Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường và thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.71 KB, 44 trang )

mở đầu
1/ Lý do chọn đề tài.
Đề tài đợc xác định là xuất phát từ những lý do sau:
- Về mặt lý luận: Quản lý nhà nớc có đặc trng phổ biến là quản lý bằng pháp
luật. Bởi vì, Nhà nớc phải hoá thân vào pháp luật. Nhà nớc pháp quyền càng phải
nh vậy. Nhà nớc tồn tại qua pháp luật. ý chí của nhà nớc muốn trở thành ý chí chung,
đợc xã hội thừa nhận, phục tùng phải đợc chuyển hoá thành pháp luật. Ngời dân thấy
nhà nớc, quan hệ với nhà nớc ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi công việc đều phải bằng
các hành vi xử sự mà pháp luật dẫn dắt. Và nh thế, quản lý nhà nớc, quản lý nhà nớc
bằng pháp luật cũng là một. Lẽ đơng nhiên nhà nớc còn sử dụng nhiều phơng tiện,
công cụ quản lý khác. Song các công cụ, phơng tiện quản lý đó cũng phải đợc tuyên
bố sử dụng công khai, phải thông qua pháp luật. Thế nhng, về mặt lý luận, vấn đề
quản lý nhà nớc bằng pháp luật, sử dụng kết hợp giữa pháp luật với công cụ, phơng
tiện khác trong quản lý nói chung, quản lý kinh tế, thị trờng nói riêng ở Việt Nam vẫn
cha đợc nghiên cứu toàn diện. Sự lúng túng trong hoạch định chính sách của các cơ
quan có thẩm quyền quản lý, sự thay đổi liên tục của hệ thống pháp luật hiện hành
thời gian qua cho thấy rõ nhận định này.
- Về mặt thực tiễn: Quản lý nhà nớc bằng pháp luật về kinh tế bao gồm nhiều
lĩnh vực khác nhau, trong đó có quản lý thị trờng, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm
soát thị trờng của các cơ quan quản lý thị trờng. Đó là chức năng quản lý khó khăn
nhất, bởi nó hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt với những tiêu cực của thị trờng; hàng
ngày hàng giờ phải xử lý các mối quan hệ chứa đựng đầy mâu thuẫn giữa ý chí chung
nhằm thiết lập trật tự quản lý thị trờng với ý chí, khát vọng lợi nhuận, bất chấp mọi kỷ
cơng, pháp luật của không ít nhà doanh nghiệp, doanh nhân. Thực tiễn trên phạm vi
toàn quốc cũng nh từng địa phơng, ở cấp trung ơng, từng Bộ, Ngành, từng đối tợng,
quan hệ quản lý đều cho thấy tờng tận điều đó. Chặn đứng những tiêu cực trong hoạt
động thị trờng, chặn đứng tình trạng buôn lậu, gian lận thơng mại, chốn lậu thuế, hàng
1
giả, hàng kém chất lợng, đa các quan hệ thị trờng, kinh doanh vào một trật tự quản lý
là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng, thờng xuyên của nhà nớc, trớc hết là của các cơ
quan quản lý thị trờng.


Từ thực trạng trên, vấn đề nghiên cứu Quản lý nhà n ớc bằng pháp luật đối
với thị trờng và thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng là hết sức cần
thiết, cấp bách hiện nay.
2/ Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
- Về mục đích: Luận văn trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn để đề xuất và
luận chứng giải pháp cơ bản tăng cờng quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với việc
thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng.
- Về nhiệm vụ, phù hợp với mục đích đặt ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ
sau:
Một: Phân tích những cơ sở lý luận của quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với
thị trờng.
Hai: Phân tích chức năng kiểm tra, kiểm soát trong quản lý nhà nớc bằng pháp
luật đối với thị trờng.
Ba: Phân tích cơ sở pháp luật của quản lý nhà nớc đối với thị trờng và kiểm tra,
kiểm soát thị trờng.
Bốn: Phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về quản lý thị trờng và
thực trạng kiểm tra, kiểm soát thị trờng; những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
Năm: Đề xuất và luận chứng các giải pháp góp phần tăng cờng thực hiện chức
năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng của cơ quan quản lý thị trờng ở nớc ta hiện nay.
3/ Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nớc và pháp
luật, về quản lý nhà nớc; đờng lối, chủ trơng của Đảng về xây dựng, phát triển nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra luận văn sử dụng các phơng pháp của
triết học Mác - Lênin, trong đó chú trọng phơng pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, ph-
ơng pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một
2
số phơng pháp khác của lý thuyết hệ thống, phơng pháp thống kê, nhất là phơng pháp
xã hội học.
4/ ý nghĩa của luận văn.

