Tải bản đầy đủ (.pdf) (197 trang)

Hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong xu hướng nhất thể hoá pháp luật về đầu tư ở nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.61 MB, 197 trang )


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN KHẮC ĐỊNH

HỒN THIỆN PHÁP LUẬT


m

VẾ ĐẦU Tư TRỤC TIẾP NUỚC NGỒI TRONG

xu HNG

NHẤT THỂ HĨA PHẤP LUẬT VẾ ĐẨU Tư ở VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật kinh tế
M ã số

: 5.05.15

LUẬN ÁN TIẾN Sỉ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Hồng Hạnh



HÀ NỘI - 2003


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các s ố liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Khắc Định


M ỤC LỤC
Trang
MỎ ĐẤU

Chưong 1 :

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỂ ĐẦU T ư TRỰC TIẾP

8

NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỂ ĐẦU T ư TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI


1.1.

Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài

1.2.

Khái niệm về pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngồi

25

1.3.

Vấn đề nhất thể hóa pháp luật đầu tư

42

Chương 2:

53

s ự PHÁT TRIỂN VỂ NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT

8

ĐẦU T ư TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

2.1.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của
pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam


53

2.2.

Sự phát triển của pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài - cách

62

tiếp cận so sánh dưới góc độ nhất thể hóa
2.3.

Xu hướng phát triển xích lại gần nhau giữa pháp luật về đầu

105

tư trực tiếp nước ngoài và pháp luật đầu tư trong nước
2.4.

Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển pháp luật đầu tư

118

Chương 3:

131

TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỂ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI THEO HƯỚNG NHẤT THỂ
HĨA PHÁP LUẬT VỂ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM


3.1.

Tính tất yếu của việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đầu tư

131

trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
3.2.

Hoàn thiện pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài - những giải

158

pháp tiến tới nhất thể hóa pháp luật về đầu tư
KẾT LUẬN

181

NHŨNG CƠNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC

18 4

CƠNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

185


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (viết tắt của cụm từ tiếng Anh Foreign Direct Investment).
ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức (viết tắt của cụm từ tiếng Anh Official Divelopment Assistance).
Điều lệ đầu tư năm 1977: Điều lệ về đầu tư của nước ngồi ở nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành kèm theo Nghị định số
115/CP, ngày 8 tháng 4 năm 1977.
Luật Đầu tư: Luật Đầu tư nước ngoài tại Viột Nam.
Luật Đầu tư năm 1987: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành
ngày 29 tháng 12 năm 1987.
Luật Đầu tư năm 1990: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành ngày 30 tháng 6 nãm 1990.
Luật Đầu tư năm 1992: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành ngày 23 tháng 12 năm 1992.
Luật Đầu tư năm 1996: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành
ngày 12 tháng 11 năm 1996.
Luật Đầu tư nãm 2000: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành ngày 9 tháng 6 năm 2000,


I

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với việc mở rộng và đa dạng hóa các quan hệ hợp tác quốc tế,
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một bộ phận quan trọng trong tồn
bộ chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm
vừa qua, FDI ngày càng được thừa nhận như là một giải pháp quan trọng góp
phần thúc đẩy sự phát triển nội sinh của nền kinh tế đất nước.
Trong q trình đó, pháp luật về FDI có vai trò hết sức quan trọng.

Pháp luật về FDI là công cụ quản lý hữu hiệu và khoa học của Nhà nước nhằm
định hướng cho các hoạt động đầu tư nước ngồi, là "vũ khí" cạnh tranh sắc
bén với các nước trong khu vực trong thu hút đầu tư; đồng thời là hàng rào
pháp lý để ngăn chặn các ảnh hưởng tiêu cực của các hoạt động này, giữ ổn
định và cân đối cho các hoạt động đầu tư trong xã hội. Hơn thế nữa, pháp luật
về FDI còn thúc đẩy sự hoàn thiện của cả hệ thống pháp luật.
Trong khi ờ nhiều nước trên thế giới chỉ tồn tại một khung pháp luật về
đầu tư áp dụng chung cho mọi đối tượng, thì ở Việt Nam, ngay từ khi văn bản
pháp luật đầu tiên về FDI ra đời cho đến nay, hệ thống các quy phạm pháp
luật về FDI vẫn đang tồn tại với tính chất là một khung pháp luật tương đối
độc lập bên cạnh khung pháp luật về đầu tư trong nước. Sự tồn tại của hai
khung pháp luật về đầu tư đã làm cho các chủ thể kinh doanh chưa được bình
đẳng thực sự về mặt kinh tế bời các chính sánh và biện pháp khuyến khích,
bảo hộ đầu tư hay hạn chế đầu tư được áp dụng rất khác nhau đối với các chủ
thể đầu tư.
Hệ thống các văn bản pháp luật về FDI ở Việt Nam hiện nay có đến hàng
trăm văn bản quy đinh về nhiều vấn đề khác nhau và liên tục được sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện ưong hơn 14 năm qua, kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt


2

Nam được Quốc hội ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1987. Tuy nhiên, trước
những yêu cầu mới của việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, với tính
chất là một bộ phận trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, pháp luật về FDI
cũng còn nhiều vấn đề bất cập, cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hồn thiện.
So với pháp luật về FDI thì hệ thống các vãn bản pháp luật về đầu tư
trong nước còn đồ sộ hơn nhiều, với hàng ngàn văn bản quy phạm pháp luật,
trong đó khơng ít những quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập với sự
vận động của cơ chế kinh tế mới, chưa bị bãi bỏ hoặc chưa được kịp thời sửa

