tạp chí khoa học pháp lý số 2/2015, trang 27-35), trường Đại học
luật thành phố Hồ Chí Minh”; “Bồi thường thiệt hại do tổn thất cơ hội kinh
doanh khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ - Tạp chí khoa học pháp
lý, số 4/2016, trang 18-28”. Các bài viết tập trung nghiên cứu những nội dung
cụ thể, những thiệt hại cụ thể do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, dẫn
đến việc phải bồi thường thiệt hại do các hành vi đó.
Có thể nói, vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
có đối tượng và phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung phức tạp. Do đó, mặc
dù đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này nhưng đây là vấn
đề vẫn cần tiếp tục được chuyên sâu hơn nữa, đặc biệt là từ thực tiễn thực thi
các quy định sẽ cho thấy những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật, từ đó
tìm ra phương hướng, làm cơ sở để góp phần hồn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu quy định của
pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí

3


tuệ, đồng thời đưa ra dẫn chứng cho việc áp dụng quy định trong thực tế
thông qua vụ việc cụ thể, đã được giải quyết tại Tịa án, từ đó chỉ ra
những mặt tích cực, hạn chế trong việc thực thi quy định pháp luật, đồng

thời đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về bồi thường thiệt hại do
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Việc phân tích, đánh giá các quy định pháp luật là công việc cần
thiết, nghiên cứu thực trạng thực thi để từ đó đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả của biện pháp bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài, tác giả sử dụng ba phương pháp nghiên cứu chính, bao
gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh. Trong đó phương pháp phân tích và tổng
hợp được sử dụng chủ yếu.
Phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu để phân tích các vấn đề
lý luận quy định của pháp luật, tìm ra mối liên hệ từ quy định của pháp
luật đến thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, phương pháp tổng hợp giúp xác
định, đưa ra những đánh giá, kết luận về những yếu tố, sự kiện liên quan
đến vấn đề nghiên cứu. Phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu để đặt
trong mối liên hệ giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên
thế giới.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn làm rõ được quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phân tích một số vấn đề lý luận, quy
định pháp luật liên quan làm cơ sở để tác giả nghiên cứu thực trạng thực hiện
quy định pháp luật. Từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi
quyền sở hữu trí tuệ.

4


6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được cơ cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ và Bồi thường thiệt hại do
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Chương 2: Pháp luậtViệt Nam về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ
Chương 3: Thực tiễn bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ và hướng hồn thiện

5


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1.

Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ
Khái niệm “quyền sở hữu trí tuệ” liên quan chặt chẽ đến khái niệm “trí
tuệ”, “tài sản trí tuệ”.
Xét về ngữ nghĩa thì“Trí tuệ là một tổ hợp bao gồm khả năng khái qt
hóa thơng tin (biến thơng tin thành tri thức), năng lực suy luận, tưởng tượng,
sáng tạo và quan trọng nhất là khả năng nhận thức bản chất thật sự của sự
vật, hiện tượng, từ đó cho ra đời những tài sản trí tuệ phi vật chất vơ cùng
q giá như tác phẩm văn học, các cơng trình khoa học kỹ thuật ứng
dụng…có giá trị kinh tế, tinh thần to lớn góp phần quan trọng trong q trình
hình thành và phát triển nền văn minh, khoa học, công nghệ của nhân loại.
Quyền sở hữu các tài sản trí tuệ này sẽ thuộc về một ngời, một nhóm người
hoặc một tổ chức nhất định”1. Hay nói cách khác, “Trí tuệ là khả năng nhận

thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định”.
Tài sản trí tuệ được hiểu là “tất cả các sản phẩm của hoạt động trí tuệ: các
ý tưởng, các tác phẩm sáng tạo văn học/nghệ thuật, các công trình khoa học,
các sáng chế…phần mềm máy tính… Tài sản trí tuệ là một dạng tài sản vơ hình.
Ngồi các đặc tính chung như các dạng tài sản vơ hình khác, các tài sản trí tuệ
lại có các đặc tính riêng, đó là tính sáng tạo và đổi mới (là một đối tượng mới
được tạo ra hoặc là một đối tượng đã có nhưng được bổ sung cái mới)”2.
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với những tài sản
trí tuệ do con người sáng tạo. Đó là độc quyền được trao cho một người, một
nhóm người hoặc một tổ chức để khai thác, sử dụng, định đoạt những sản
1
2

