Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và thực tiễn tại tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUT H NI

HONG TH NGA

Nguyên tắc kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
và thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUT H NI

HONG TH NGA

Nguyên tắc kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
và thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC


Chuyờn ngnh : Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 8 38 01 03

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Anh Tuấn

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Thị Nga


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


5

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự

5

1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguyên tắc kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự

9

Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN VÀ KIẾN NGHỊ

39

2.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

39

2.2. Về hạn chế, tồn tại và nguyên nhân từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn

60


2.3. Một số kiến nghị về nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự

62

KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

BPKCTT

: Biện pháp khẩn cấp tạm thời

CNSTT

: Công nhận sự thỏa thuận


KSVTTPL

: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 65 năm xây dựng và khơng ngừng hồn thiện bộ máy nhà nước,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc thành lập, kiện toàn và cải cách các cơ
quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân (VKSND).
Là một trong bốn hệ thống cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước ta,
VKSND có vai trị quan trọng trong việc bảo đảm pháp chế thống nhất, góp phần thực
hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn của cách mạng
của đất nước. Trước yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn mới, trong những năm qua, cùng
với việc thực hiện cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung, Đảng và Nhà nước
ta đã và đang đẩy mạnh thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, trong đó có tổ chức và
hoạt động của VKSND. Đảng và Nhà nước ta yêu cầu VKSND tập trung thực hiện
tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là vấn đề có tính đặc
thù, xuất phát từ u cầu khách quan, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển
của VKSND và được thực hiện trong một số lĩnh vực, trong đó có hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật (KSVTTPL) trong tố tụng dân sự (TTDS). Xét về mặt
lịch sử, ở nước ta, thực chất sự tham gia của VKS vào quá trình TTDS giải quyết
các vụ việc dân sự đã được ghi nhận từ thời kỳ cơ quan Công tố - tiền thân của
VKSND. Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, vị trí, vai trị của Viện
kiểm sát (VKS) trong TTDS được ghi nhận ở những mức độ khác nhau, từ việc quy
định những quyền hạn của VKS trong TTDS rải rác ở các văn bản pháp luật và các
văn bản hướng dẫn thi hành đến việc khẳng định, ghi nhận KSVTTPL trong TTDS
là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTDS và là cơ sở để quy định trách
nhiệm, thẩm quyền cụ thể của VKSND trong TTDS.
Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 về công tác
kiểm sát là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác kiểm sát án dân sự tại tỉnh Lạng
Sơn. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện pháp luật cho thấy các quy định của BLTTDS
năm 2015 về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS vẫn cịn có những hạn chế nhất



2

định, những bất cập, khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thực hiện đã ảnh
hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác kiểm sát án dân sự tại tỉnh Lạng Sơn.
Do vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, nội
dung của nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và thực tiễn thực hiện nguyên tắc tại
địa phương, trên cơ sở đó có kiến nghị, đề xuất để tiếp tục hồn thiện pháp luật và
bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc này trong thực tiễn là cấp thiết, có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài "Nguyên tắc kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn" để thực
hiện Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước tinh thần cải cách tư pháp trong thời kỳ hội nhập, đề tài về nguyên
tắc KSVTTPL trong TTDS đã thu hút sự quan tâm bàn luận của các học giả, chuyên
gia pháp lý, những người hoạt động thực tiễn trong các cơ quan tư pháp, như: "Vị
trí, vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp",
của tập thể tác giả, do TS. Khuất Văn Nga làm chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp
2008; "Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình
cải cách tư pháp" của TS. Lê Hữu Thể, Tạp chí Kiểm sát, số 14-16/2008; "Đổi mới
và nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự" của
Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hịa Bình đăng trên tạp chí Kiểm sát số 7 năm 2016;
"Tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm dân
sự" của Tiến sĩ Nguyễn Vinh Hưng - Đại học Quốc gia Hà Nội; "Vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự" của tác giả Nguyễn Phương Thúy, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Đại học Luật Hà Nội, năm 1996; "Nguyên tắc kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự" của tác giả Phạm Vũ Ngọc
Quang, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013.

Các cơng trình, tài liệu trên cho thấy, nhìn chung việc nghiên cứu tập trung
vào các vấn đề chung về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức bộ máy và một số
quyền hạn của VKS trong TTDS. Một số cơng trình có nghiên cứu về nguyên tắc
KSVTTPL trong TTDS nhưng được thực hiện trước khi ban hành BLTTDS năm


3

2015 và không nghiên cứu về thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn. Do vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu sâu về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS từ thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn
trên cơ sở tham khảo kết quả của các bài viết, cơng trình nghiên cứu nêu trên có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm rõ những vấn đề lý
luận, nội dung và thực tiễn thực hiện nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS tại tỉnh
Lạng Sơn; trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện hiệu
quả nguyên tắc theo yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới.
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc KSVTTPL
trong TTDS; nội dung nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và các quy định của
BLTTDS năm 2004, 2011, 2015 và thực tiễn thực hiện nguyên tắc KSVTTPL trong
TTDS tại tỉnh Lạng Sơn.
* Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài "Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và
thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn" là một đề tài có nội dung khá rộng. Trong khn khổ của
một luận văn Thạc sĩ, với thời gian triển khai nghiên cứu hạn chế, do vậy phạm vi
nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm, ý nghĩa
của nguyên tắc, thực trạng pháp luật Việt Nam về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS
và thực tiễn thực hiện nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS tại tỉnh Lạng Sơn mà không

