Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Đổi mới quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.71 MB, 102 trang )


B ộ GIAO DỤC VẢ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HOC LUẬT HÀ NỒI

TRẦN MINH THƯ

ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ Nước BANG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HCẠT ĐỘNG CỦA CÁC TÔN GIAO ở VIỆT NAM

Chuyên nganh : LÝ LUẬN
‘'" số
-.5.05.01

NHÀ N ước VẢ PHÁP LUẬT

LUẬN ÁN THẠC s ĩ LUẬT HỌC








Người hướng dẫn: GS. PTS H ồng Vãn Hảo

TSHI Vlếiĩ
TPƯỜÍIC;


V .
wc í'f'Ạ.
PiiOHC

H à N ội -1 9 9 9

;!IỈT I

ỵ i/


MỤC LỤC
PHẦN MỞ Đ Ầ U

1

Chương I
C ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰ N G PH Á P LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG






CỦA CÁC TƠN GIÁO ở VIỆT NAM


1.1.


Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về tơn giáo

1.1.1. Đặc điểm của các tôn giáo ở Việt Nam liên quan đến

6
6

công tác quản lý nhà nước.
1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo
1.2.

Vai trị của pháp luật trong quản lý nhà nước đơi với hoạt

9
17

động của các tôn giáo
1.2.1. Đặc điểm công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các

17

tôn giáo.
1.2.2. Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với hoạt

33

động của các tôn giáo.

Chương II
T H ựC TRẠNG QUẢN LÝ N H À NƯỚC Đ ố i VỚI

HOẠT Đ Ộ N G CỦA CÁC TÔN GIÁO ở VIỆT NAM






2.1. Sự phát triển của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam.

37


2.1.1. Trong lĩnh vực lập pháp và lập quy.

37

2.1.2. Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy quản lý hành chính nhà nước

46

2.2.

47

Những thành tựu, tồn tại và nguyên nhân trong quản lý nhà
nước đối với hoạt động của các tôn giáo.

2.2.1. Thành tựu.


47

2.2.2. Tồn tại và nguyên nhân

51

Chương III
PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BANG
PH Á P LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TƠN GIÁO


3.1.





Những quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình đổi mới quản lý

61

nhà nước đối với họat động của các tôn giáo.
3.1.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật trên lĩnh vực quản lý nhà

61

nước đối với hoạt động của các tôn giáo.
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện bộ máy và cơ chế quản lý hành chính

66


nhà nước với hoạt động của các tơn giáo.
3.2.

Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động của các

71

tôn giáo ở Việt Nam - Những phương hướng cơ bản.
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý nhà nước đối với

71

hoạt động của các tôn giáo.
3.2.2. Đổi mới bộ máy quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động

78

của các tôn giáo.

PHẦN KẾT LUẬN

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

94


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tơn giáo là một hiện tượng lịch sử - xã hội tồn tại từ hàng vạn năm.
Kể từ khi xuất hiện, nó đã trở thành yếu tố tham gia vào các quá trình xã
hội, ảnh hưởng đến nhiều phương diện đời sống của con người. Trong q
trình phát triển, tơn giáo đã trải qua những thăng trầm và có sự biến đổi.
Tuy nhiên, tôn giáo vẫn không yếu đi mà ngày càng nổi lên như một hiện
tượng sống động của thời đại.
Trong thời gian qua, nhất là sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu sụp đổ, các tôn giáo khơng chỉ có xu hướng phục hồi, phát
triển ở nhiều quốc gia mà cịn dính líu đến những cuộc xung đột dân tộc,
sắc tộc; liên quan đến xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá, đến những vấn đề
giữ gìn, bảo tồn truyền thống văn hóa của các cộng đồng quốc gia, dân
tộc. ở nhiều quốc gia, các tổ chức tơn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn
vào chính trị dưới nhiều hình thức khác nhau, điều đó càng khẳng định ý
nghĩa chiến lược và vai trò quan trọng của tơn giáo đối với sự ổn định
chính trị và phát triển của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, vấn đề quản lý hoạt
động của các tôn giáo đã trở thành một nội dung quan trọng trong quản lý
nhà nước của mỗi quốc gia. Trước hết, nó là sự đảm bảo bằng pháp luật
cho quyền tự do tín ngưỡng của mọi cơng dân và những hoạt động bình
thường của các tơn giáo; thứ hai nó góp phần vào việc đấu tranh ngăn chặn
những hoạt động lợi dụng tôn giáo, xâm hại tới sự ổn định về chính trị của
mỗi quốc gia.
Trong quản lý nhà nước với hoạt động tôn giáo, pháp luật vừa là công
cụ, vừa là một biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Q trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền, nhiều quốc gia trên thế giới rất quan tâm
nghiên cứu và thường xuyên đổi mới hoàn thiện pháp luật trên lĩnh vực


quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo. Ở nước ta, vấn đề

quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo đã
được đặt ra từ khi mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và được
ghi nhận trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 nhưng những
năm gần đây mới được quan tâm đúng mức.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (1986) đến nay, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật quan trọng trên lĩnh vực
quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo, từng bước đáp ứng
được u cầu tín ngưỡng và những hoạt động tơn giáo chính đáng, bình
thường của quần chúng tín đồ và chức sắc các tơn giáo; làm cho quần
chúng tín đồ, chức sắc các tơn giáo phấn khởi, tin tưởng vào chính sách tự
do tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước, tích cực góp phần phát triển kinh tế,
xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Song, do thực tiễn phục hồi phát triển của các tôn giáo ở Việt Nam
trong thời gian qua diễn biến rất phức tạp, thậm chí có nơi, có lúc mang
tính đột biến, làm cho cơng tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo bộc
lộ nhiều sơ hở, lúng túng, thiếu sót. Nhiều vấn đề mới phát sinh chưa được
điều chỉnh kịp thời, thống nhất. Có địa phương buông lỏng, hoặc xem nhẹ
công tác quản lý nhà nước, dẫn tới hiện tượng giáo hội “lấn lướt” chính
quyền cơ sở; kỷ cương, pháp luật không được thực hiện nghiêm chỉnh;
ngược lại có nơi lại tả khuynh, cấm đốn chặt chẽ, nặng về các biện pháp
hành chính, mệnh lệnh, gây căng thẳng giữa tơn giáo với chính quyền. Các
thế lực thù địch cũng triệt để lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta trong
cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo để xuyên
tác, kích động chống đối, nhằm tạo ra những nhân tố mất ổn định chính trị
- xã hội.
Những tồn tại trên đây có nhiều nguyên nhân, nhưng một nguyên
nhân cơ bản là do công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tơn
giáo cịn những tồn tại, thiếu sót chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới.



Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, tuy đã có một số cơng trình
nghiên cứu về các tơn giáo ở Việt Nam, nhưng chỉ tập trung giải quyết
những vấn đề cụ thể nổi lên liên quan tới chức năng, nhiệm vụ của ngành
mình, địa phương mình, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện về quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo.
Từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Đô7 mới quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam” là
cấp thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn, phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tôn giáo là lĩnh vực được các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn
quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, tuy đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
về tôn giáo nhưng chủ yếu tập trung làm sáng tỏ những giá trị về đạo đức,
tư tưởng; về vai trị tích cực cũng như mặt hạn chế của tơn giáo với đời
sống xã hội; về quá trình phát sinh, phát triển của các tôn giáo trên thế
giới và ở Việt Nam. Điển hình như những cơng trình: GS Đặng Nghiêm
Vạn: "Một số vấn đề lý luận và thực trạng tôn giáo Việt Nam"; "Đạo thờ
cúng tổ tiên", "Điểm qua tình hình tơn giáo hiện nay"; "Đặc điểm tín
ngưỡng và hệ thống tôn giáo dân tộc Việt Nam". GS Nguyễn Tài Thư:
"Phật giáo Việt Nam, những vấn đề đặt ra hiện nay"; "Nho giáo và Nho
giáo ở Việt Nam - Góc nhìn tín ngưỡng về vai trị lịch sử"; "Đạo giáo ở
Việt Nam - Nguồn gốc đặc trưng và vai trị xã hội". PTS Nguyễn Đức Lữ:
"Đặc điểm tơn giáo ở Việt Nam". PGS Nguyễn Hữu Vui: "Tôn giáo và đạo
đức". GS Vũ Khiêu: "Thuốc phiện của nhân dân và tự do tín ngưỡng". GS
Hà Văn Tấn: "Đặc điểm Phật giáo Việt Nam qua ngơi chùa trong đời sống
văn hố cộng đồng". PGS Trần Đình Hượu: "Nho giáo với tư cách là một
tơn giáo". PGS Phùng Hữu Phú: "Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam".
Ngơ Phương Bá: "Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng".



Bộ Cơng an, có tổ chức nghiên cứu một số đề tài khoa học về lĩnh
vực tôn giáo nhưng chủ yếu nghiên cứu về công tác an ninh đấu tranh
chống địch lợi dụng tôn giáo . v ề vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật
với hoạt động của các tơn giáo ở Việt Nam đến nay chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách tồn diện và hệ thống.

3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận án.
Luận án góp phần làm sáng tỏ:
- Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước với hoạt động của các
tôn giáo ở Việt Nam
- Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo ở
Việt Nam.
- Xác định những quan điểm đối mới; kiến nghị phương hướng góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước với các tôn giáo trong giai đoạn
mới.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài này được nghiên cứu dựa trên các phương pháp chủ yếu sau
đây:
- Phương pháp luận Mác-Lênin; nhất là quan điểm lịch sử cụ thể, để
nghiên cứu rút ra những vấn đề có tính ngun tắc, tính đặc thù và nội
dung của quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo.
- Sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để từ đó rút ra những kết luận khoa học
làm cơ sở kiến nghị, đổi mới hoàn thiện hệ thống pháp luật trên lĩnh vực
quản lý nhà nước đối với các tơn giáo.
5. Những đóng góp mói của luận án.



Luận án đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động của các tơn giáo. Những điểm dưới đây là
đóng góp mới của luận án:
- V ề mặt lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng, Nhà
nước ta về vấn đề tôn giáo, luận án góp phần hồn thiện lý luận quản lý
nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo ở nước ta.
- V ề mặt thực tiễn:
Làm rõ được thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động của các
tôn giáo ở Việt Nam. rút ra những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân tồn tại;
Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đổi mới quản lý nhà
nước đối với hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình mới.

6.

Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án bao gồm 3 chương và danh
mục tài liệu tham khảo.


Chương 1
C ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG

ph áp luật đối


Vớ i


hoạt động




CỦA CÁC TƠN GIÁO ở VIỆT NAM
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA VE VAN ĐỂ t ô n
GIÁO

1.1.1. Đặc điểm của các tôn giáo ở Việt Nam liên quan đến công

tác quản lý nhà nước
a.