đổi, bổ sung. Một số lĩnh vực hoạt động của cơ chế kinh tế thị trường còn
trống vắng sự điểu chỉnh của pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước bước sang một giai đoạn mới của
công cuộc đổi mới và phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước ta là
"phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập sâu rộng hơn vào kinh tế khu vực và thế giới", với những cơ hội và thách
thức mới trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế thì hệ thống các văn bản
pháp luật về đầu tư nói chung đang đứng trước những địi hỏi bức xúc cần tiếp
tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm xác lập quyền bình đẳng thực sự cho các
chủ thể kinh doanh, góp phần tạo thế cạnh tranh thắng lợi với các nước khu vực
trong thu hút FDI, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hoạt động
đầu tư ưong nước.
Từ những lý do trên đây, việc nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về
FDI đật trong xu hướng và yêu cầu nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam
đang được đặt ra có tính bức xúc cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Tại nước ta trong những năm gần đây, chủ đề nghiên cứu về khung pháp
lũật và cơ chế, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh các hoạt động đầu tư nước ngoài đã thu hút sự quan tàm của nhiều nhà


3

luật học, kinh tế học. Ở mức độ và phạm vi khác nhau, đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu được cơng bố như: Giáo trình Luật Kinh tế của Trường Đại học Luật
Hà Nội, Giáo trình Luật Kinh tê của Khoa Luật Trường Đại học Khoa học Xã
hội và nhàn văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình đẩu tư nước ngoài của
Đại học Ngoại thương; Đầu tư trực tiếp nước ngồi ở một số nước Đơng Nam Ả,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; các bài: Đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài, của GS.TS Nguyễn Mại, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 6, 1993;

Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Quá khứ, hiện tại và tương
lai của TS. Hồng Phựớc Hiệp, Thơng tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, 1997;
Khu vực thương mại và đầu tư tự do ASEAN của TS. Vũ Đức Long, Tạp chí Luật
học, số 4, 2002; Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện khung pháp luật về đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ của Lê Mạnh Tuấn, 1996;
Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam, Luận án Phó Tiến sĩ của Hồng Phước Hiệp, 1996; Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam - sự ra đời, q trình phát triển và hồn thiện, Luận án Tiến
sĩ của Đỗ Nhất Hồng, 2002. Nhiều cơng trình nghiên cứu khác cũng đề cập ở
mức độ khác nhau những nội dung về pháp luật đầu tư nói chung và pháp luật
FDI nói riêng như các cơng trình nghiên cứu của các tác giả: PGS.TS Nguyễn
Bích Đạt, PGS.TS Lê Hổng Hạnh, TS. Nguyễn Bá Diến, TS. Vũ Huy Hồng,
TS. Vũ Chí Lộc, TS. Võ Đại Lược... Một số dự án hợp tác quốc tế có nội dung
liên quan như: Dự án VIE/94/003 "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp
luật tại Việt Nam" do Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và
Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ; Dự án VIE/95/015 "Tảng cường sự hội nhập
của Việt Nam với ASEAN” do UNDP tài trợ, với chuyên đề ''Môi trường đầu
tư nước ngoài ở Việt Nam - con đường đi tới khu đầu tư ASEAN (AIA)" do
nhóm nghiên cứu của Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực
hiện. Tác giả luận án có một số bài viết được cịng bố và đã bảo vệ thành cơng
luận vãn Thạc sĩ Luật học có nội dung liên quan đến pháp luật về FDI.


4

Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đây đã đề cập trực tiếp
hoặc gián tiếp đến nhiều nội dung về hoàn thiện pháp luật về FDI ở những
mức độ và phạm vi khác nhau, tương ứng với những khoảng thời gian nhất
định, giải quyết nhiều vấn đề bức xúc. Tuy nhiên, việc nghiên cứu có hệ thống
và tương đối đầy đủ về cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề hoàn thiện pháp

luật về FDI tại Việt Nam trong xu hướng và nhu cầu của việc xây dựng một hệ
thống pháp luật đầu tư thống nhất áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngồi, đến nay vản chưa có cơng trình nào đề cập.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận án là nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong xu hướng và nhu cầu nhất thể hóa pháp luật về
đầu tư ở Việt Nam, đề xuất các giải pháp cụ thể về tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về đầu tư và tiến tới nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt Nam.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận án phải giải quyết là:
- Nghiên cứu, làm rõ một số khái niệm, quá trình hình thành và nội dung
từng bước hoàn thiện pháp luật về FDI ở Việt Nam, với tính chất là một bộ phận
trong hệ thống pháp luật, trong mối quan hệ tác động với các yếu tố chính trị,
kinh tế - xã hội ở trong nước và quốc tế, ưong sự tương tác với hệ thống pháp luật
về đầu tư trong nước;
- Nghiên cứu các quy định cùng loại trong pháp luật một số nước để
rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào viộc hoàn thiện pháp luật đầu tư
ở Việt Nam;
- Từ việc nghiên cứu trên đây rút ra những đặc điểm đặc thù của pháp
luật về FDI của Việt Nam và chứng minh xu

hướng xích lại gần nhaugiữa

pháp luật về đầu tư nước ngoài và pháp luật vềđầu tư trong nước ở Việt Nam
trong những năm qua;