/>Hội thảo “Kỹ thuật xác định giá trị tài sản trí tuệ” – Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh (04/12/2013)

6


phẩm của hoạt động sáng tạo trí tuệ3. Theo tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO) thì “Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan tới các tác
phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học; chương trình biểu diễn của các nghệ
sĩ, các bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền hình; sáng chế trong
tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người; các phát minh khoa học; các
kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ
dẫn và tên thương mại; bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh và tất cả
các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực cơng nghiệp,
khoa học, văn học hoặc nghệ thuật”4.
Tại Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ được định nghĩa theo Luật sở hữu trí
tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) như sau: “Quyền sở hữu trí tuệ là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và

quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối
với giống cây trồng”. Trong đó: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”; “Quyền liên quan
đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”; “Quyền sở hữu cơng nghiệp
là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí
mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh
không lành mạnh”; “Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát
triển hoặc được hưởng quyền sở hữu”.
Từ khái niệm trên có thể đưa ra một số đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ:
Thứ nhất, khách thể của quyền sở hữu trí tuệ là tài sản trí tuệ. Tài sản trí
tuệ là một loại tài sản vơ hình. Xuất phát từ đặc tính vơ hình của tài sản trí
3

Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb. Giáo dục Việt Nam, tr.11

4

Hội thảo “Kỹ thuật xác định giá trị tài sản trí tuệ” – Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh (04/12/2013)

7


tuệ, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ khó kiểm sốt tài sản trí tuệ và khó ngăn
chặn chủ thể khác khai thác, sử dụng loại tài sản này. Việc bảo vệ tài sản vơ
hình chủ yếu được thực hiện thông qua thừa nhận hệ thống các quyền dành
cho tác giả, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và các chủ thể liên quan khác.

Cũng do tính chất vơ hình của tài sản trí tuệ nên đây là đối tượng dễ bị xâm
phạm và khó bảo vệ hơn các loại tài sản thông thường.
Thứ hai, về căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ. Có thể nói,
quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm pháp lý, là một loại quyền hợp pháp của
chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ. Quyền được coi là hợp pháp khi nó phát
sinh/được xác lập phù hợp với quy định của pháp luật về điều kiện (về nội
dung, về cách thức ra đời/tồn tại của tài sản trí tuệ, về quan hệ giữa chủ thể sở
hữu với tài sản trí tuệ) và thời điểm phát sinh quyền. Tại hầu hết các nước,
pháp luật quy định có hai nhóm căn cứ phát sinh quyền sở hữu trí tuệ: (i)
nhóm quyền phát sinh một cách tự nhiên và (ii) nhóm quyền phát sinh trên cơ
sở đăng ký. Quyền phát sinh một cách tự nhiên là quyền tự động phát
sinh/được xác lập cùng với sự ra đời của tài sản trí tuệ nếu đáp ứng một số
điều kiện nào đó mà không cần thực hiện một thủ tục pháp lý nào. Ngược lại,
quyền thuộc nhóm thứ hai chỉ phát sinh/được xác lập khi thực hiện thủ tục
đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật.
Thứ ba, Quyền sở hữu trí tuệ mang bản chất của quyền tài sản, đồng thời
có sự kết hợp giữa quyền tài sản và quyền nhân thân. Quyền sở hữu trí tuệ là
một loại tài sản được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quyền này được nhà
nước trao cho chủ sở hữu hữu hoặc cơng nhận cho chủ sở hữu có được và nhà
nước bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo Điều 105 BLDS
2015 thì “Tài sản” được hiểu bao gồm “vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản”. Đồng thời Điều 115 Bộ luật này quy định “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Với tư cách là một đạo luật