đi sâu nghiên cứu về việc KSVTTPL trong thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật và KSVTTPL trong thi hành án dân sự. Vấn đề kiểm sát thi hành án dân
sự sẽ được tác giả nghiên cứu trong các cơng trình khác khi có điều kiện để thực hiện.
Ngồi ra, việc nghiên cứu luật thực định được thực hiện chủ yếu đối với các
quy định của BLTTDS năm 2015 của Việt Nam và văn bản có liên quan về nguyên
tắc KSVTTPL trong TTDS. Các quy định của BLTTDS năm 2004 và BLTTDS
năm 2011 vẫn được tiếp cận nghiên cứu nhằm tham khảo, so sánh. Việc tiếp cận
nghiên cứu pháp luật nước ngoài về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS sẽ được
thực hiện trong các cơng trình khác khi có điều kiện.


4

Bên cạnh việc nghiên cứu lý luận và luật thực định thì khi triển khai nghiên
cứu về thực tiễn thực hiện nguyên tắc, luận văn có những nghiên cứu, đánh giá tổng
quan về thực tiễn KSVTTPL trong TTDS nói chung và từ đó lồng ghép phân tích về
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn trong những năm gần đây. Việc định hướng
nghiên cứu này thực sự có ý nghĩa thiết thực và phục vụ trực tiếp cho công tác kiểm
sát án dân sự tại địa phương nơi học viên công tác.
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật. Những quan điểm cơ
bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cải cách tư
pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra để thực hiện Luận văn tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê tổng hợp v.v...
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học: Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống, phân tích
một cách tồn diện và sâu sắc các quy định của BLTTDS (2004, 2011, 2015) về

nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. Trên cơ sở nghiên cứu luận văn đã chỉ ra những
bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác KSVTTPL trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói
riêng, trong phạm vi cả nước nói chung.
Về mặt thực tiễn: Những đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLTTDS về KSVTTPL trong TTDS
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng và cả nước nói chung.
6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn và kiến nghị.


5

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự
Bất kỳ hoạt động có mục đích nào muốn đạt được kết quả, đòi hỏi những
người tham gia hoạt động phải xác định được các nguyên tắc hoạt động và tuân thủ
triệt để nó. Theo nghĩa chung nhất, nguyên tắc được hiểu là "điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm"1. Như vậy, nguyên tắc được hiểu
với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, qui tắc cơ bản của một hoạt động nào đó. Đó là những

tư tưởng chỉ đạo cơ bản, mang tính xuất phát điểm, định hướng, xuyên suốt toàn bộ
hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Nguyên tắc của Luật TTDS được hiểu
là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng xun suốt trong tồn bộ q trình nhận
thức, xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS. Các nguyên tắc cơ bản của Luật
TTDS được ghi nhận trong BLTTDS năm 2004 thành một chế định riêng biệt (tại
Chương II). BLTTDS năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định 23 nguyên
tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam, từ Điều 3 đến Điều 24. BLTTDS năm 2015
quy định 25 nguyên tắc cơ bản. Trong số 25 nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc
KSVTTPL trong TTDS được quy định tại Điều 21 BLTTDS với nội dung:
"Điều 21. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
1. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự,
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự;
phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc
1. Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, tr. 894.


6

đối tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích cơng cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở
hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này.
3. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm.
4. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Tịa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành Điều này".
Như vậy, quy định này đã khẳng định VKSND là cơ quan chịu trách nhiệm
KSVTTPL trong TTDS; các hoạt động TTDS của những người tiến hành TTDS và

những người tham gia TTDS là đối tượng của hoạt động kiểm sát của VKSND. Cụ
thể hóa nguyên tắc này, BLTTDS năm 2015 cũng đã có những quy định cụ thể về
trách nhiệm, thẩm quyền của VKSND trong TTDS.
Pháp luật TTDS quy định tương đối đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể. Khi tham gia quan hệ pháp luật TTDS, các chủ thể thực hiện các quyền và
nghĩa vụ do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích của chính mình hoặc của tổ
chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, hoạt động TTDS - hoạt động giải quyết các vụ việc
dân sự là hoạt động thực tiễn khá đa dạng và phức tạp, dễ xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nên địi hỏi phải có một cơ chế thích hợp để kiểm
tra, giám sát nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được kịp thời,
đúng pháp luật, đó là hoạt động KSVTTPL của Tịa án và các chủ thể khác của
TTDS do VKSND thực hiện. Nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là một bảo đảm
pháp lý quan trọng để hoạt động TTDS được tiến hành theo đúng quy định của pháp
luật TTDS, nó phải được quán triệt xuyên suốt trong quá trình TTDS.
KSVTTPL trong TTDS là giám sát, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn
cứ đối với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, đối với văn bản áp
dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự của chủ thể tiến hành tố tụng và đó là hình
thức thực hiện quyền lực Nhà nước, một trong những hoạt động thực hiện chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Mục đích của hoạt động