5


-

Xác lập cơ sở lý luận và đề xuất những kiến nghị cụ thể về việc tiếp tục

hoàn thiện pháp luật về FDI theo xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư trong
mối quan hệ với các cơ chế chính sách có liên quan với biện pháp và bước đi cụ
thể, nhằm phúc đáp những đòi hỏi của thực tiễn cả về trước mắt và lâu dài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: 1) Hệ thống các văn bản pháp
luật thực định về đầu tư nước ngoài của Nhà nước ta trong mối liên hệ với
pháp luật thực định về đầu tư trong nước và các điều kiện về chính trị, kinh tế
xã hội của đất nước và thực tiễn quốc tế; 2) Thực tiễn công tác thi hành pháp
luật đầu tư nước ngồi và tinh hình hợp tác đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam; 3) Pháp luật thực định về đầu tư nước ngoài của một số nước và những
điều ước quốc tế có liên quan.
Nội dung nghiên cứu mà luận án đề cập là rất rộng và phức tạp, liên
quan đến nhiều chuyên ngành như Lý luận Nhà nước và pháp luật, Luật Kinh
tế, Luật Hành chính, Tư pháp quốc tế, Kinh tế học... Phạm vi nghiên cứu của
luận án này chỉ tập trung sâu vào một nội dung thuộc chuyên ngành Luật Kinh
tế, đó là vấn đề hồn thiện pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngồi theo xu hướng
nhất thể hố pháp luật về đầu tư ở Việt Nam trong mối quan hệ giữa Nhà nước
với các chủ thể đầu tư để xác lập và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ.
Đối với một số nội dung cụ thể có liên quan đến các chuyên ngành khác, luận án
chi đề cập ở một mức độ nhất đinh, trong mối quan hệ cần thiết nhằm tạo lập cơ
sở lý luận có tính hộ thống cho việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là: 1) Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước pháp luật; 2) Hệ thống các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
ta trong sự nghiệp đổi mới. Đó là các quan điểm, chủ trương trong lĩnh vực

xày dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị


6

trường có sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là các quan điểm "mở cửa" và
"kết hợp sức mạnh dàn tộc với sức mạnh thời đại" trong hợp tác đầu tư với
nước nsoài, cũng như các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn.
Luận án cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh để phân tích và so sánh
tổng hợp một một số khía cạnh trong pháp luật về FDI của Việt Nam với một
số quy định cùng loại trong pháp luật của một số nước khu vực để từ đó đưa ra
các kiến nghị có sức thuyết phục về lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng
kinh nghiệm nước ngoài vào việc hoàn thiện pháp luật về đầu tư của Việt Nam.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là cơng trình nghiên cứu đầu tiên thuộc chun ngành Luật
Kinh tế có nội dung về hồn thiện pháp luật về FDI đặt'trong sự tương tác của
cả hệ thống pháp luật để chứng minh xu hướng và nhu cầu nhất thể hóa pháp
luật về đầu tư ở Việt Nam; làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
nhất thể hóa pháp luật đầu tư ở Việt Nam.
Luận án xem xét các vấn đề pháp luật về FDI trong mối liên hệ biện
chứng giữa các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật... Chính vì vậy, các
nhận định trong luận án chứa đựng những thể hiện mới về cách tiếp cận toàn
diện khi nghiên cứu vấn đề nhất thể hóa pháp luật về đầu tư.
Luận án phân tích, đánh giá một cách tương đối đầy đủ về những nhân
tố ảnh hưởng đến sự ra đời, phát triển và nội dung của pháp luật về FDI ở Việt
Nam; khái quát hóa về mặt lý luận các đặc điểm của pháp luật về FDI ở Việt Nam.
Luận‘án thể hiện nội dung nghiên cứu về mặt lịch sử và thực tiễn các

quv phạm pháp luật về đầu tư, qua đó chứng minh tính độc lập tương đối của
pháp luật về FDI, xu hướng vận động, xích lại gần nhau giữa đầu tư trong


7

nước và đầu tư nước ngoài; khẳng định nhu cầu tất yếu của việc nhất thể hóa
pháp luật đầu tư ờ Việt Nam.
TÙ4ihững kết quả nghiên cứu trên đày, luận án xác lập cơ sở lý luận và
thực tiễn cùng những kiến nghị cụ thể cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
FDI nói riêng theo xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư nước ngồi với
pháp luật về đầu tư trong nước, xây dựng mặt bằng pháp luật chung cho các
hoạt động đầu tư ở Việt Nam.
Luận án có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận
và thực tiễn của sự hình thành, q trình vận động và khơng ngừng hồn thiện
của pháp luật về FDI; làm rõ cơ sở lý luận và chứng minh xu hướng nhất thể
pháp luật về đầu tư, đồng thời xác định những nguyên tắc và giải pháp mang
tính chất định hướng cho việc tiếp tục thực hiện q trình nhất thể hóa này.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu hộ thống
pháp luật thực định về đầu tư nước ngồi, trong cơng tác xây dựng pháp luật,
trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngồi hay trong cơng tác giảng dạy các
môn khoa học pháp lý như Luật kinh tế, Lý luận nhà nước và pháp luật, Luật
so sánh..
7. Kết cấu của luận án
Naoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 cìương, 10 mục.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ ĐẦư TƯTRựC TIÊP NƯỚC NGOÀI
VÀ PHÁP LUẬT VỂ ĐẨU T ư TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.1. KHÁI NIỆM VỂ ĐẦU T ư TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI

1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngồi
Cùng với việc mở rộng và đa dạng hóa các quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế, hoạt độn2 đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan
trọng trong tồn bộ chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước ta. Trong những
năm vừa qua, kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ra đời và thực hiện, đầu
tư trực tiếp nước nsoài ngày càng được thừa nhận như là một giải pháp quan
trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển nội sinh của nền kinh tế đất nước.
Về mặt kinh tế, FDI là một hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng
bởi quá trình di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác. Mặc dù cịn nhiều
khác biệt về quan niệm nhưng nhìn chung ở các nước thì FDI được hiểu như là
một hoạt độna kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt ở tầm vĩ mô về mặt chủ thể
nhưng lại có sự kết hợp ở tầm vi mơ trong việc sử dụng vốn và quản lý đối tượng
đầu tư. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài được định
nghĩa là: "Một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó, một tổ chức
trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) muốn kinh doanh với một tổ chức
trong một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều
ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đật tại nền kinh tế khác đó" [105].
Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngồi
(chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác nhau). Nhân
tố nước ngồi ở đày khơng chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc tịch hoặc về
lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực
tiếp nước ngồi mà cịn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong đầu tư trực tiếp