8


chuyên ngành, Luật SHTT 2005 đã có quy định cụ thể hơn, thể hiện sự tiếp
cận của pháp luật nước ta, ghi nhận “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ

chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ” (Điều 4 Luật SHTT 2005).
Quyền sở hữu trí tuệ cũng mang tính chất nhân thân. Các quyền nhân
thân thực chất là các quyền tinh thần gắn bó mật thiết và khơng thể tách rời
với chính bản thân các tác giả - những người trực tiếp sáng tạo ra các sản
phẩm trí tuệ. Quyền nhan thân được bảo hộ vơ thời hạn và trong một số
trường hợp là không thể chuyển giao
1.1.2. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ
Tại Việt Nam, có nhiều tiêu chí để phân loại quyền sở hữu trí tuệ. Tuy
nhiên phổ biến nhất là phân loại theo lĩnh vực thì quyền sở hữu trí tuệ được
hiểu gồm: (i) quyền tác giả, quyền liên quan (đến quyền tác giả); (ii) quyền sở
hữu công nghiệp; (iii) quyền đối với giống cây trồng.
Quyền sở hữu trí tuệ

Quyền tác giả, quyền liên
quan
-Tác phẩm văn học
-Tác phẩm nghệ thuật
-Tác phẩm khoa học
-Phần mềm máy tính
-Cơ sở dữ liệu
- Cuộc biểu diễn, trình diễn
- Bản ghi âm, ghi hình
- Chương trình phát song
- Tín hiệu vệ tinh mang
chương trình được mã hóa

Quyền SHCN
- Sáng chế
- Kiểu dáng cơng
nghiệp

- Thiết kế bố trí
mạch tích hợp
bán dẫn
- Nhãn hiệu
- Tên thương mại
- Chỉ dẫn địa lý
- Bí mật kinh
doanh

9

Quyền đối với
giống cây trồng
Giống cây trồng mới


Từ sự phân loại trên, có thể nêu một số đặc điểm cơ bản của các đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ nêu trên như sau:
- Quyền tác giả: quyền tác giả được bảo hộ không phụ thuộc vào nội
dung và giá trị nghệ thuật. Pháp luật quyền tác giả không đưa ra bất kỳ điều
kiện nào về nội dung và giá trị nghệ thuật để tác phẩm được bảo hộ. Quyền
tác giả bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm và được bảo hộ tự động. tác phẩm
chính là những ý tưởng sáng tạo của cá nhân được thể hiện dưới hình thức vật
chất nhất định và được pháp luật về quyền tác giả thừa nhận, bảo vệ. Việc
thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả sẽ giúp giảm nhẹ nghĩa vụ chứng
minh cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả khi có hành vi xâm phạm quyền
tác giả gây ra.
- Quyền liên quan: quyền liên quan có mối liên hệ chặt chẽ với quyền
tác giả. Cụ thể, quyền liên quan phát sinh trên cơ sở quyền tác giả. Những
sáng tạo trí tuệ tồn tại dưới dạng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học

chính là cơ sở để chủ thể quyền liên quan tiến hành các hoạt động nghề
nghiệp của mình. Hoạt động nghề nghiệp này là cơ sở để phát sinh quyền liên
quan. Quyền liên quan được bảo hộ trong thời hạn nhất định. Theo quy định
tại Điều 34 Luật sở hữu trí tuệ 2009 thì thời hạn này là 50 năm. Đây là điểm
khác biệt của quyền liên quan so với quyền tác giả. Đối với quyền tác giả,
quyền tài sản được bảo hộ có thời hạn và một số quyền nhân thân được bảo
hộ vô thời hạn.
- Quyền sở hữu công nghiệp: đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp
gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh. Quyền sở hữu công nghiệp được
bảo hộ thông qua thủ tục đăng ký, được thừa nhận và bảo vệ khi được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ. Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp là một trong những nội dung được ghi nhận trong văn bằng bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp. Tùy thuộc đối tượng sở hữu cơng nghiệp,
qun sở hữu cơng nghiệp có thể được bảo hộ với thời hạn xác định hoặc bảo
hộ không xác định thời hạn.

10


- Quyền đối với giống cây trồng: đối tượng của quyền đối với giống
cây trồng gắn liền với hoạt động sản xuất nông – lâm nghiệp, cụ thể là vật liệu
nhân giống và vật liệu thu hoạch. Để được bảo hộ quyền đối với giống cây
trồng, nhiều điều kiện cần phải thỏa mãn: Giống cây trồng được bảo hộ là
giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển, thuộc Danh mục
loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn ban hành, có tính mới, tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định và có
tên phù hợp (Điều 158 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
1.2.