7

KSVTTPL trong TTDS là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến
hành, tham gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được
thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động KSVTTPL trong TTDS
là việc VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định
để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền

và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Với những phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa về nguyên tắc
KSVTTPL trong TTDS như sau:
Nguyên tắc KSVTTPL trong tố tụng dân sự là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt
trong quá trình TTDS; là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát) do chủ thể duy nhất là
VKSND thực hiện thông qua việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do
pháp luật TTDS quy định nhằm ngăn ngừa, phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực
của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng quy định của
pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự.
Từ định nghĩa trên đây, có thể rút ra các đặc điểm của nguyên tắc KSVTTPL
trong TTDS, đó là: (1) là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình TTDS giải
quyết các vụ việc dân sự; (2) là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát trong TTDS) do
chủ thể duy nhất là VKSND thực hiện; (3) Nội dung là việc sử dụng các biện pháp,
quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định nhằm ngăn ngừa, phát hiện và loại bỏ vi
phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng; (4) mục đích là nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng,
kịp thời và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự; (5) được ghi nhận và thể hiện thông qua các
quy phạm của pháp luật TTDS.


8

1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự
Việc ghi nhận KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ
bản của TTDS có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện ở các nội dung sau đây:
Một là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là sự cụ thể hóa quy định của

Điều 107 Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ và chức năng của VKSND:
"Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp".
"Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất".
Hai là, Nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là một hình thức kiểm sốt việc
thực hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp giải quyết các vụ
việc dân sự. Đồng thời là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát) bảo đảm cho việc giải
quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hoạt động
KSVTTPL trong TTDS góp phần phát hiện và đẩy lùi sự lạm quyền, những tiêu
cực, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng, qua đó bảo vệ tính thượng tơn pháp luật, đảm bảo
cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Ba là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS thể hiện sự can thiệp của Nhà
nước vào lĩnh vực TTDS trong đó có việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp
lý của VKSND.
Bốn là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là nền tảng, định hướng, cơ sở
cho việc xây dựng các quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn và các biện pháp
mà VKSND tiến hành KSVTTPL đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình TTDS giải quyết vụ việc dân sự.
Năm là, việc vi phạm nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS có thể là căn cứ
để hủy bỏ phán quyết của Tòa án.


9

1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguyên tắc kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự

1.2.1. Các quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Tòa án cấp
sơ thẩm
Trong thủ tục sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự, VKSND thực hiện
KSVTTPL thông qua các hoạt động: Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu
cầu giải quyết việc dân sự; Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự; Kiểm sát việc xác
minh, thu thập chứng cứ; Kiểm sát các bản án, quyết định; Tham gia phiên tòa,
phiên họp; Thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị.
1.2.1.1. Các quy định về kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự
* Các quy định về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
Quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự là quyền cơ bản
của chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm. Do vậy, về nguyên tắc thì để bảo đảm quyền
này Tịa án phải thụ lý vụ việc để giải quyết. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định
trong một số trường hợp nhất định thì Tịa án có quyền trả lại đơn khởi kiện, đơn
u cầu và Tịa án cũng chỉ có quyền trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trong những
trường hợp đã được nhà lập pháp ấn định.
Trả lại đơn khởi kiện là hành vi tố tụng của Tịa án, theo đó Tòa án từ chối
quyền khởi kiện vụ án dân sự của người khởi kiện khi có căn cứ trả lại đơn khởi
kiện mà BLTTDS quy định. Kể từ thời điểm Tòa án ban hành văn bản trả lại đơn
khởi kiện thì mọi trách nhiệm về mặt TTDS đối với yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện cũng chấm dứt. Việc trả lại đơn khởi kiện có ý nghĩa quan trọng đối với
quyền khởi kiện của đương sự, nếu Tòa án không áp dụng đúng các căn cứ trả lại
đơn khởi kiện hoặc áp dụng một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Thẩm phán
được phân cơng xem xét, thụ lý đơn khởi kiện sẽ ảnh hưởng đến quyền khởi kiện
hợp pháp của đương sự nên điều luật quy định các căn cứ để TA trả lại đơn khởi
kiện. Nếu Thẩm phán áp dụng căn cứ trả lại đơn khởi kiện ngoài các căn cứ đã được
BLTTDS quy định thì được coi là việc trả lại đơn khởi kiện trái pháp luật.
Để bảo đảm việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự
của Tòa án được khách quan, đúng đắn, không làm tổn hại đến quyền cơ bản của