Thực hiện luận văn, với kết quả đạt đợc sẽ có ý nghĩa sau;
Một là: Qua thực hiện luận văn tác giả có cơ hội vận dụng lý luận thu nhận đợc
trong thời gian học tập tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào nghiên cứu
một vấn đề thực tiễn cấp bách, từ đó báo cáo kết quả học tập với Học viện và cơ quan
công tác, rèn luyện và nâng cao đợc năng lực và phơng pháp công tác của bản thân.
Hai là: Luận văn đóng góp những giải pháp nhằm tăng cờng quản lý nhà nớc
bằng pháp luật đối với việc thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng, loại trừ,
ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật thị trờng, góp phần thực
hiện các mục tiêu kinh tế xã hội trong chiến lợc phát triển do Đảng đề ra tại Đại
hội IX
5/ Kết cấu của luận văn.
Luận văn ngoài mục lục, mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo; phần nội dung gồm 2 chơng, 5 tiết.
*
* *
Luận văn là kết quả của sự cố gắng của bản thân, sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô giáo Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trực tiếp là các thầy cô giáo
Khoa Nhà nớc và Pháp luật và sự giúp đỡ, chia sẻ của các đồng sự. Cho phép tôi đợc
bầy tỏ sự trân trọng và cảm ơn về tất cả những điều tốt đẹp đó.

3
Chơng 1 : Cơ sở lý luận về quản lý và quản lý nhà
nớc bằng pháp luật đối với thị trờng và thực
hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng.
1.1.Quản lý và quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với thị trờng.
1.1.1. Quản lý và quản lý nhà nớc bằng pháp luật.
Thứ nhất: Các quan niệm về quản lý.
Quản lý là một thuật ngữ đợc sử dụng phổ biến để chỉ một hoạt động đặc thù
xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài ngời. Con ngời trong tiến trình lịch sử tiến
hoá của mình vừa tiến hành các hoạt động thực tiễn quản lý, vừa nghiên cứu quản lý,

cốt để quản lý tốt hơn. Trong tiến trình đó đã xuất hiện nhiều t tởng, học thuyết quản
lý, gắn với các tên tuổi lỗi lạc mà nhân loại luôn ngỡng mộ:
- Khổng Tử (551-479.TCN) nhà triết gia lỗi lạc của Trung Quốc thời cổ đại
cho rằng nghĩa vụ quản lý là thuộc về các bậc quân tử, những ngời đạt đợc đạo nhân,
thấm nhuần các giá trị: nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng, có khả năng tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ. Học thuyết quản lý của Khổng Tử chính vì thế lấy nhân, đức làm gốc, sử
dụng và đề cao các chuẩn mực đạo đức trong dùng ngời và cai trị. Ông nhấn mạnh:
Nhà quản lý ngời cai trị mà nơng tựa vào điều lợi mà làm là hay nảy sinh ra điều
oán. Nhà quản lý phải nghiêm khắc với mình, rộng lợng với ngời, không ỷ vào chức
quyền mà tranh lợi cấp dới, có nh thế xã hội mới có cái lợi lâu dài. Ông cũng thờng
nói: Dùng hình luật để cai trị thì chỉ làm cho ngời ta sợ, khi có điều kiện lẩn tránh thì
ngời ta vẫn làm. Dùng đức mà trị thì lâu bền, bởi nó đi vào lòng ngời, cảm hoá con ng-
ời. T tởng đó của Khổng Tử cho đến ngày nay vẫn là một giá trị lớn trong quản lý.
Đối lập với Khổng Tử là t tởng pháp trị của Hàn Phi Tử.
Hàn Phi cho rằng vua không cần hiền mà cần thế ( quyền lực), bởi " hiền
tài nh vua Nghiêu khi cha làm vua nói không ai nghe, bạo tàn nh vua Kiệt nhng vì là
vua nên mọi ngời không dám trái lệnh". Từ sự nhận định tinh tế đó, Hàn Phi Tử đi đến
quan điểm pháp trị trong quản lý, với việc sử dụng quyền lực công khai, nhng làm cho
nó có sức mạnh khổ biến, dới hình thức các đạo luật chung cho cả kẻ cai trị và ngời bị
4
trị. Luận về điều này Hàn Phi Tử cho rằng đức trị của Nho giáo đẹp, nhng kém thực tế;
cai trị bằng pháp luật, trọng thởng phạt nghiêm minh, đúng phép nớc; vua, chúa phải
vô t, công minh khi sử dụng pháp luật; phải coi pháp luật là những thứ dùng làm tiêu
chuẩn để phân biệt đúng- sai, phải- trái, nh cái mực, cái quy, cái củ để điều hành thì
xã hội thái bình. Hàn Phi đa ra các nguyên tắc của pháp luật với tính cách là công cụ
cai trị, quản lý: 1, pháp luật có tính kịp thời; thời thay mà pháp luật không đổi thì nớc
loạn; đời đã thay đổi mà cấm lệnh không biến thì nớc bị chia cắt. Cho nên thánh nhân
trị dân thì pháp luật theo thời đó mà đổi, cấm lệnh cũng với đời mà biến; 2, pháp luật
phải soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành, pháp luật không gì bằng thống nhất, cố
định để cho dân dễ hiểu; "cái gì mà kẻ sĩ có óc tinh tế mới biết đợc thì không nên ban