Khái quát về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở


hữu trí tuệ
1.2.1.

Khái niệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng của pháp
luật dân sự các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng cho những người bị thiệt hại từ hành vi vi phạm nghĩa
vụ của chủ thể khác5.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quan niệm pháp lý của Việt Nam
được hiểu là hình thức trách nhiệm dân sự mang tính tài sản áp dụng dối với
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại nhằm bù đắp những tổn
thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại6. Trong BLDS 2015, vấn đề
trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng được quy định thành một chương
riêng (chương XX).
Bồi thường thiệt hại là một biện pháp dân sự quan trọng và hữu hiệu
được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
cũng được hiểu là hình thức trách nhiệm dân sự mang tính tài sản áp dụng đối
5

Về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt
Nam, TS.Đinh Thị Mai Phương, Viện Khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, Nxb.Chính trị quốc gia, tr.23
6
Về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt
Nam, TS.Đinh Thị Mai Phương, Viện Khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, Nxb.Chính trị quốc gia, tr.24

11



với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ gây thiệt hại nhằm
bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại.
1.2.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ
Thứ nhất, bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về mặt
bản chất cũng là một loại trách nhiệm dân sự, bởi vậy nó cũng mang đầy đủ
những dặc điểm của bồi thường thiệt hại trong dân sự như sau:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
mang đặc tính của trách nhiệm dân sự. Bồi thường thiệt hại là một biện pháp
dân dự nhằm khơi phục lại tình trạng ban đầu của chủ thể bị thiệt hại. Do vậy,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mang đầy
đủ đặc điểm và tính chất của một trách nhiệm dân sự.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
có thể phát sinh theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường
theo hợp đồng là trách nhiệm bồi thường phát sinh giữa các bên do sự vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng và gây thiệt hại. Ví dụ trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại này thường có trong các quan hệ về
chuyển quyền xử dụng (li – xăng) đối tượng sở hữu công nghiệp, chuyển
nhượng quyền sở hữu cơng nghiệp. Cịn trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh giữa các chủ thể khơng có quan hệ
hợp đồng, việc gây thiệt hại không phụ thuộc vào hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sử hữu trí tuệ phát sinh trên cơ
sở những điều kiện do pháp luật quy định, đó là có thiệt hại xảy ra, có hành vi
trái pháp luật, có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Trong BLDS 2005, yếu tố lỗi có một vai trị quan trọng trong việc xác định các
căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, cịn trong
BLDS 2015, hành vi gây thiệt hại lại được chú trọng hơn. Điều này là hợp lý bởi

12



lỗi luôn gắn với hành vi trái pháp luật, và khơng thể có lỗi tồn tại ngồi hành vi
trái pháp luật của một chủ thể. Lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói riêng là lỗi suy đốn. Tức là
khơng cần phải chứng minh lỗi, mà chỉ cần chứng minh hành vi gây thiệt hai là
hành vi trái pháp luật là đủ. Do đó, chỉ cần xác định được hành vi gây thiệt hại là
hành vi trái pháp luật thì đương nhiên sẽ xác định được yếu tố lỗi của chủ thể
nhất định. Trong quy định pháp luật về sở hữu trí t, lỗi cũng khơng phải là yếu
tố bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng
đồng thời là nghĩa vụ phải thực hiện của người có hành vi xâm phạm. Vì vậy,
khi thực hiện xong trách nhiệm bồi thường cũng đồng thời là chấm dứt quan
hệ nghĩa vụ giữa các bên.
Thứ hai, bên cạnh các đặc điểm chung, bồi thường thiệt hại do xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ cịn mang một số đặc điểm riêng như:
- Các quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là
bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật bảo hộ sở hữu trí tuệ và là cơ
sở pháp lý xác định phạm vi, mức độ cam kết bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Trước đây, các đối tượng truyền thống của quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu là
quyền tác giả, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa
lý. Về sau, do nhu cầu của sự phát triển, ngày càng xuất hiện nhiều đối
tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ cần được bảo hộ như các quyền liên quan
đến quyền tác giả, bí mật thương mại, thiết kế bố trí mạch tích hợp, giống
cây trồng. Do đó địi hỏi pháp luật phải có những cơ chế bảo hộ tương
xứng và thoả đáng.
- Các quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là
một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng bảo hộ sở hữu trí tuệ của một
quốc gia. Điều 7 Luật Sở hữu trí tuệ đã rất có lý khi khẳng định rằng: “Nhà