10

đương sự, pháp luật đã quy định VKSND có nhiệm vụ kiểm sát việc Tòa án trả lại
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự.
Quy định về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu được ghi nhận tại
Điều 168 và Điều 311 BLTTDS năm 2004, quy định này vẫn được kế thừa trong
BLTTDS năm 2015, chỉ sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể thẩm quyền
trả lại đơn khởi kiện thuộc về Thẩm phán được phân công xem xét đơn mà không
quy định chung chung là Tòa án như trước đây, đồng thời bổ sung thêm một số căn
cứ trả lại đơn khởi kiện. Việc kiểm sát trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết
vụ việc dân sự sẽ được thực hiện theo Điều 192 và Điều 361 BLTTDS năm 2015.
Cụ thể như sau: (1) Người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện theo quy định tại
Điều 186 và Điều 187 BLTTDS năm 2015 hoặc khơng có đủ năng lực hành vi
TTDS; (2) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tịa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tịa án bác đơn đương sự có quyền khởi khởi kiện
lại như: ly hôn, thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt
hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở
nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện; (3) Hết thời
hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của BLTTDS năm 2015 mà người khởi kiện
không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tịa án, trừ trường hợp người khởi
kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách
quan, sự kiện bất khả kháng; (4) Chưa có đủ điều kiện là trường hợp các đương sự
có thỏa thuận trước hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện, kể cả
quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện, nhưng đương sự đã khởi kiện khi
cịn thiếu một trong các điều kiện đó; (5) Vụ án khơng thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tịa án là trường hợp nội dung đơn yêu cầu giải quyết không thuộc một trong
các tranh chấp quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS năm 2015; (6)
Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện là trường hợp đã nhận được
yêu cầu về bổ sung đơn khởi kiện của Thẩm phán nhưng họ không tiến hành sửa

đổi, bổ sung theo yêu cầu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 193 BLTTDS


11

năm 2015. Theo quy định tại khoản 1 Điều 189 BLTTDS năm 2015 thì cơ quan, tổ
chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện phải có các nội
dung chính quy định tại khoản 4 Điều 189 BLTTDS năm 2015, nếu thiếu một trong
các nội dung chính này thì Thẩm phán u cầu họ sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện.
Nếu họ không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu thì Thẩm phán trả lại
đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 193 BLTTDS năm 2015; (7) Người
khởi kiện rút đơn khởi kiện trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Đây là trường hợp người
khởi kiện đã nộp đơn khởi kiện và các tài liệu chứng minh cho yêu cầu khởi kiện
của mình là có căn cứ và hợp pháp, tuy nhiên trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày
nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán được phân công đang kiểm tra các điều kiện
khởi kiện và chưa tiến hành thụ lý vụ án thì người khởi kiện đã đến Tòa án đề nghị
được lấy lại hồ sơ khởi kiện và khơng khởi kiện nữa. Tịa án phải lập biên bản trả
lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho họ. Đây là căn cứ mới được bổ sung
trong BLTTDS năm 2015 trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương
sự vì họ là người có quyền phát đơn khởi kiện thì họ cũng có quyền dừng việc khởi
kiện bất cứ lúc nào.
Bộ luật TTDS năm 2015 đã bổ sung quy định mới về việc trả lời khiếu nại,
kiến nghị tại Điều 194 của Bộ luật này và tại Điều 361 BLTTDS năm 2015 thì các
quy định trên cũng được áp dụng tương tự như đối với trả đơn lại đơn yêu cầu giải
quyết việc dân sự. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản
trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự thì đương sự có quyền
khiếu nại, VKS có quyền kiến nghị với Tịa án đã trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
giải quyết việc dân sự; trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công,
Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại
đơn. Phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại, có sự tham gia của Kiểm sát viên và

đương sự có khiếu nại. Nếu đương sự vắng mặt thì phiên họp vẫn được tiến hành,
nếu KSV vắng mặt mà khơng có kiến nghị của VKS về việc trả lại đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự thì khơng hỗn phiên họp, nếu có kiến nghị của
VKS về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự thì phải hỗn


12

phiên họp. Kết thúc phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại hoặc kiến nghị, nếu
không đồng ý với kết quả giải quyết của Thẩm phán, thì trong thời hạn 10 ngày kể
từ ngày nhận được quyết định giải quyết, đương sự có quyền khiến nại, VKS có
quyền kiến nghị lên Chánh án Tòa án cấp trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết 2.
Khoản 7 Điều luật trên của BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về trường hợp
nếu vẫn không đồng ý với kết quả giải quyết của Chánh án Tịa án cấp trên trực tiếp
thì đương sự có quyền khiếu nại, VKS có quyền tiếp tục kiến nghị lên Chánh án
Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao đối với quyết định bị khiếu nại, kiến nghị của
Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) nếu quyết
định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp cao. Quyết định của Chánh
án ở giai đoạn này là kết quả giải quyết cuối cùng.
* Các quy định về kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự
Quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự là quyền tố tụng
quan trọng của mỗi chủ thể, được pháp luật ghi nhận bằng việc Tòa án thụ lý vụ
việc sau khi xem xét các điều kiện thụ lý. Khi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết
việc dân sự của cá nhân, tổ chức không thuộc các trường hợp phải trả lại đơn thì
Tịa án tiến hành các thủ tục để thụ lý, đây cũng là hoạt động TTDS đầu tiên do Tòa
án tiến hành, là cơ sở phát sinh các hoạt động tố tụng tiếp theo. Việc thụ lý vụ việc
dân sự có ý nghĩa rất quan trọng bởi thời điểm thụ lý vụ việc dân sự là thời điểm
tính các thời hạn tố tụng tiếp theo.
Việc kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự được quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật
Tổ chức VKSND năm 2014, các điều 21, 44, 45 và Điều 311 của BLTTDS năm 2004