Nước ta có nhiều tơn giáo và loại hình tín ngưỡng, với khoảng

80% dân s ố có đời sống tín ngưỡng, tơn giáo (chiếm khoảng 1/3 dân số cả
nước). Từ đặc điểm này cho thấy: tôn giáo là vấn đề có tính quần chúng.
Vì vậy, trong quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo cần
phải quan tâm tới những vấn đề:
- Đoàn kết rộng rãi quần chúng có tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau và
khơng tín ngưỡng, tơn giáo trong Mặt trận dân tộc thống nhất; đảm bảo
đại đồn kết dân tộc, phấn đầu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh.
- Tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào tín đồ các tôn giáo hiểu và
thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước liên quan đến tơn giáo, tự do tín ngưỡng và khơng tín
ngưỡng.
- Phải làm cho quần chúng tín đồ hiểu vấn đề đấu tranh loại bỏ yếu tố
chính trị phản động đội lốt tôn giáo, lợi dụng tôn giáo chống phá cách

mạng; tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước gây chia rẽ trong nhân dân, là trách nhiệm của mọi công dân không
phân biệt theo đạo hay khơng theo đạo; từ đó nâng cao ý thức cảnh giác,


tham gia đấu tranh để tự bảo vệ mình, bảo vệ đời sống tín ngưỡng chính
đáng của cộng đồng giáo dân và bảo vệ Tổ quốc.
-

Q trình xây dựng chính sách, pháp luật về tồn giáo phải đảm bảo

sự bình đẳng giữa các tôn giáo.
b. Tôn giáo không chỉ phát triển trong người Kinh, mà còn phát triển
trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Tôn giáo và dân tộc là hai vấn đề đặc trưng rất nhạy cảm của xã hội
Việt Nam, vừa tồn tại độc lập có quan hệ đan xen với nhau. Trong quá khứ
cũng như hiện tại, tôn giáo và dân tộc thường bị các thế lực thù địch và kẻ
xấu lợi dụng kích động. Nước ta là quốc gia có nhiều dân tộc (54 dân tộc
anh em), đa số là người Kinh (tộc Việt) chiếm 87% dân số cả nước; còn
lại là 53 dân tộc thiểu số, chiếm 13% dân số cả nước.1 Nhiều nơi tôn giáo
và dân tộc đan xen nhau khó tách rời. Những năm qua, một số dân tộc
cộng đồng dân cư thiểu số đã từ bỏ tín ngưỡng truyền thống của mình để
theo tôn giáo, gây nên sự xáo trộn về kinh tế - xã hội và ảnh hưởng xấu tới
an ninh - trật tự ở một số địa phương. Điển hình là việc phát triển đạo Tin
lành trong đồng bào H ’Mong ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc và vùng
Tây Nguyên.
Xu hướng phục hồi, phát triển tôn giáo vào các vùng dân tộc thiểu số
đang là một vấn đề bức xúc cũng như lâu dài, đặt ra cho công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động này.
c. Tuyệt đại đa s ố các tín đồ tơn giáo ở nước ta là nhân dân lao động,

trong đố chủ yếu là nơng dân, có q trình đi theo cách mạng, gắn bó với
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên nhìn chung trình độ
dân trí thấp, mê tín cịn nặng, một bộ phận lạc hậu cuồng tín; đặc biệt là
một số tơn giáo có q trình truyền đạo gắn với việc truyền bá tư tưởng
chống Cộng, nên dễ bị kẻ địch lợi dụng vào mục đích chính trị. Đặc điểm

1Theo báo cáo chuyên đề năm 1997 của Ban Dân vận TW


này chỉ rõ tính đặc thù của đối tượng vận động luôn thể hiện hai mặt: về
thành phần xuất thân họ là nhân dân lao động, có khả năng làm cách
mạng, nhưng về tín ngưỡng, tơn giáo có khoảng cách với ta.
Ngoài ra, hơn 2 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngồi phần
đơng có tín ngưỡng, tơn giáo và có mối quan hệ với tơn giáo trong nước;
nhiều chức sắc, nhà tu hành có lịch sử phức tạp.
Số lượng chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo ở nước ta tương đối lớn:
với trên 5 vạn người và khoảng 10 vạn chức việc của các tôn giáo.1 Các
chức sắc, nhà tu hành có trình độ văn hố được các Giáo hội đào tạo cơ
bản, đa số giữ vai trị lớn trong đời sống tinh thần đối với tín đồ, các tôn
giáo... Số chức sắc các tôn giáo chạy ra nước ngồi tuy số lượng khơng
nhiều nhưng thường có những hoạt động chống đối chế độ.
d.

Các tôn giáo ở Việt nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân

tơn giáo nước ngồi
Đa số các tơn giáo ở Việt Nam có quan hệ với các tổ chức và cá
nhân tơn giáo nước ngồi. Thậm chí có những tơn giáo nằm dưới sự chỉ
đạo của tổ chức tôn giáo nước ngoài (như Thiên chúa giáo, Tin lành).
Quan hệ ngoài phạm vi quốc gia là quan hệ ngoại giao quốc tế, liên quan

trực tiếp đến chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đến chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc . Các thế lực thù địch trong và ngồi nước
ln triệt để lợi dụng quan hệ này để móc nối, chỉ đạo, tài trợ, thống nhất
đường hướng hoạt động, phối hợp với nhau thực hiện âm mưu chống đối
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thực tế thời gian qua, một số phần tử cực đoan trong các giáo hội •
tơn giáo ở Việt nam tích cực móc nối với bên ngồi, lợi dụng quan hệ tơn
giáo để xin viện trợ về vật chất, phương tiện, phối hợp hoạt động, chống
nhà nước Việt Nam. Điển hình là các phần tử cực đoan trong Thiên Chúa
giáo, Tin lành và Phật giáo.
1Theo Báo cáo chuyên đề năm 1997 của Ban Dân vận TW