9

nước ngồi vượt ra ngồi tầm kiểm sốt của một quốc gia. Việc di chuyển tư
bản này là nhằm phục vụ mục đích kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư mà
việc kinh doanh đó do chính các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện hoặc kết hợp
với chủ đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thực hiện. Từ đó, có thể rút ra hai đặc
điểm cơ bản của FDI là:
- Có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế;
- Chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử
dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Hiện nay quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra tại hầu hết các
nước trên thế giới, v ề mặt pháp lý, khái niệm về FDI đã trở thành một khái
niệm phổ biến được ghi nhận trong các đạo luật, đó là Luật khuyên khích đầu tư
(ở Thái Lan), Luật khuyến khích đầu tư áp dụng cho từng ngành (ở Hàn Quốc)
hoặc Luật riêng về đầu tư trực tiếp nước ngoài (ở Indonesia, Việt Nam)...
Theo Luật Đầu tư của Indonesia thì: Đầu tư trực tiếp nước ngồi là
nhằm mục đích thực hiện kinh doanh tại Indonesia, với nhận thức rằng người
chủ sở hữu vốn phải trực tiếp gánh chịu rủi ro của đầu tư. Do đó, cần phải chỉ
ra khả nâng vốn nước ngoài được sử dụng trong một doanh nghiệp hoặc được
sử dụng trong một doanh nghiệp có hợp tác với vốn trong nước. Vốn nừớc ngồi
khơng chỉ là ngoại tệ mà bao gồm cả các tài sản cố định cần thiết cho hoạt
động của doanh nghiệp ở Indonesia, phát minh sáng chế thuộc sở hữu của tổ
chức, người nước ngoài được sử dụng vào doanh nghiệp ở Indonesia, và lợi nhuận
lẽ ra được chuyển ra nước ngoài nhưng lại được sử dụng ở Indonesia [100].
Trong quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, đối với nước xuất khẩu tư
bản, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như việc di chuyển tư bản ra nước
ngồi nhàm thiết lập ở đó những hoạt động kinh doanh nhất định để thu lợi
nhuận; còn đối với nước tiếp nhận đầu tư nó lại là việc tiếp nhận vốn của
người nước ngoài để cho phép chủ đầu tư nước ngoài tố chức các hoạt động
kinh doanh theo những hình thức mà pháp luật quy định. Điều đó cho thấy,



10

dù nhìn nhận dưới góc độ nào FDI cũng đều là hoạt động kinh doanh quốc tế
dựa trên cơ sở của quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do
các pháp nhàn và thể nhân thực hiện theo những hình thức nhất định mà qua
đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư.
Ở Việt Nam, văn bản pháp lý đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài là
Điều lệ về đầu tư của nước ngồi tại Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977. Điều lệ này
không nêu định nghĩa cụ thể FDI nhưng trong tư tưởng của các quy phạm thi
khái niệm FDI cũng cơ bản giống như khái niộm được ghi nhận sáu này trong
các Luật Đầu tư như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được
Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh ưên cơ sở hợp đồng hoặc
thành lập doanh nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,
(khoản 3, Điều 2, Luật Đầu tư 1987; khoản 1, Điều 2, Luật Đầu tư 1996).
Như vậy, về mặt pháp lý, khái niệm FDI được đề cập trong luật của
các quốc gia chỉ giới hạn phạm vi nhìn nhận về FDI dưới con mắt của nước
tiếp nhận đầu tư. Khái niệm này không bao gồm hoạt động đầu tư gián tiếp
nước ngồi, cũng khơng bao gồm các quan hệ thương mại thông thường.
Tuy nhiên, một điều cần chú ý khi nghiên cứu là, khái niệm đầu tư trực
tiếp theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với giới hạn như trên khác với
khái niệm đầu tư nước ngoài trong các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu
tư mà Việt Nam đã ký kết với các nước. Theo các Hiệp định này, thuật ngữ
"đầu tư nước ngoài" được sử dụng để chỉ các loại tài sản mà các nhà đầu tư
của nước ký kết này dùng để đầu tư vào nước ký kết hữu quan kia. Khái niệm
đó cũng được sử dụng để chỉ các giá trị tài sản của các nhà đầu tư của các
nước hữu quan. Danh mục các tài sản và giá trị tài sản được gọi là "đầu tư" đó

rất rộng, từ những cái rất cụ thể như "cổ phần", "bản quyền", các "động sản”,
"bất động sản" đến những cái rất trừu tượng như "yêu sách về tiền được sử


11

dụng để tạo n các giá trị kinh tế", "yêu sách về dịch vụ có giá trị kinh tế" hoặc
"địa nhượng .heo cơng pháp" [10]. Nội dung khuyến khích và bảo hộ đầu tư
trong các Hiệp định này bao gồm việc khuyên khích và bảo hộ đầu tư đối với
cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
1.1.2. Đầu tư nước ngồi dưới góc độ so sánh
Để làm rõ hơn khái niệm FDI, việc so sánh FDI với đầu tư gián tiếp
nước ngồi, các quan hệ thương mại có nhân tố nước ngoài và đầu tư trong
nước là hết sức cần thiết.
1.1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài
Để phân biệt FDI và đầu tư gián tiếp nước ngoài, trước hết cần nghiên
cứu tổng qt về các nguồn tài chính nước ngồi du nhập vào một nước.
Dịng vốn tư bản nước ngồi du nhập vào một nước bằng hai kênh:
1) kênh nhà nước có tên gọi là Tài chính phát triển chính thức (Official
Development Finance - ODF); 2) kênh tư nhân có tên gọi là các nguồn tư
"nhân (Total Private Flows - TPF). Kênh nhà nước cịn gọi là kênh chính thức
hoặc kênh cơng quản (Official). Hình thức chủ yếu của kênh nhà nước là hỗ
trợ hay viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance ODA) gồm viện trợ cho không (Official Grants) và cho vay dài hạn với lãi
suất thấp có tên gọi là cho vay ưu đãi chính thức (Official Concessional
Loans). Ngồi ra, cịn có hình thức cho vay dài hạn thơng thường có tên gọi là
cho vay khơng ưu đãi chính thức (Official Nonconcessional Loans). Hình thức
chù yếu của kênh tư nhân là đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Foreign Direct
Investment - FDI) và đầu tư gián tiếp bằng đóng góp vốn cổ phần (đầu tư
chứng khốn lãi khơng cố định - Poríolio Equity Flows) cùng các nguồn vay
tư nhân. Các nguồn vay tư nhân gồm vay ngân hàng thương mại (Commercial