và BLTTDS sửa đổi năm 2011; Các điều 21, 57, 58, Điều 191, Điều 193, Điều 195
và Điều 361 BLTTDS năm 2015. Theo đó, kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự bao
gồm kiểm sát việc nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự; Sửa đổi,
bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự; Xác định tiền tạm ứng
2. Trước đây theo quy định tại Điều 170 BLTTDS sửa đổi năm 2011 thì thời hạn kiến nghị của Viện kiểm sát
là 03 ngày; trong thời hạn 03 ngày thì Chánh án Tòa án đã trả đơn sẽ giải quyết kiến nghị của Viện kiểm sát,
khơng cần có sự tham gia bắt buộc của kiểm sát viên. Nếu có kiến nghị lên Chánh án Tịa án cấp trên trực
tiếp thì quyết định giải quyết của Chánh án này là quyết định cuối cùng.


13

án phí, lệ phí và thơng báo cho người khởi kiện, người yêu cầu giải quyết việc dân
sự; Thực hiện việc thụ lý bằng cách vào sổ thụ lý.
Khoản 1 Điều 174, Điều 311 BLTTDS năm 2004, BLTTDS sửa đổi năm
2011 và Điều 196 BLTTDS năm 2015 đều quy định: "Trong thời hạn ba ngày làm
việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Tịa án phải thơng báo bằng văn bản cho bị đơn, cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án,
cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án". Theo các quy định trên
và quy định tại Điều 361 BLTTDS năm 2015 thì mọi trường hợp thụ lý vụ việc dân
sự, Tòa án phải thông báo cho VKSND cùng cấp để kiểm sát việc thụ lý. Nhiệm vụ
của VKSND trong giai đoạn tố tụng này là KSVTTPL trong hoạt động thụ lý vụ
việc dân sự của Tòa án, nắm bắt kịp thời nội dung, tình tiết, chứng cứ ban đầu của
vụ án dân sự; kịp thời phát hiện những vi phạm, sai sót có thể xảy ra, bảo đảm việc
thụ lý được thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 196 BLTTDS năm 2015 thì trong quá trình giải
quyết vụ án, nếu bị đơn có u cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập thì việc kiểm sát được thực hiện như đối với trường hợp kiểm sát
thụ lý khởi kiện vụ án của nguyên đơn. Điều này có nghĩa là đối với yêu cầu phản
tố hoặc yêu cầu độc lập của đương sự khi được Tòa án chấp nhận thì TAND cũng

có trách nhiệm thơng báo đến VKSND như trường hợp thơng báo thụ lý. BLTTDS
năm 2015 ngồi việc quy định thời hạn Tịa án thơng báo về việc thụ lý vụ án cho
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, VKS cùng cấp còn bổ
sung thêm quy định, nếu nguyên đơn có yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong việc gửi tài
liệu, chứng cứ thì kèm theo thơng báo về việc thụ vụ án, Tịa án gửi cho bị đơn,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bản sao tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn
cung cấp. Đối với vụ án do người tiêu dùng khởi kiện thì Tịa án phải niêm yết cơng
khai tại trụ sở Tịa án thơng tin về việc thụ lý vụ án Tòa ánrong thời hạn 03 ngày
làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Việc quy định Tòa án phải chuyển mọi thông báo thụ lý vụ việc dân sự cho
VKSND nhằm tạo điều kiện cho VKS có thể kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự của


14

Tịa án. Hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng, tạo sự chủ động và là tiền đề cho
Kiểm sát viên nhanh chóng nắm bắt nội dung vụ việc dân sự, bảo đảm cho quá trình
thụ lý giải quyết vụ việc dân sự của Tịa án được chính xác, hạn chế đến mức thấp
nhất các sai lầm có thể xảy ra ngay từ thời điểm bắt đầu các hoạt động TTDS. Khi
kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự, VKS sẽ kiểm tra xem Tịa án có tn thủ các quy
định về điều kiện khởi kiện, yêu cầu và điều kiện thụ lý giải quyết việc dân sự cũng
như sự cũng như các quy định về thời hạn và trình tự, thủ tục tố tụng nhận đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự; sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu
cầu giải quyết việc dân sự; Xác định tiền tạm ứng án phí, lệ phí và kiểm sát việc
thông báo cho người khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự về việc thụ lý vụ việc.
Tuy nhiên, quy định hiện hành về kiểm sát việc thụ lý chưa thực sự bảo
đảm cho VKS thực hiện có hiệu quả chức năng kiểm sát, bởi vì mặc dù pháp luật
quy định VKS có quyền yêu cầu, kiến nghị về vi phạm của Tòa án, nhưng lại khơng
quy định ràng buộc trách nhiệm của Tịa án đối với kiến nghị của VKS (chẳng hạn
như trách nhiệm trả lời kiến nghị, thực hiện kiến nghị). Do đó, quy định kiểm sát