13


nước cơng nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân
nhằm thúc đầy hoạt động sáng tạo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”. Chế định bồi thường thiệt hại
đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng là hiện thân của nguyên
tắc đã được Luật Sở hữu trí tuệ quy định tại Khoản 2 Điều 7, đó là: “Mọi tổ
chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ và xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”. Điều 10 của
Luật này cũng quy định rõ “các tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện
pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình và có
trách nhiệm tơn trọng quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác...”.
1.2.3. Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ
Ngày nay, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo đảm thực hiện các
quyền đó ngày càng có vị trí quan trọng trong thương mại quốc tế cũng như
đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Đối với nền kinh tế trong nước, làm tốt việc
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự sáng
tạo, bảo đảm động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và thương mại; khuyến
khích nghiên cứu, phát triển cơng nghệ, nâng cao chất lượng hàng hố và tạo
uy tín cho sản phẩm. Hệ thống sở hữu trí tuệ mạnh sẽ có tác dụng tốt trong
việc phát triển cơng nghệ và kinh doanh lành mạnh, có vai trị tích cực đối với
công cuộc phát triển kinh tế. Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng
hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 19/11/2005 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2006. Đây là một bước tiến dài trong việc bảo đảm thực thi
quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói riêng đều mang đặc tính của


14


trách nhiệm dân sự. Việc bồi thường thiệt hại đều nhằm khơi phục tình trạng
tài sản của người bị thiệt hại. Bên cạnh đó, việc bồi thường thiệt hại khơng chỉ
nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý
thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tơn trọng quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác.
Quyền sở hữu trí tuệ là kết quả của quá trình sáng tạo, đầu tư trí tuệ,
cơng sứ, tiền bạc của cá nhân, tổ chức. Hoạt động sáng tạo trí tuệ mong muốn
đạt được những lợi ích nhất định. Mục tiêu cuối cùng của bảo vệ quyền SHTT
chính là chống lại nguy cơ bị lợi dụng hoặc chiếm đoạt kết quả đầu tư sáng
tạo và bảo vệ các cơ hội cho người đã đầu tư để tạo ra các kết quả sáng tạo đó.
Bằng việc bảo hộ tài sản trí tuệ sẽ khuyến khích và hỗ trợ phát triển sản phẩm,
ngành nghề kinh doanh, nhờ vậy mà kích thích, thúc đẩy các nỗ lực sáng tạo
của con người.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo dựng mơi trường cạnh tranh
lành mạnh. Thật bất công nếu một người bỏ vốn đầu tư, nghiên cứu tạo ra
các sản phẩm mới cũng như đầu tư cho quảng cáo, khuyến mại để người
tiêu dùng các sản phẩm mới trong khi một người khác không phải tốn kém
vẫn bán được hàng do nhái sản phẩm của người khác. Kết quả là các nhà
sản xuất chân chính khơng có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận
cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả
việc tạo ra các sản phẩm mới, làm thiệt hại đối với các quyền lợi thương
mại và đầu tư của họ.
Hiểu rõ vai trò của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong phát triển kinh
tế - xã hội, Việt Nam đang chú trọng tạo dựng một hệ thống thực thi có hiệu
quả trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ để đạt được sự phát triển kinh tế
đất nước nhanh chóng trong xu thế hội nhập.