Bank) với lãi suất trẽn thị trường, vay dưới hình thức phát hành trái phiếu
(Bond Debt Flows) và các nguồn tư nhân khác. Hình thức đầu tư chứng khốn
lãi khơng cố định (Poríolio Equity Flows) và vay dưới hình thức trái phiếu


12

(Bond Debt Flows) hợp thành hình thức đầu tư chứng khốn nói chung
(Poríolio Investment).
(Ị)- Phản biệt Đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) và Hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA): Sự khác biệt về chủ thể đầu tư được thể hiện ở chỗ, trong
đầu tư gián tiếp (dưới hình thức ODA), chủ thể chủ yếu là các quốc gia và các
tổ chức tài chính quốc tế. Trong khi đó, chủ thể chủ yếu thực hiện các hoạt
động đầu tư trực tiếp là thể nhân và các pháp nhân.
Về nguồn vốn, trong FDI, vốn đầu tư bao gồm tiền mặt, sở hữu công
nghiệp và các tài sản khác được nước nhận đầu tư chấp nhận. Khác với nguồn
FDI, các loại nguồn ODA bao gồm: a) hỗ trợ tài chính: Cung cấp tiền ở dạng
cho không hay cho vay lãi suất thấp. Khi hỗ trợ tài chính ở dạng song phương
thì nó có thể bị ràng buộc với việc phải mua hàng ở nước tài trợ; b) Hổ trợ kỹ
thuật: Cung cấp cố vấn và những chuyên gia kỹ thuật mà nước tiếp nhận đang
thiếu (nhưng cũng quy ra tiền thông qua lương và các khoản thù lao trả cho
các cố vấn, chuyên gia đó); hỗ trợ bằng hiện vật dưới dạng hàng hóa như tư
liệu sản xuất, lương thực, thực phẩm v.v...
Về mục đích, quan hệ FDI là quan hệ kinh doanh theo cơ chế thị
trường, có mục đích kinh doanh. Vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và
cuối cùng của các chủ đầu tư. Còn trong đầu tư gián tiếp dưới hình thức ODA,
kinh doanh và lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của chủ đầu tư bởi
quan hệ này không phải là quan hệ kinh doanh một cách thuần túy. Mục đích
ODA có thể là: a) Tính đồn kết quốc rê'như quyết định của Liên Hợp Quốc là
các nước giàu phải dành 0,7% GDP cho viện trợ cho các nước nghèo; b) Lợi

ích thương mại: Các nước tài trợ muốn dùng viện trợ như một biện pháp để
tăng cường xuất khẩu sang các nước đang phát triển và có thể áp dụng các
ràng buộc thương mại đối với phần viện trợ của họ; c) Lợi ích chính trị: Các
nước tài trợ muốn khuyến khích Chính phủ các nước tiếp nhận viện trợ thay
đổi chính sách của họ về khía cạnh nào đó, ví dụ như: Thay đổi chính sách


13

kinh tế vĩ mô, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chống tham nhũng; các yêu cầu liên
quan tới nhân quyền, dân chủ và vai trò của khu vực nhà nước...
Thực ra, cần thấy rằng ODA không phải là sự chuyển giao
đơn thuần và những nhà tài ượ khơng hồn tồn "vô tư". Trong
nhiều trường hợp, nước nhận ODA phải tăng cường nhập khẩu các
hàng hóa và dịch vụ của nước tài trợ và mở cửa ưu đãi cho các công
ty của những nước này chiếm các hợp đồng béo bở trong các dự án
có nhận vốn ODA. Đó là lý do khiến nhiều nhà kinh tế ví von ODA
như là mũi khoan của một nước giàu, có thể xuyên thủng bức tường
bảo hộ mậu dịch của một nước khác [89].
Vê' tính chất, vì quan hệ FDI là quan hệ có mục đích kinh doanh, tìm
kiếm lợi nhuận nên nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong nền kinh
tế thị trường, ít chịu ảnh hưởng bởi các quan hệ chính trị. Hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc các chủ đầu tư nước ngoài đưa vốn vào nước tiếp
nhận đầu tư để kinh doanh. Vì vậy, FDI không thể biến nước tiếp nhận đầu tư
thành con nợ của nước có tư bản xuất khẩu qua đầu tư trực tiếp. Còn đối với
đầu tư gián tiếp ODA thì sao ? Quan hộ đầu tư gián tiếp này là quan hệ mang
màu sắc chính trị, bị ảnh hưởng bởi quan hệ giữa các quốc gia với nhau và với
các tổ chức tài chính quốc tế, ít chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế.
Trong đầu tư gián tiếp, viện trợ khơng hồn lại khơng phải là phổ biến mà phổ
biến là quan hệ cho vay ưu đãi. Như vậy, đầu tư gián tiếp biến nước tiếp nhận

đầu tư thành con nợ của nước hay tổ chức quốc tế đã xuất khẩu tư bản qua các
quan hệ đầu tư gián tiếp. Hơn nữa, nước tiếp nhận đầu tư gián tiếp không chỉ
bị biến thành con nợ mà còn phải bảo đảm một số điều kiện khác mang tính
chính trị như phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng, ổn định tỷ lệ lạm phát, cân
bằng cán cân thanh toán, phải giảm chi thường xuyên từ ngân sách Nhà nước,
phải có dự án đầu tư cụ thể... thì mới được tiếp nhận vốn đầu tư với hình thức
chủ yếu là vay vốn tín dụng ưu đãi. Về vấn đề này, Báo cáo của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, tháng 3/1996 đã đề cập:


14

Bên cạnh những thuận lợi to lớn ở trong nước và quốc tế đối
với việc thu hút và sử dụng ODA, chúng ta cịn nhiều khó khãn và
thách thức. ODA trên thế giới là nguồn vốn có hạn, lại có sự cạnh
tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển. ODA và chính trị đi
liền với nhau, các nước cung cấp ODA thường hay gắn các điều
kiện để mưu tìm lợi ích kinh tế hoặc chính trị. Phần lớn ODA là vốn
vay, tuy có phần ưu đãi song phải trả nợ, nếu khơng tính tốn đúng
đắn sẽ có nguy cơ mắc phải nợ nần [3].
Báo Asahi Shibun, ngày 13/6/1996 của Nhật Bản cũng đã coi "ODA là
vũ khí ngoại giao quan trọng nhất của Nhật Bản" [76].
(2)- Phân biệt FDI với đầu tư gián tiếp nước ngoài của pháp nhân, thể
nhân: Pháp nhân, thể nhân khi tiến hành đầu tư với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận tại một quốc gia khác, họ trở thành nhà đầu tư nước ngồi. Hình thức
đầu tư mà họ có thể lựa chọn là đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
Các hình thức đầu tư này, tuy có điểm giống nhau về chủ thể đầu tư và
mục đích kinh doanh nhưng khác nhau về bản chất và nội dung quản lý vốn, đối
tượng đầu tư, thủ tục tiến hành và nguồn luật điều chỉnh.
Về bản chất, ưong đầu tư trực tiếp, chủ thể đầu tư và vốn đầu tư ln

gắn bó chặt chẽ với nhau. Các nhà đầu tư trực tiếp quản lý vốn đầu tư của
mình, trực tiếp điều hành hoặc tham gia điều hành dự án đầu tư, thu lợi nhuận
và trực tiếp gánh chịu rủi ro từ hoạt động đầu tư. Trong đầu tư gián tiếp, các
nhà đầu tư thực hiện đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của các
doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư hoặc cho các doanh nghiệp ở nước nhận đầu
tư vay vốn tín dụng. Việc thu lợi nhuận được thực hiện qua qua lãi cổ tức hoặc
lãi suất thỏa thuận. Các chủ đầu tư gián tiếp nước ngồi khơng trực tiếp điều
hành quản lý hoạt động kinh doanh của dự án họ bỏ vốn đầu tư. Các doanh
nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư có tồn quyền chủ động sử dụng và quản lý vốn
đầu tư theo mục đích của dự án đầu tư.


15

Trong đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư có thể bằng tiền, tài sản khác hoặc
bằng công nghệ. VI vậy, thơng qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được
công nghệ tiên tiến và học hỏi được kinh nghiệm quản lý do nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào. Đối với đầu tư gián tiếp, vốn chỉ có thể là tiền, khơng thể là
hiện vật hoặc cơng nghệ. Vì vậy, doanh nghiệp nhận vốn không thể tiếp nhận
công nghệ hiện đại trực tiếp từ việc tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp của các nhà
đầu tư nước ngoài.
Ở nước ta, nguồn luật điều chỉnh hoạt động FDI là Luật Đầu tư nước
ngồi tại Việt Nam và các văn bản có liên quan. Nguồn luật điều chỉnh hoạt
động đầu tư gián tiếp là một số vãn bản khác, thích ứng với từng trường hợp
như: các quy định về bán cổ phiếu, trái phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài trong
Luật Khuyên khích đầu tư trong nước và các văn bản có liên quan, các quy
định về vay vốn túi dụng nước ngoài trong các Luật về doanh nghiệp, Luật về
ngân hàng...
Độ an toàn về kinh tế cho nước tiếp nhận đầu tư cũng thể hiện sự khác
biệt lớn giữa hai hình thức đầu tư nói trên. Đầu tư gián tiếp của thể nhân, pháp

nhân nước ngồi tuy có vai trị quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của
nước nhận đầu tư nhưng lại biến nước nhận đầu tư thành con nợ. Đa số nguồn
vốn này là cổ phiếu, trái phiếu được chuyển nhượng dễ dàng qua thị trường
chứng khoán. Vì vậy, rất dễ xảy ra tình trạng rút vốn ồ ạt mà nước nhận đầu tư
khơng kiểm sốt nổi. Tình hình này sẽ gây tác động xấu đối với nền kinh tế.
Ngược lại, FDI khỏng có các đặc điểm như vậy nên việc tiếp nhận FDI có độ
an tồn về kinh tế cao hơn cho nước tiếp nhận đầu tư. Báo cáo về "Triển vọng
phát triển châu Á" (ADO) của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tháng 4
năm 2001 đã phàn tích lý do của dịng vốn đầu tư gián tiếp trên thế giới gồm
cổ phiếu, trái phiếu và các quỹ đầu tư khác (gồm cả vay tín dụng ngân hàng)
đã: "tăng lèn khi các thị trường được nới lỏng kiếm sốt và các nhà đầu tư nhìn
thấy cơ hội tìm kiếm nhiều lợi nhuận". Cùng với sự rút vốn ồ ạt ra khỏi các thị


16

trường kém hấp dẫn, các hoạt động đầu tư gián tiếp này "suy yếu dần sau cuộc
khùng hoảng tiền tệ ở Mê-hi-cơ năm 1995" và "sụp đổ hồn tồn sau cuộc
khủng hoảng tài chính ở châu Á vào năm 1997-1998". Vào thời điểm này, nguồn
vốn đầu tư gián tiếp đã giảm đến 87% so với đỉnh cao năm 1996, làm cho
nền tài chính của nhiều nước càng nhấn sâu vào khủng hoảng. Trong khi đó
"đầu tư trực tiếp nước ngồi tỏ ra ổn định hơn nhiều so với dòng vốn đầu tư gián
tiếp trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á. Hơn nữa có một nhận
thức rõ ràng rằng nhà đầu tư trực tiếp nước ngồi khơng thể dễ dàng tháo gỡ
máy móc ra khỏi nhà máy khi họ mất niềm tin và muốn rút lui" [66, tr. 2; 33].
1.1.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước
Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, dù xét dưới giác độ đều là đầu
tư trực tiếp, khơng có sự tách rời quyền quản lý của chủ đầu tư và vốn đầu tư
nhưng cũng có nhiều sự khác nhau do bản chất về vốn và tính chất của chủ
đầu tư quy định.