thụ lý vụ việc dân sự mặc dù đã được pháp luật quy định cụ thể nhưng quá trình
thực hiện chưa thực sự đạt hiệu quả cao.
Bộ luật TTDS năm 2015 đã bổ sung một quy định mới tại khoản 2 Điều 4:
"Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ việc dân sự với lý do chưa có điều luật để
áp dụng". Quy định này hồn tồn phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013 về
quyền con người, quyền công dân về dân sự 3, phù hợp với Bộ luật dân sự (BLDS)
năm 2015 và thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách Tư pháp. Quy
định Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lý do chưa có điều luật
để áp dụng chính là sự bảo đảm tốt nhất vấn đề nhân quyền trong TTDS. Tuy nhiên,
do là một quy định mới nên việc Tòa án áp dụng tập quán, tương tự pháp luật,
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng cần được VKS kiểm sát
một cách chặt chẽ.
3. Điều 14 Hiến Pháp năm 2013: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
Pháp và pháp luật.


15

Khi nhận thơng báo thụ lý vụ án Tịa ánừ Tịa án chuyển đến, KSV được
phân cơng có trách nhiệm lập phiếu kiểm sát để theo dõi, kiểm sát chặt chẽ về thời
hạn gửi thơng báo, hình thức nội dung của thông báo, thẩm quyền thụ lý vụ án. Nếu
phát hiện vi phạm thì KSV đề xuất với lãnh đạo thực hiện quyền kiến nghị để yêu
cầu Tòa án khắc phục vi phạm.
Các BLTTDS trước đây khơng có quy định về việc Tịa án phải gửi thơng
báo thụ lý đơn yêu cầu (việc dân sự), việc kiểm sát thụ lý việc dân sự được thực
hiện trên tinh thần quy định kiểm sát thụ lý án dân sự, chính vì vậy mà khi Tịa án
chậm gửi thơng báo thụ lý việc dân sự, VKS cũng khơng có căn cứ để thực hiện
quyền năng của mình. BLTTDS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế nêu trên
bằng quy định tại Điều 365 của Bộ luật này, theo đó trong thời hạn 03 ngày làm

việc kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tịa án phải thơng báo bằng văn bản cho VKS
cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự
1.2.1.2. Các quy định về kiểm sát việc lập hồ sơ và ra các quyết định tố tụng
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án sẽ tiến hành một số hoạt động theo quy định
của pháp luật tạo tiền đề cho việc giải quyết vụ án. Song song với hoạt động này sẽ
dẫn đến việc Tòa án ban hành một số quyết định tố tụng. Nhiệm vụ của VKS trong
giai đoạn này là kiểm sát việc lập hồ sơ và các quyết định tố tụng do Tịa án ban
hành có đúng căn cứ, thẩm quyền, trình tự thủ tục hay khơng. Đối với bản án, quyết
định về nội dung quyền, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể thì VKS sẽ kiểm sát việc
áp dụng có đúng pháp luật nội dung khơng, có bảo đảm độc lập, khách quan và theo
đúng các quy định về trình tự thủ tục hay khơng.
* Kiểm sát việc lập hồ sơ
Tại Điều 204 BLTTDS năm 2015 quy định về việc lập hồ sơ vụ án dân sự:
"Hồ sơ vụ án dân sự bao gồm đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của đương sự,
người tham gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ
án; văn bản tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án dân sự.
Các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ vụ án dân sự phải được đánh số bút lục,
sắp xếp theo thứ tự ngày, tháng, năm. Giấy tờ, tài liệu có trước thì để ở dưới, giấy


16

tờ, tài liệu có sau thì để ở trên và phải được quản lý, lưu giữ, sử dụng theo quy định
của pháp luật".
Đây là lần đầu tiên pháp luật TTDS quy định về hồ sơ vụ án dân sự. VKS
kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án dân sự của Tòa án, theo quy định của BLTTDS năm
2015 hồ sơ vụ án dân sự bao gồm: đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của
bị đơn (nếu có), đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
(nếu có), các đơn đề nghị, yêu cầu khác của đương sự như đơn xin thay đổi người
tiến hành tố tụng, đơn xin hỗn phiên tịa, đơn đề nghị xét xử vắng mặt,…và toàn