15


1.3. Quy định Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ
1.3.1. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong
một số Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
a. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định TRIPS
Hiệp định TRIPS được ký kết ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 01/01/1995. Điều 45 Hiệp định TRIPS quy định rõ: “Các cơ quan xét xử
phải có quyền ra lệnh buộc người xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền
khoản đền bù thỏa đáng để bồi thường thiệt hại mà chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ phải gánh chịu do hành vi xâm phạm của người thực hiện hành vi xâm
phạm khi đã biết hoặc có cơ sở để biết điều đó”.
Như vậy, cho đến Hiệp định TRIPS, vấn đề bồi thường thiệt hại đã
được quy định như một biện pháp bảo hộ cần thiết và bắt buộc đối với mọi
quốc gia thành viên. Nghiên cứu quy định trên cho thấy, tùy theo tính chất,
nội dung và mức độ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, người nắm giữ quyền
có thể yêu cầu tòa án ra lệnh chấm dứt hành vi vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ và buộc người xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải đền bù thiệt hại.
Đây là khoản tiền đền bù cho những thiệt hại mà chủ sở hữu quyền phải
gánh chịu do hành vi xâm phạm gây ra (bao gồm cả lợi nhuận đáng lẽ chủ
sở hữu sẽ thu được nếu khơng có hành vi xâm phạm). Tuy nhiên Khoản 1
Điều 45 Hiệp định TRIPS cũng nêu rõ chế tài bồi thường thiệt hại này chỉ
được áp dụng khi người thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
đã biết hoặc có cơ sở để biết điều đó. Điều này có nghĩa là chế tài bồi
thường thiệt hại chỉ áp dụng đối với người thực hiện hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ với lỗi cố ý.
Thêm vào đó, Hiệp định TRIPS (Điều 45) còn đưa ra cơ sở để xác định

những thiệt hại cần được bồi thường cho chủ sở hữu quyền bao gồm:

16


- Phí tổn do tham gia cho vụ kiện, trong đó có thể bao gồm cả các
khoản chi phí hợp lý để thuê người đại diện.
- Trong những trường hợp thích hợ, cơ quan xét xử được quyền ra lệnh
thu hồi các khoản lợi nhuận, và/hoặc các khoản đền bù được ấn định trước, kể
cả trường hợp người xâm phạm đã thực hiện hành vi xâm phạm hoặc có căn
cứ để biết điều đó. Điều này có nghĩa là ngay cả khi người thực hiện hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là vơ ý, thì cơ quan xét xử vẫn có quyền đưa
ra quyết định này (Khoản 2 Điều 45 Hiệp định TRIPS).
Nhằm bảo đảm sự công bằng cho các bên trong quan hệ trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, Hiệp định TRIPS cũng đưa ra quy định nhằm chống lại
những hành vi lạm dụng quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong những
trường hợp cần thiết, theo đó, Điều 48 quy định: “Các cơ quan xét xử phải có
quyền ra lệnh buộc các bên đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài
và đã lạm dụng các thủ tục thực thi phải trả cho bên bị áp dụng các biện pháp
đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái khoản bồi thường tương xứng với thiệt
hại do sự lạm dụng đó gây ra và các chi phí, trong đó có thể bao gồm cả chi
phí đại diện thích hợp”.
Trong các chế tài dân sự được áp dụng, chế tài bồi thường thiệt hại là chế
tài phổ biến nhằm bù đắp lại các mất mát mà chủ sở hữu phải gánh chịu do
các hành vi xâm phạm gây ra. Tuy nhiên, việc tính tốn mức bồi thường thiệt
hại đối với tài sản trí tuệ là rất phức tạp và được quy định cụ thể trong pháp
luật của mỗi nước.
Có thể nói, Hiệp định TRIPS là Điều ước quốc tế đa phương đầu tiên quy
định các nguyên tắc, các yêu cầu chung trong việc thực thi quyền sở hữu trí
tuệ cũng như quy định hệ thống các biện pháp thực thi, các chế tài nghiêm

khắc để xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đây được xem là một
đóng góp quan trọng của Hiệp định TRIPS đối với hệ thống pháp luật quốc tế
về lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