đ- Các tôn giáo luôn luôn bị các th ế lực thù địch lợi dụng đ ể chống
phá cách mạng Việt Nam
Tôn giáo là một lĩnh vực rất nhạy cảm, vốn tự thân đã chứa đựng
những yếu tố phức tạp và thường bị các thế lực phản động lợi dụng. Trong
lịch sử đấu tranh cách mạng, đã khẳng định: các thế lực thù địch ln ln
“ tìm mọi cách tác động vào các tôn giáo, tiếp tay cho những phần tử xấu
trong các giáo hội hòng gây ra những biến động phản cách mạng, kích
động quần chúng có đạo chống lại Đảng và Nhà nước ta” 1
Âm mun và hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam ở mỗi thời kỳ có khác nhau, có khi trắng trợn, cơng khai gây đối đầu
trực tiếp với chính quyền, có khi lại rất uyển chuyển tế nhị. Chính vì vậy,
vấn đề xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp để vừa đảm bảo
được nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng vừa phục vụ cho công tác đấu
tranh ngăn chặn mọi âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá
cách mạng là một yêu cầu tất yếu, khách quan của cách mạng nước ta.

1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo

Ở Việt Nam những năm gần đây, các tôn giáo đều có xu hướng
phục hồi phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh tế - xã
hội và an ninh - trật tự của đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu, dự báo và đề
ra chính sách đúng đắn đối với các tôn giáo luôn luôn được Đảng, Nhà
nước ta quan tâm.
Khi nghiên cứu, dự báo và đề xuất các giải pháp về quản lý nhà nước
đối với các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, những quan điểm của chủ nghĩa
Mác -Lênin vẫn là kim chỉ nam cho chúng ta về nhận thức và phương pháp
giải quyết.
Về vấn đề tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định:
' Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành TW khoá VI "về tăng
cường cồng tác tơn giáo trong tình hình mới"


-

Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Cơ sở nảy sinh và tồn tại

của tôn giáo là sự nghèo nàn, thiếu hiểu biết, sự bất lực không làm chủ
được thiên nhiên và xã hội. Mọi tôn giáo đều chỉ là sự phản ảnh một cách
hoang đường vào đầu óc con người những sức mạnh bên ngồi đang chế
ngự cuộc sống hàng ngày của họ. Trong tác phẩm “chống Duy-ring” Ăngghen đã viết: “Mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc
con người của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày
của họ, chỉ là sự phản ánh, trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình
thức lực lượng siêu trần thế” .1 Trong tác phẩm “Sự phê phán của triết học
về pháp quyền của Hê-ghen” Mác đã viết: “Con người sáng tạo ra tôn giáo
chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người ... con người chính là thế giới
những con người, là Nhà nước, là xã hội... Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh vị áp bức, là trái tim của thế giới, khơng có trái tim, cũng
giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội khơng có tinh thần”2

Tơn giáo có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với chính trị. Trong xã hội
có giai cấp, giai cấp thống trị ln tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo để phục
vụ cho lợi ích, ý đồ chính trị của mình.
Về vai trị của tôn giáo: giáo lý của các tôn giáo đều răn dạy con
người làm điều thiện, tu dưỡng đạo đức cá nhân, song nó cũng gieo rắc
cho con người tâm lý nhẫn nhục, khổ hạnh, phủ nhận việc cải tạo thế giới
bằng phương pháp khoa học.
-

Về phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo đã được Các Mác,

Ăng-ghen, Lênin chỉ rõ: ý thức tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội,
thuộc kiến trúc thượng tầng, do đó muốn thay đổi ý thức xã hội phải thay
đổi tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng của con người phải xố bỏ nguồn
gốc làm nảy sinh ảo tưởng đó; muốn đẩy lùi ước mơ thiên đường ở thế giới
bên kia phải kiến tạo được thiên đường ở thế giới hiện tại. Vì vậy đấu

1 Các Mác-Ạng ghen tuyển tập, Tập 5, NXB sự thật 1983, tr 135
2 Các Mác-Ãng ghen tuyển tập Tập 1, NXB sự thật năm 1980, tr 13-15


tranh chống tôn giáo không phải là trực tiếp “tấn cơng vào thần thánh” mà
là đấu tranh xố bỏ những điều kiện làm nảy sinh tơn giáo. Do đó “phê
phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo biến
thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê phán chính
trị” 1
Nói về tính chất phản động của giáo hội, nhà thờ trong chế độ cũ,
Lênin chỉ ra rằng: bất kỳ giai cấp áp bức nào cũng đều cần đến hai chức
năng xã hội để bảo vệ cho nền thống trị của chúng, “chức năng của tên
đao phủ” để đè bẹp sự phản kháng của những kẻ bị áp bức và “chức năng