bộ tài liệu chứng cứ của đương sự, người tham gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ
do Tòa án thu thập liên quan đến vụ án; văn bản tố tụng của Tòa án, VKS về việc
giải quyết vụ án dân sự. Bên cạnh đó, BLTTDS năm 2015 còn quy định cụ thể về
cách đánh số bút lục, sắp xếp hồ sơ, nhằm đảm bảo cho việc xây dựng, lưu trữ quản
lý hồ sơ được chặt chẽ, khoa học và thuận tiện cho việc nghiên cứu hồ sơ vụ án dân
sự. Tuy nhiên, quá trình thực hiện kiểm sát việc lập hồ sơ của Tòa án, vẫn cịn có
trường hợp hiểu chưa đúng về cách đánh số bút lục các giấy tờ, tài liệu có trong hồ
sơ chưa khoa học, gây khó khăn cho việc nghiên cứu hồ sơ.
* Kiểm sát việc ra các quyết định tố tụng
- Kiểm sát quyết định chuyển vụ việc dân sự
Khi thực hiện BLTTDS năm 2004, VKS khơng có thẩm quyền kiểm sát
quyết định chuyển vụ án dân sự 4, bởi vì ở giai đoạn này pháp luật khơng có quy
định Tịa án phải gửi quyết định chuyển vụ án dân sự cho VKS. Theo đó, VKS cũng
khơng có quyền kiến nghị đối với quyết định chuyển vụ án của Tòa án. Tuy nhiên,
khắc phục những hạn chế bất cập từ BLTTDS năm 2004, đồng thời trên tinh thần
mở rộng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKSND trong TTDS theo chủ trương
của Đảng và nhà nước. Trong BLTTDS năm 20115 và tại Điều 41 BLTTDS năm 2015
4. Điều 37 BLTTDS năm 2004: vụ việc dân sự đã được thụ lý mà khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tồ án đã thụ lý thì Tồ án đó ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án có thẩm quyền và xố tên vụ
án rong sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi ngay cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
5. Khoản 1 Điều 37 BLTTDS năm 2011: Vụ việc dân sự đã được thụ lý mà không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tịa án đã thụ lý thì Tịa án đó ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tịa án có thẩm
quyền và xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp,
đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.


17

quy định "Vụ việc dân sự đã được thụ lý mà khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tịa án đã thụ lý thì Tịa án đó ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tịa

án có thẩm quyền và xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi
ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền khiếu nại, Viện
kiểm sát có quyền kiến nghị quyết định này trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được quyết định. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu
nại, kiến nghị, Chánh án Tòa án đã ra quyết định chuyển vụ việc dân sự phải giải quyết
khiếu nại, kiến nghị. Quyết định của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng".
Như vậy, quy định các cá nhân, tổ chức, liên quan có quyền khiếu nại, VKS có
quyền kiến nghị đối với quyết định chuyển vụ án là đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo
trong TTDS và sự thống nhất với việc sửa đổi, bổ sung vai trò của VKS trong TTDS.
- Kiểm sát quyết định nhập hoặc tách vụ án dân sự
Bộ luật TTDS năm 2004 quy định Tịa án có thể nhập hai hay nhiều vụ án
đã thụ lý thành một vụ án hoặc tách một vụ án có nhiều yêu cầu khác nhau thành hai
hay nhiều vụ án dân sự để giải quyết, nếu việc nhập hoặc tách vụ án để giải quyết
vẫn bảo đảm đúng pháp luật và không ảnh hưởng tới kết quả giải quyết các quan hệ
pháp luật đó. Khi ban hành quyết định nhập hoặc tách vụ án Tòa ánòa án phải được
gửi ngay cho VKS cùng cấp, VKSND có trách nhiệm kiểm sát tính có căn cứ và
tính hợp pháp của quyết định tách hoặc nhập vụ án. Như vậy, quy định về vấn đề
này được xây dựng từ BLTTDS năm 2004 (Điều 38), đến nay nội dung này vẫn
được kế thừa tại Điều 42 BLTTDS năm 2015, đảm bảo cho VKS thực hiện được
quyền năng pháp lý của mình trong khâu giải quyết này.
- Kiểm sát quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định của BLTTDS năm 2004, BLTTDS sửa đổi năm 2011 và
BLTTDS năm 2015 thì trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, theo yêu cầu của
Đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị
quyết định này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời hạn ba ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Tòa án đã ra quyết định chuyển vụ việc dân
sự phải giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Quyết định của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng.



18

đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện
vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, Tịa án có thể quyết định
áp dụng một hoặc một số biện pháp cần thiết (biện pháp khẩn cấp tạm thời) để giải
quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm thi hành
án. V có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT)
trong một số trường hợp được pháp luật quy định. Khi xét thấy BPKCTT đang áp
dụng khơng cịn phù hợp mà cần phải thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp
khác thì theo u cầu của chủ thể có thẩm quyền, Tịa án có thể quyết định thay đổi,
bổ sung BPKCTT. Nếu lý do của việc áp dụng BPKCTT khơng cịn thì Tịa án
quyết định hủy bỏ BPKCTT đã áp dụng.
Ngay sau khi ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT, Tịa án có
trách nhiệm gửi ngay các quyết định đó cho VKS cùng cấp để kiểm sát tính có căn
cứ và tính hợp pháp của quyết định (khoản 2 Điều 123 BLTTDS sửa đổi năm
2011, Điều 139 BLTTDS năm 2015). Quy định tại các Điều 124, Điều 125
BLTTDS năm 2004 về thời hạn, quyền kiến nghị của VKS đối với quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT, cơ chế giải quyết kiến nghị của VKS vẫn được
tiếp tục giữ lại trong Điều 140, 141 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, các quy định
về quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT của VKS vẫn khơng được khơi phục.
Trong khi đó, trên thực tế rất ít Tịa án tự mình áp dụng BPKCTT do lo sợ phải
bồi thường thiệt hại.
Quy định về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT trong BLTTDS năm
2015 vẫn chưa tạo đảm bảo cho VKS thực hiện chức năng KSVTTPL ở thủ tục này.
Cụ thể Điều 139 BLTTDS năm 2015 quy định Tịa án có trách nhiệm gửi ngay các
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời cho VKS cùng
cấp để kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định mà khơng quy định
Tịa án phải thông báo cho VKS biết việc không áp dụng BPKCTT.
- Kiểm sát quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Theo quy định tại Điều 180 BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm

2011 thì khi tiến hành hòa giải, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về các


19

vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tịa án lập biên bản hòa giải thành. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 187 BLTTDS sửa đổi năm 2011 thì hết thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày lập biên bản hịa giải thành mà khơng có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự
thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hịa giải hoặc một Thẩm phán được
Chánh án Tịa án phân cơng ra quyết định cơng nhận sự thỏa thuận (CNSTT) của
các đương sự. Quyết định CNSTT của các đương sự phải gửi cho VKS cùng cấp
trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp
pháp của quyết định CNSTT của các đương sự. Kiểm sát quyết định CNSTT của
các đương sự được thể hiện ở chỗ VKS kiểm tra, xác định xem các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết một phần hay toàn bộ vụ án (vì Thẩm
phán chỉ ra quyết định CNSTT của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án); Nội dung thỏa thuận có thuộc
trường hợp khơng được hịa giải khơng; Có đương nào sự bị nhầm lẫn, lừa dối, đe
dọa trong q trình thỏa thuận khơng, sự thỏa thuận đó có trái pháp luật, trái đạo
đức xã hội khơng?...
Hiện nay việc ra quyết định CNSTT của các đương sự được quy định tại
Điều 212 BLTTDS năm 2015 cũng chỉ quy định Tòa án gửi Quyết định CNSTT
của các đương sự cho VKS cùng cấp trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày
ra quyết định, khơng có quy định nào về việc Tòa án gửi biên bản hòa giải thành
cho VKS.
- Kiểm sát quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
+ Kiểm sát quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
Tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự là việc Tòa án quyết định tạm ngừng
việc giải quyết vụ án dân sự hoặc việc dân sự đã thụ lý trong một thời hạn nhất định

khi có những căn cứ do pháp luật quy định và khi lý do của việc tạm đình chỉ khơng
cịn thì Tịa án lại tiếp tục giải quyết vụ án dân sự hoặc việc dân sự đó. Căn cứ tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là cơ sở pháp lý để Tòa án ra quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự.


20

Các căn cứ để Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
được quy định tại Điều 189 BLTTDS năm 20046. BLTTDS sửa đổi năm 2011 bổ
sung thêm căn cứ tạm đình chỉ tại khoản 5 Điều 189 7. Đến BLTTDS năm 2015 bổ
sung thêm 03 căn cứ tạm đình chỉ tại Điều 214:
"Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu nhập chứng cứ
hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới
giải quyết được vụ án; Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tịa án đã có văn bản kiến nghị
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ; Theo quy
định tại Điều 41 của Luật phá sản"8.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải được gửi cho VKS trong thời
hạn 03 ngày làm việc (khoản 2 Điều 214) rút ngắn hơn so với thời hạn 05 ngày ở
BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011.
Theo quy định tại Điều 191 BLTTDS sửa đổi năm 2011 thì "Tịa án tiếp tục
giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ khơng cịn", theo đó ta có thể hiểu là Tịa án
khơng cần phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án và cũng không cần phải thông
báo cho VKS biết việc tiếp tục giải quyết vụ án. VKS cũng không nắm được Tòa án
tiếp tục giải quyết vụ án Tòa ánừ lúc nào cho đến khi nhận được quyết định đưa vụ án
ra xét xử. Tuy nhiên, bất cập nêu trên đã được BLTTDS năm 2015 khắc phục tại Điều
216: "Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi lý do tạm đình chỉ khơng cịn thì

6. Điều 189 BLTTDS năm 2004: Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải
thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức
đó; Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo
pháp luật; Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế; Cần đợi kết quả giải quyết
vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết
trước mới giải quyết được vụ án".
7. Khoản 5 Điều 189 BLTTDS sửa đổi năm 2011: Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp hoặc đợi cơ
quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án mà thời hạn giải
quyết vụ án đã hết.
8. Khoản 2 Điều 4 Luật phá sản 2014:Tòa án nhân dân, trọng tài phải tạm đình chỉ việc giải quyết vụ việc
dân sự, kinh doanh, lao động có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên
đương sự. Thủ tục tạm đình chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và pháp luật về
trọng tài thương mại.


×