Về hình thức biểu hiện, sự khác biệt chủ yếu thể hiện qua chủ thể đầu
tư, nguồn gốc vốn đầu tư và hình thức đầu tư. Trong FDI, bắt buộc phải có sự
hiện diện của các nhân tố nước ngồi, đó là vốn đầu tư và quốc tịch của chủ
thể đầu tư. Ngược lại, đối với đầu tư trong nước, pháp luật khơng có địi hỏi
mang tính bắt buộc này.
Về các hình thức đầu tư theo các quy định của pháp luật Việt Nam.
đầu tư nước ngồi được thực hiện dưới các hình thức: doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh; còn
đầu tư trong nước được thực hiện theo các hình thức: doanh nghiệp nhà nước,
hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh,
doanh nghiệp tư nhân...
Pháp luật Việt Nam có nhiều quv đinh về thủ tục và điều kiện đầu tư, sự
khuyến khích hay hạn chế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài khác với đầu tư
trong nước. Ngược lại, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chế độ


17

đối xử đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài
được áp dụng trên một mặt bàng pháp lý chung.

1.1.2.3.

Đầu tư trực tiếp nước ngồi với các quan hệ thương mại có

yếu tỏ nước ngoài
Các quan hệ này đều là quan hệ kinh tế có yếu tố nước ngồi. Các yếu tố
nước ngồi được thể hiện qua chủ thể, hàng hóa, tiền tệ, nơi thực hiện quan hệ.
Các quan hệ hợp đồng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài (hợp đồng liên
doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh...) có nhiều điểm khác biệt nếu so sánh

với các quan hệ thương mại hàng hóa như quan hệ thông qua các hợp đồng
xuất nhập khẩu hàng hóa, gia cơng hàng hóa, chuyển giao cơng nghệ...
Bản chất của FDI là việc di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác
để kinh doanh và chủ đầu tư không bị tách rời khỏi vốn đầu tư như trên đã
phân tích. Quan hệ hợp đồng trong đầu tư trực tiếp là quan hộ hợp tác nhằm
thực hiện một dự án đầu tư, không phản ánh trực tiếp sự ngang giá về hàng tiền. Các quan hộ này chịu sự điều chỉnh của pháp luật về FDI và có thời hạn
kéo dài theo thời hạn của dự án đầu tư. Còn các quan hệ thương mại là các
quan hệ trao đổi hàng - tiền giữa các chủ thể trong từng vụ việc cụ thể, theo
nguyên tấc nsang giá (tính chất có đền bù); dù có sự chuyển dịch hàng - tiền
quan biên giới, từ nước này qua nước khác nhưng không kéo theo sự quản lý
của chủ sở hữu. Sự chuyển giao quyền quản lý và trách nhiệm gánh chịu rủi ro
giữa chủ thể này với chủ thể khác ở các quốc gia khác nhau trong quan hệ
thương mại hàng hóa đi liền với đối tượng chuyển giao. Các quan hệ này chịu
sự điều chinh của pháp luật về thương mại.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực tiễn thế giới cũng như ở Việt Nam đã phản ánh rằng FDI có vai
trị hết sức to lớn đối với nước tiếp.nhận đầu tư, đặc biệt những nước đang phát
triển. Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và thơng thường, nó ln
được đề cập trong các cơng trình nghiên cứu về FDI. Vốn, cơng nghệ và kinh


18

nghiệm quản lý tiên tiến, khai thác tài nguyên, hợp lý hóa cơ cấu kinh tế để
phát triển đất nước, tạo công ăn việc làm là nhu cầu và nguyện vọng của bất
cứ quốc gia nào. Đối với những nước nghèo, chậm phát triển nó lại càng là mơ
ước mà khó có thể tự mình thực hiện. Trong thực tế nhiều năm qua, FDI đã giúp
cho các nước nghèo thực hiện dần những nguyện vọng đó của mình. Vì vai trò
quan ưọng của FDI nên ngày nay kể cả các nước phát triển và đang phát triển
đều đang ra sức cạnh ưanh để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại cho nước chủ nhà nhiều mối lợi.
Thể hiện rõ ràng nhất là việc chuyển giao vốn, công nghẹ hiện đại và kỹ năng
quản lý nếu khơng có FDI sẽ khơng có được hoặc có với giá rất đắt... Đầu tư
trực tiếp nước ngồi của các cơng ty đa quốc gia sản xuất để xuất khẩu giúp
nước chủ nhà có thể tiếp cận được với thị trường nước ngồi [46, tr. 32].
Có nhiều cơng trình nghiên cứu ở ừong nước và nước ngồi đề cập đến
vai trò của FDI với mức độ khác nhau. Theo chúng tơi, các vai trị sau đây của
FDI là đặc biệt đáng ghi nhận.
1.1.3.1. B ổ sung vốn cho nền kinh tế
Trước hết, FDI đóng vai trị là một nguồn cung cấp vốn lớn, góp phần
giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư - một căn bệnh kinh niên và phổ biến
của bất kỳ quốc gia chậm phát triển nào. Ở Indonesia, sau khi ban hành Luật
Đầu tư nước ngoài năm 1967, FDI đã cung cấp một lượng vốn bình quân trong
27 năm (1967 - 1994) là 1,15 tỷ USD. ở Philippines, FDI đã cung cấp 170
triệu USD nãm 1987 và tãng gấp 16 lần vào năm 1994 (2,66 tỷ USD). Trong
những năm Philippines đang trên đà tăng trưởng kinh tế ở mức cao họ vẫn cho
rầng nếu sử dụng vốn nước ngồi hợp ỉý thì có thể khuyên khích được tính
hiệu quả của nền kinh tế và từ năm 1991 Philippines khơng cịn coi đầu tư
nước ngồi vào nền kinh tế nội địa là "chủ nghĩa đế quốc kinh tế” nữa, mà coi
đó là "sự cần thiết và bây giờ phải mở cửa" [97]. Ở Trung Quốc, FDI đã cung
cấp cho đất nước rộng lớn này 87 tỷ USD vốn thực hiện trong 15 nãm 1979