thầy tu” để an ủi, xoa dịu làm cho quần chúng cam chịu, dung hồ với sự
áp bức đó, sao nhãng cuộc đấu tranh cách mạng.
Trong phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo, Mác - Ăngghen Lênin đã phê phán nghiêm khắc ý định của những nhà xã hội chủ nghĩa
cực đoan muốn xố bỏ tơn giáo bằng sắc lệnh, bằng sự cấm đoán. Lênin
đã từng phê phán hai khuynh hướng giải quyết vấn đề tôn giáo: khuynh
hướng dùng tuyên truyền thuần tuý đấu tranh với tôn giáo và khuynh
hướng tả khuynh vơ chính phủ muốn đưa cuộc đấu tranh chống tơn giáo
lên trên cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp. Đồng thời Người đã
chỉ rõ trong đấu tranh với tôn giáo, phải coi trọng giáo dục, tổ chức, rèn
luyện quần chúng trong cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ áp bức, bóc lột,
thủ tiêu tận gốc rễ xã hội của tôn giáo, tuyên truyền vô thần trong quần
chúng một cách sinh động, cụ thể; tơn trọng tín ngưỡng quần chúng,
không xúc phạm, không mưu toan ngăn cản, cấm đốn bằng biện pháp
mệnh lệnh, hành chính. Trong diễn văn tại Đại hội I Nữ cơng nhân tồn
Nga (19/01/1918) Lênin chỉ rõ: “cần phải cực kỳ thận trọng trong cuộc
đấu tranh này, ai làm tổn thương đến tình cảm tơn giáo thì người đó sẽ gây
một sự thiệt hại lớn. Cần phải lấy tuyên truyền, lấy giáo dục mà đấu tranh.
Nếu hành động một cách thô bạo, chúng ta sẽ làm cho quần chúng tức
1 Các Mác-Ảng ghen, tuyển tập, Tập 1, NXB Sự thật 1980, tr 13-15


giận, cách hành động như vậy sẽ càng gây thêm chia rẽ trong quần chúng,
mà sức mạnh của chúng ta là ở sự đoàn kết. Nguồn gốc sâu xa nhất của
các thành kiến tôn giáo là sự cùng khổ và dốt nát, chính cái tệ này là cái
chúng ta cần xố bỏ”1
Ngay từ khi giành được chính quyền (tháng 8/1945), Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn xác định việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân để
bảo vệ thành quả cách mạng, kiến thiết đất nước là một nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng, trong đó những chủ trương, chính sách với các tôn giáo ở Việt
Nam được đặc biệt quan tâm và thường xuyên được nghiên cứu bổ sung

hoàn thiện. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo từ
trước tới nay là nhất quán và được cụ thể hoá trong các Hiến pháp năm
1946, 1959, 1980 và 1992. Hiến pháp năm 1946, Điều 10 ghi nhận: “Mọi
cơng dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”. Hiến pháp năm 1959,
Điều 26 ghi nhận: “Cơng dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ có quyền
tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào”. Hiến pháp năm
1980, Điều 10: “Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng
theo một tơn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước”. Đến Hiến pháp năm 1992, quy định về
tôn giáo được ghi đầy đủ và cụ thể hơn: “Cơng dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào. Các tơn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng tơn
giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng để làm trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước”.
Tổng kết mười năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định những thành tựu to lớn của
Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,
dựa trên nền tảng liên minh cơng nơng. Trong đó việc đổi mới các chủ
' Lê Nin toàn tập, Tập 5, NXB Tiến bộ-Mat-xcơ-va, năm 1991


trương chính sách, pháp luật nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước
đối với các tơn giáo đã góp phần tích cực vào việc tăng cường sự đồn kết,
nhất trí giữa người có tín ngưỡng tơn giáo với người khơng có tín ngưỡng
tơn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người có đức tin tơn giáo khác
nhau. Những tư tưởng, quan điểm đổi mới đó được thể hiện tập trung ở
những vấn đề sau đây:
a. Tín ngưỡng tơn giáo còn là một nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân.

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và
trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đảng ta khẳng định: “Tín ngưỡng tơn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân lao động”.1 “Nhu cầu tinh
thần” ở đây phải được hiểu là một “nhu cầu tự thân” của một bộ phận
quần chúng có đức tin tơn giáo sâu sắc và có cả “nhu cầu tập nhiễm” của
một bộ phận quần chúng do những hồn cảnh, điều kiện nào đó đã tin theo
và gia nhập các tơn giáo trong q trình truyền giáo của họ. Song dù là
“nhu cầu tự thân” hay là “nhu cầu tập nhiễm” thì các hoạt động tơn giáo
của họ phải tuân thủ pháp luật, chịu sự quản lý của Nhà nước.
Việc xác định: “Tín ngưỡng tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân” điều đó cũng có nghĩa là Đảng ta đã xác nhận sự tồn
tại khách quan của tôn giáo trong đời sống xã hội.
b. "Đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng
xã hội m ới”2
Trong q trình ra đời, tồn tại và phát triển, tơn giáo nào cũng có
hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện ở chỗ dạy, răn người tín
đồ hướng thiện, làm điều lành, tránh điều ác. Cịn mặt tiêu cực thể hiện ở
chỗ dạy, răn con người sống an phận và chấp nhận, thậm chí hạn chế họ
tham gia vào quá trình cải tạo hiện thực xã hội bằng các phương pháp cách
1, 2 Trích Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành TW Đảng (khố
VI) về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới


mạng. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta đã khai thác, phát huy những mặt
tích cực vốn có của đaọ đức tôn giáo phục vụ cho công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước.
Thừa nhận “đạo đức tơn giáo cịn có nhiều điều phù hợp” với q
trình xây dựng xã hội mới, có nghĩa là thừa nhận vai trị tích cực nhất định
của tôn giáo với đời sống xã hội. Trước những tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trường, nhiều vấn đề đạo đức xã hội đang bị "xuống cấp"