17


b. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp
định đối tác xun Thái Bình Dương (TTP)
Vấn đề SHTT được các doanh nghiệp nước ngoài quan tâm, nhưng
khơng ít doanh nghiệp trong nước vẫn cịn thờ ơ, nên trong thời gian qua
nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị kiện, bị xâm hại về các vấn đề liên quan
SHTT. Khi Việt Nam đã tham gia TPP, các doanh nghiệp buộc phải hòa nhập
“sân chơi” chung, tuân thủ các quy định chung.
Khi thực thi TPP, vấn đề SHTT, nhất là chủ sở hữu quyền được bảo hộ
cao hơn và địi hỏi chính phủ các quốc gia phải làm những điều tốt nhất cho
chủ sở hữu quyền. Trong đó, các yếu tố về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sáng chế,
bí mật thương mại, các nhà cung cấp dịch vụ in-tơ-nét, quyền tác giả và các
quyền liên quan được xem là quan trọng hơn cả. Nhưng tại Việt Nam, các
doanh nghiệp chưa có sự quan tâm khi đăng ký nhãn hiệu, xác lập quyền
SHTT, rất dễ xảy ra tranh chấp khi làn sóng đầu tư, hàng hóa nước ngồi vào
Việt Nam.
Theo TTP, Các thủ tục dân sự, hành chính và các biện pháp khắc phục:
TPP đưa ra những quy định về các thủ tục dân sự, hành chính và các biện
pháp khắc phục liên quan đến việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể
Điều 18.74 Hiệp định đã có quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại: “3. Mỗi
Bên phải quy định109, đối với các vụ án dân sự, các cơ quan tư pháp được
quyền ít nhất là yêu cầu bên xâm phạm bồi thường thiệt hại cho bên nắm giữ
quyền một khoản tiền tương ứng với mức độ tổn thất mà bên này đang gánh
chịu do bị tác động bởi hành vi xâm phạm của bên xâm phạm quyền sở hữu

trí tuệ sau khi chứng minh hay có đủ bằng chứng xác định bên xâm phạm đã
thực hiện hành vi xâm phạm của mình.
4. Đối với việc xác định mức tiền đền bù thiệt hại theo quy định trong
khoản 3, các cơ quan tư pháp có thẩm quyền của mỗi Bên xem xét, cụ thể như

18


bất kỳ phương pháp định giá nào mà người đang nắm giữ quyền đề xuất,
trong đó có thể bao gồm việc xác định giá trị khoản lợi nhuận bị thất thốt,
giá trị hàng hóa, dịch vụ bị xâm phạm thơng qua giá thị trường hay giá bán lẻ
đề nghị.
5. Riêng đối với các trường hợp xâm phạm bản quyền, quyền liên quan
và giả mạo nhãn hiệu, mỗi Bên phải quy định rõ rằng, trong các vụ kiện dân
sự, các cơ quan tư pháp có thẩm quyền yêu cầu bên xâm phạm theo khoản 3
quy định ít nhất phải thanh tốn phần lợi nhuận thu được từ hành vi xâm
phạm cho người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ.
6. Trong các vụ kiện dân sự liên quan đến hành vi vi phạm quyền tác giả
hoặc các quyền khác liên quan đến bảo hộ các tác phẩm, bản ghi âm và các
chương trình biểu diễn, mỗi Bên phải thiết lập hoặc duy trì một hệ thống các
quy định về một hay một số trường hợp như sau:
(a) các khoản tiền bồi thường thiệt hại đã được xác định tùy theo sự lựa
chọn của bên giữ quyền sở hữu trí tuệ; hoặc
(b) khoản bồi thường thiệt hại bổ sung.
7. Trong các vụ kiện dân sự liên quan đến hành vi giả mạo nhãn hiệu,
mỗi Bên phải thiết lập hoặc duy trì một hệ thống các quy định về một hay một
số trường hợp như sau:
(a) các khoản tiền bồi thường thiệt hại đã được xác định tùy theo sự lựa
chọn của bên giữ quyền sở hữu trí tuệ; hoặc
(b) khoản bồi thường thiệt hại bổ sung”.

Như vậy, Ở góc độ thực thi TPP, khi bị phát hiện những hành vi vi phạm,
các doanh nghiệp sẽ phải thực hiện án phạt, tùy trường hợp sẽ bị quy trách
nhiệm hình sự. Do đó, hiểu rõ quyền SHTT sẽ giúp doanh nghiệp tránh bị
xâm phạm quyền SHTT, có thể khai thác tối đa những lợi ích, phòng ngừa
được những rủi ro, tranh chấp.

19


×