19

đến năm 1994 và hàng trăm tỷ USD từ năm 1995 đến năm 2001... Một nước
phát triển cao như Mỹ với tổng GNP là 7.233 tỷ USD (1995) và tổng vốn đầu
tư là 1.029 tỷ USD (1995), FDI cũng làm tăng thêm nguồn sinh khí mới cho
thị trường đầu tư của Mỹ. Đối với các nước đang rất thiếu vốn để cơng nghiệp
hóa như Việt Nam thì FDI càng có tầm quan trọng hơn. Vốn FDI được sử

dụng sẽ có tác động thúc đẩy các đồng vốn khác trong nước hoạt động (một số
nhà kinh tế đã tính rằng 1 đồng vốn FDI đã làm cho 4 đồng vốn trong nước
hoạt động theo) [60]. Lý do là, các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta phải sử
dụng đường sá, cầu cống, bến cảng, đất đai, nhà ở, bệnh viện, trường học...
của ta và họ phải trả phí dịch vụ cho các hoạt động đó, và như vậy đã làm cho
các đồng vốn bỏ vào các ĩĩnh vực trên hoạt động náo nhiệt hơn. Một vùng đất
hoang khơng có giá trị nay được chủ đầu tư sử dụng, lập tức có giá trị hàng
triệu USD. Một kết quả nghiên cứu khác ở Singapore cũng cho thấy rằng vốn
đầu tư nước ngồi tăng bao nhiêu thì đầu tư trong nước cũng tăng bấy nhiêu
tại nước chủ nhà [103].
Ở Việt Nam, tính đến hết năm 1995, vốn FDI đã được thu hút với mức
vốn đãng ký là 19,353 tỷ USD, mức vốn thực hiện khoảng 30% (bình quân
gần 1 tỷ USD/năm trong giai đoạn 1988 - 1996). Tốc độ thu hút vốn FDI ở Việt
Nam từ 1988 - 1995 tăng bình quân 50%/năm [4]. Trong giai đoạn 1996 - 2000:
Đầu tư trực tiếp nước ngồi tiếp tục gia tăng đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế - xã hội, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi
(khơng kẹ phần góp vốn trong nước) đạt khoảng 10 tỷ USD gấp 1,5
lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới
và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng so với thời kỳ trước 34% [26, tr.238].
Theo đánh giá của Vụ Quản lý dự án thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
"tỷ trọng nguồn vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 25,75%
thời kỳ 1991-1995 lên khoảng 30% trong nhũng năm 1996-2000" [32]. Năm
2001, vốn thực hiện đạt 2,2 tỷ USD, vốn đăng ký mới và bổ sung thêm đạt


20

2,8 tỷ USD [17, tr. 7]. Dự kiến vốn FDI được thực hiện trong kế hoạch 5 năm
2000-2005 khoảng 9 - 10 tỷ USD, bao gồm vốn các dự án đã được cấp phép
chưa được thực hiện của các năm trước; vốn thực hiện các dự án cấp phép mới

và vốn bổ sung các dự án đã thực hiện [26, tr. 269].
Những con số nêu trên cho thấy FDI có vai trò rất quan trọng trong
việc trực tiếp bổ sung vốn, đồng thời kích thích việc tăng đầu tư nội địa cho sự
nghiệp phát triển kinh tế của mỗi nước.
1.1.3.2. Cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, FDI mang lại cho nước tiếp nhận đầu
tư những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, góp phần phát triển lực lượng sản xuất,
cơ cấu lại nền kinh tế... Thực tế cho thấy rằng, kỹ thuật và cơng nghệ nước
ngồi đã giúp cho Malaysia thực hiện thành cơng chiến lược "cơng nghiệp hóa
thay thế hàng nhập khẩu" và chiến lược "hướng về xuất khẩu". Từ chỗ cơ cấu
kinh tế lạc hậu, kỹ thuật thủ công, phân tán, lực lượng sản xuất kém phát triển,
đến giữa những năm 1980, Malayxia đã là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới về
găng tay cao su, thứ hai thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sờ đồ tích phân và
thứ ba thế giới về máv điều hòa nhiệt độ [29, tr. 20]. Rõ ràng là, chỉ có đầu tư
nước ngồi với trình độ kỹ thuật cao phương pháp sản xuất tiên tiến và khả
nâng thâm nhập thị trường thế giới của các công ty xuyên quốc gia mới tạo
được thành cơng nói ưên.
Cũng phải kể đến một xu hướng nữa trong FDI là trong nhiều trường
hợp, các nước phát triển còn mang vào các nước chậm phát triển những công
nghệ tiến tiến hơn ngay cả so với nước mình. Ví dụ ở Nhật Bản, do đồng n
tăng giá nên ngày càng nhiều các công ty của Nhật Bản mang những cơng
nghệ tiến tiến nhất ra nước ngồi để sản xuất hàng hóa rồi nhập khẩu trở lại
Nhật Bản nhằm thu lợi nhuận cao. Đã có thời kỳ các doanh nghiệp có vốn đầu
tư của Nhật Bản ờ Malaixia và Philippines chiếm giữ gần 60% kim ngạch xuất
khẩu vào Nhật Bản của những nước này (năm 1987).


×