nghiêm trọng thì những giá trị nhân bản, đạo đức và văn hố vốn có trong
văn hóa, đạo đức của các tơn giáo có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và góp phần xây
dựng lối sống lành mạnh, đạo đức tốt đẹp trong các thành phần dân cư ở
nước ta.
c."Tôn giáo là vấn đề tồn tại lâu dài”1
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, nó chỉ mất đi khi những tồn
tại làm cơ sở nảy sinh ra nó khơng cịn nữa. Do khơng nhận thức đúng đắn
quy luật này, cộng với những mặc cảm, định kiến về tơn giáo nên trước
đây, cấp uỷ chính quyền một địa phương đã có những chủ trương, biện
pháp đối xử thơ bạo với tơn giáo, đã tìm cách thu hẹp, thậm chí muốn
nhanh chóng xố bỏ hoạt động tơn giáo ở địa phương mình. Vì vậy đã gây
căng thẳng giữa chính quyền với giáo hội, làm mất lịng tin của quần
chúng tín đồ, chức sắc các tơn giáo với Đảng và Nhà nước.
Để chấn chỉnh, khắc phục những lệch lạc trên, Nghị quyết số 24NQATW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành TW Đảng
khố VII đã xác định “Tơn giáo là một vấn đề cịn tồn tại lâu dài”. Đây là
quan điểm khoa học phù hợp với luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tình hình thực tiễn các tôn giáo ở Việt Nam. Quan điểm này là cơ sở cho
việc xem xét, giải quyết các vấn đề tơn giáo ở nước ta hiện nay. Địi hỏi

1 Trích Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành TW Đảng (khoá VI)
về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới


chúng ta phải có thái độ bình tĩnh, khách quan, trong khi xem xét, giải
quyết các hoạt động tôn giáo; đảm bảo cho các tôn giáo ở Việt Nam phát
triển một cách bình thường, đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm này cũng đòi hỏi chúng ta phải khắc phục tư tưởng chủ quan,
nóng vội trong ứng xử với các tôn giáo.
d.


Công tác tôn giáo vừa phải quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu

tín ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi
dụng tôn giáo phá hoại cách mạng.
Trên cơ sở thừa nhận “Tín ngưỡng tơn giáo cịn là một nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân lao động có đạo” và “Đạo đức tơn giáo có
nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới”, Đảng ta yêu cầu
phải “quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng”.
“Quan tâm” ở đây phải được hiểu là quá trình chủ động chăm lo đến lợi
ích thiết thân của quần chúng có đạo; chứ khơng phải bị động đối phó,
càng khơng phải là sự chiếu cố, ban ơn cho quần chúng tín đồ.
Đồng thời với quá trình trên cần phải nâng cao cảnh giác “kịp thời
đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng”. Đảng và
Nhà nước đã nhiều lần khẳng định: "chúng ta không chống tôn giáo mà
chỉ chống ai lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng". Trong lịch sử, thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai đã từng lợi dụng tôn giáo để
chống lại sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc của nhân dân
ta. Dưới ngọn cờ “chống cộng”, các phần tử phản động đội lốt tơn giáo đã
tuyền truyền, kích động cho cái gọi là “hữu thần và vô thần như nước với
lửa” khơng thể cùng tồn tại. Song, chính sách chia rẽ lương, giáo để dễ cai
trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã bị thất bại thảm hại. Trong giai
đoạn cách mạng mới, các thế lực thù địch vẫn nuôi âm mưu phục thù,
chúng đã tiến hành nhiều thủ đoạn rất xảo quyệt nhằm lợi dụng tơn giáo
để thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” chống Việt Nam. Vì thế cần
phải khơng ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện, đấu


tranh, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống lại
dân tộc chống Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở nước ta.

Chủ động quan tâm giải quyết một cách hợp lý nhu cầu tín ngưỡng
của quần chúng chính là góp phần tích cực xây dựng lực lượng quần
chúng có đạo tham gia vào cơng cuộc đổi mới đất nước, vì lợi ích chung
của cả dân tộc, trong đó có lợi ích của đồng bào có đạo. Mặt khác, chủ
động phát hiện, kịp thời đấu tranh có hiệu quả làm thất bại mọi mưu đồ lợi
dụng tôn giáo để chống lại dân tộc và cách mạng cũng chính là q trình
giúp các giáo hội, các tổ chức tơn giáo và đồng bào có đạo tự bảo vệ
những giá trị nhân bản, văn hoá, đạo đức vốn có trong tơn giáo của mình.
Trong q trình kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt “vừa quan tâm giải
quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng”, “vừa kịp thời đấu tranh
chống địch lợi dụng tôn giáo”, trong công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động của các tôn giáo, phải lấy mặt chủ động “quan tâm giải quyết
hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng” là chủ đạo. Bởi vì, chỉ có trên
cơ sở ấy chúng ta mới có điều kiện tổ chức, giác ngộ, phát huy được lực
lượng quần chúng có đạo bảo vệ sự thuần t tơn giáo của mình, chống laị
mọi mun đồ lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù
địch.
đ. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng, công tác đối với con người. Từ thực tiễn trên 50 năm tiến hành
công tác tôn giáo phục vụ cho chiến lược giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc, Đảng ta đã tổng kết kinh nghiệm và khẳng định “nội dung cốt lõi
của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công tác đối với
con người”. Sự khẳng định này thể hiện tư duy mới, nhận thức mới của
Đảng ta khi đặt vấn đề tôn giáo thuộc phạm trù chung để xem xét và tác
động. Đồng bào theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều là cơng dân
Việt Nam, có quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng như nhau trước pháp luật.


Hơn nữa, so với người không theo tôn giáo, bộ phận quần chúng tín
đồ cịn chịu nhiều sự ràng buộc bởi thần quyền và giáo quyền; thậm chí

ln bị kẻ thù tìm cách mê hoặc, lơi kéo, lợi dụng.
Trong cơng tác vận động quần chúng phải quan tâm đến các lợi ích
thiết thân, chính đáng của quần chúng tín đồ nói chung, chức sắc, chức
việc nói riêng làm cốt lõi ; kết hợp với các quá trình vận động, giáo dục,
thuyết phục, tổ chức phát huy lực lượng quần chúng tín đồ tích cực tham
gia vào cơng cuộc đổi mới đất nước.
Chính sách tơn giáo phải là một bộ phận trong chính sách xã hội nói
chung của Nhà nước ta. Trong quá trình thực hiện các kế hoạch, chương
trình phát triển kinh tế, văn hố, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, lực
lượng quần chúng tín đồ (với hơn 20 triệu đồng bào có đạo) cần phải được
huy động như mọi nguồn lực con người trong cộng đồng các dân tộc của
đất nước.
Tóm lại: những quan điểm đổi mới trên của Đảng ta về vấn đề tôn
giáo là cơ sở lý luận và thực tiễn để chỉ đạo q trình hoạch định các chủ
trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo trong bối cảnh và điều kiện mới.

1.2.

VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TÔN GIÁO

1.2.1. Đặc điểm quản lý nhà nước đối vói hoạt động của các tơn
giáo
a. Chủ th ể quản lý.
Đảng ta đã xác định, công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội là
sự nghiệp của nhân dân. Nhà nước là người thay mặt cho dân, là công cụ
mạnh mẽ nhất của nhân dân lao động thực hiện quyền lực chính trị. Nhà
nước thơng qua hệ thống pháp luậtr-do m ình-ban Jjan h và các công cụ


V ĩHĨĩyfĩ^ĩ~l

— c~£i_. ioMJSV


cưỡng chế khác để thực hiện chức năng quản lý. Vì vậy, về mặt pháp lý,
chủ thể quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với hoạt động
của các tơn giáo nói riêng là Nhà nước. Nhà nước là chủ thể quản lý có
đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất: Nhà nước quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật.
Thứ hai: Nhà nước là một bộ máy chính trị, hành chính, một cơ
quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội.
Thứ ba: Quản lý nhà nước là hoạt động có tác động trực tiếp, liên
tục tới tất cả các đối tượng, cộng đồng trong xã hội, các giai tầng khác
nhau về chính trị, giai cấp, về tôn giáo, dân tộc.
b. Khách th ể quản lý.
Khách thể quản lý nhà nước với các hoạt động tơn giáo chính là đối
tượng điều chỉnh của Nhà nước trong các hoạt động tôn giáo; bao gồm tập
thể những người, những công dân với hành vi hoạt động của họ. Song, sinh
hoạt tôn giáo là một hoạt động đặc thù. Tính đặc thù đó biểu hiện ở chỗ:
họ vừa là cơng dân vừa là tín đồ tơn giáo. Là cơng dân, mọi tín đồ đều có
nghĩa vụ và quyền lợi bình đẳng trước pháp luật; mọi hành vi của họ đều
chịu sự chi phối, điều chỉnh của pháp luật và đạo đức xã hội. Nhưng, khác
với những công dân khác ở chỗ họ là tín đồ của một tơn giáo, có đức tin
tơn giáo và thuộc về một tổ chức giáo hội, nên hành vi của họ còn chịu sự
chi phối rất khắt khe của giáo luật và đạo đức tôn giáo. Pháp luật Nhà
nước và đạo đức xã hội cùng với giáo luật và đạo đức tôn giáo luôn tác
động, chi phối đến nhận thức và hành vi hoạt động của mọi công dân theo
tôn giáo. Điều này cịn hệ trọng hơn đối với những tín đồ đã được các giáo
hội đào tạo, tấn phong, bổ nhiệm giữ các chức vị thánh hoặc các chức vị

thẩm quyền (hay cịn gọi là chức vị cai trị) trong tơn giáo. Vì vậy, trong
cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tơn giáo, địi hỏi phải
nắm vững các đặc thù nêu trên để có phương pháp tác động điều chỉnh


thích hợp, có hiệu quả đối với cộng đồng tín đồ cũng như đối với từng
chức sắc.
c.

Một số nguyên tắc đặc thù trong quản lý nhà nước đối với hoạt

động của các tôn giáo.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo, cũng như
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác, trước tiên phải tuân theo các
nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước (như: nguyên tắc Đảng lãnh đạo,
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế XHCN...). Tuy nhiên,
trong từng lĩnh vực quản lý có những hoạt động đặc thù, do đó cần thiết
phải tn thủ một số ngun tắc có tính riêng biệt liên quan tới khách thể
quản lý. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước đối với các hoạt động tơn giáo,
có một số ngun tắc đặc thù sau đây:
-

Ngun tắcđảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và quyền tự

do khơng tín ngưỡng tơn giáo của mọi người cơng dân.
Tín ngưỡng là sự tự tin của con người về một đấng tối cao, tinh thần
có sức mạnh siêu thực và có khả năng giải thốt. Tín ngưỡng là một nhu
cầu của con người, đã xuất hiện từ rất sớm. Trải qua nhiều giai đoạn lịch
sử cho đến ngày nay, khi nền khoa học công nghệ đã phát triển như vũ
bão, nhưng tín ngưỡng vẫn là một nhu cầu khơng thể thiếu được của một

bộ phận nhân dân. Nó gắn liền với đời sống sản xuất và văn hoá của lồi
người.
Tuy nhiên, tín ngưỡng lịng tin nơi con người khơng giống nhau
(người thờ Chúa Jê-su, người thờ Phật Thích-ca...). Vì vậy, sự tự nguyện
trong tinh thần, hướng tới một đấng tối cao của mỗi người, khơng ai có thể
bị tước bỏ hoặc áp đặt. Tự do tín ngưỡng khơng chấp nhận sự thơn tính, sự
độc tơn của tơn giáo này đối với tôn giáo khác; cũng không thể thông qua
chính trị áp đặt hoặc gạt bỏ nó.
Xuất phát từ đặc điểm trên, nên trong công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo, Nhà nước ta luôn ln coi trọng quyền tự do tín


ngưỡng của nhân dân. Điều 70 của Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận
“Cơng dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc
khơng theo một tơn giáo nào”. Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý đối với
nhu cầu theo hay không theo một tôn giáo, tín ngưỡng nào của mỗi cơng
dân. Bất cứ một hành vi ép buộc, ngăn cản công dân theo, hoặc không
theo một tơn giáo, tín ngưỡng nào, đều là vi phạm pháp luật, vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng, khơng tín ngưỡng của cơng dân. Ngun tắc này
có ý nghĩa rất quan trọng và là cơ sở cho việc vận dụng giải quyết tình
hình phát triển đạo trong các vùng dân tộc thiểu số hiện nay.
- Nguyên tắc vê sự thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn
giá trị văn ho á.
Một trong những giá trị của tôn giáo để lại cho nhân loại là những
cơng trình kiến trúc (như nhà thờ, chùa...). Các cơng trình này đã mang
dấu ân sâu sắc về văn hoá, nghệ thuật của mỗi thời đại, nó khơng chỉ ỉà cơ
sở vật chất của giáo hội mà cịn là di sản văn hố, là danh lam thắng cảnh
của nhân loại mà mỗi quốc gia phải giữ gìn, bảo vệ. Chính vì vậy, Nhà
nước ta rất coi trọng và đã ban hành Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích
lịch sử, văn hố và danh lam thắng cảnh (trong đó có những cơng trình

kiến trúc của các tôn giáo). Nội dung bảo vệ và sử dụng những di tích lịch
sử, văn hố và danh lam thắng cảnh được qui định cụ thể trong Nghị định
số 288-HBVT ngày 31/12/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ), như sau:
- Di tích lịch sử văn hố và danh lam thắng cảnh là tài sản vô giá
trong kho tàng di sản lâu đời của dân tộc Việt Nam. Các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang, nhân dân và mọi cơng dân có trách
nhiệm bảo vệ.
- Nghiêm cấm việc làm hư hại, tiêu huỷ, chiếm giữ trái phép di tích
lịch sử, văn hố hoặc danh lam, thắng cảnh.


- Tất cả những di tích lịch sử, văn hố và danh lam thắng cảnh
không kể thuộc quyền sơ hữu của ai đều phải được đăng ký, kiểm kê, công
nhận để đặt dưới quyền quản lý thống nhất của Nhà nước.
- Mỗi di tích lịch sử văn hố là bất động sản hoặc thắng cảnh có từ
một đến ba khu vực bảo vệ: khu vực I phải được bảo tồn nguyên trạng,
mọi yếu tố còn lại; nghiêm cấm bất cứ sự thay đổi, bổ sung nào dù là nhỏ
nhất. Trường hợp trùng tu di tích phải theo đúng kiểu mẫu. Khu vực II là
khu vực bao quanh khu vực I có thể được xây dựng bia, tượng đài... nhằm
mục đích tơn tạo khu vực di tích, thắng cảnh. Khu vực III là khung cảnh
thiên nhiên, thắng cảnh của di tích; có thể xây dựng thêm những cơng
trình dịch vụ như nhà tiếp khách, nhà văn hoá, vườn hoa...
- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW và đơn vị hành chính tương
đương tổ chức và chỉ đạo việc bảo vệ, sử dụng và quản lý các di tích lịch
sử, văn hố, danh lam thắng cảnh thuộc địa phương mình.
Bộ Văn hố trực tiếp quản lý, ban hành Quy chế bảo vệ và sử dụng
các di tích lịch sử, văn hố, danh lam thắng cảnh do Bộ Văn hoá trực tiếp
quản lý.
d.


Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động của

các tơn giáo ở Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử phát triển của Nhà nước ta từ khi ra đời (1945) đến
nay, chúng ta thấy ở bất kỳ giai đoạn nào, công tác quản lý nhà nước với
các hoạt động tôn giáo cũng luôn là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt
động của Nhà nước, phục vụ đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại.
Hoạt động này được giao cho hệ thống các cơ quan Nhà nước, các tổ chức
xã hội, đoàn thể quần chúng (được Nhà nước trao quyền) thực hiện.
Tuân thủ, chấp hành và điều hành theo các quy phạm pháp luật
(hiến định và chế định) trong các văn bản pháp luật mà Nhà nước ta đã
ban hành; Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tơn giáo
nhằm mục đích: đảm bảo cho q trình thực hiện các chủ trương, chính


×