làm lệnh, vì dân không phải ngời nào cũng có óc tinh tế cả. Cái gì mà bậc hiền mới
làm đợc thì không nên dùng phép tắc là vì không phải ngời dân nào cũng hiểu cả"; 3,
"pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ yếu, thiểu số, vì thế, "trị nớc thì minh định
pháp luật, đặt ra hình phạt nghiêm khắc để cứu loạn cho dân chúng, trừ cho thiên hạ
khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đáp số ít, ngời già đợc h-
ởng hết tuổi trời, bọn trẻ mồ côi đợc nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi
thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị giặc cầm tù, đó cũng là cái
công cực lớn vậy; 4, pháp luật phải có tính phổ biến, đợc công khai, truyền bá tới tất
cả mọi ngời để không một ngời dân nào có thể viện cớ không biết nên nỡ phạm luật.
Ông yêu cầu các quan cai trị phải lấy luật pháp mà dạy cho dân, pháp luật phải nh
một phép công điều khiển hành vi của mọi ngời.
- ở phơng Tây, các quan niệm về quản lý ngay từ thời cổ đại cũng đã hết sức
phát triển, gắn liền với các tên tuổi lớn, những triết gia vĩ đại mà t tởng của họ đã đặt
mốc cho sự ra đời của nhiều học thuyết quản lý nổi tiếng sau này. Đó là Arixtốt,
Platon, Xixêron
- Trong xã hội t sản quản lý đợc nghiên cứu dới nhiều góc độ khác nhau, học
thuyết quản lý luôn kề cận với khoa học chính trị, khoa học kinh tế, hành chính và
điều khiển học, vì lẽ đó nó mang tính toàn diện và thực dụng. F. Taylo (1856-1915)
cho rằng quản lý là biết đợc chính xác điều bạn muốn ngời khác làm, và sau đó hiểu
5
đợc rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất. Theo ông, mục
tiêu cơ bản nhất của quản lý doanh nghiệp là giải quyết mối mâu thuẫn gay gắt giữa
chủ và thợ để cùng đi tới mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả và năng suất lao động.
Nh vậy, mục tiêu kinh tế là cái cốt của quản lý của Taylo; quản lý của Taylo là quản
lý con ngời kinh tế, với các nguyên tắc: bố trí lao động một cách khoa học để thay thế
các thao tác lạc hậu, kém hiệu suất; lựa chọn công nhân một cách khoa học; đào tạo,
huấn luyện và bồi dỡng họ; gắn công nhân với công nghệ sản xuất; phân công đều
công việc giữa ngời quản lý và công nhân. Cái gắn bó giữ họ là lợi nhuận. Quản lý nh
thế đã tuyệt đối hoá lợi ích vật chất, coi nhẹ động lực tinh thần của con ngời.
Đối ngợc với học thuyết quản lý của Taylo, nhiều nhà khoa học quản lý t sản đề

xuất học thuyết quản lý con ngời xã hội làm trọng tâm, với sự coi trọng cả lợi ích kinh
tế, cả lợi ích tinh thần của họ. Nhìn chung, các quan niệm và học thuyết quản lý t sản
đã khẳng định tính khách quan của quản lý cả trên bình diện xã hội, cả với một tổ
chức, và nhất là đối với doanh nghiệp. Quản lý do đó đợc đồng nhất với các hoạt động
điều khiển, chỉ huy một tổ chức của con ngời, với từng con ngời bằng các mệnh lệnh
mang tính quyền lực phổ biến, trên cơ sở các nguyên tắc phổ biến, đợc thực hiện từ
các trung tâm quản lý.
Sự chật hẹp trong các học thuyết quản lý t sản chính là ở chỗ nó chỉ nhằm phục
vụ cho lợi ích của giai cấp t sản. Và do đó, khi đem áp dụng vào xã hội nó đã tỏ ra bế
tắc trên nhiều phơng diện, nhất là trong việc thực hiện các quyết định quản lý.
- Quan niệm quản lý của chủ nghĩa Mác - Lênin .
Học thuyết Mác - Lênin quan niệm quản lý là tất yếu, bắt nguồn từ sự phân
công, hợp tác lao động. Sự phân công, hợp tác lao động nhằm mục đích mang lại hiệu
quả nhiều hơn, năng suất lao động cao hơn trong công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy
phối hợp, điều hành, kiểm tra, điều chỉnh, phải có ngời đứng đầu. Các Mác chỉ rõ:
Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô t-
ơng đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá
nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể
6
sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một nghệ sỹ vĩ cầm
tự điều khiển mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trởng [1, tr 480].
Phát triển t tởng của Mác, Ănghen, VI. Lênin, các nhà khoa học quản lý và
pháp lý xã hội chủ nghĩa đã xây dựng lên những luận cứ khoa học của quản lý, qua đó
làm rõ bản chất, mục tiêu, các nguyên tắc, vai trò của nhà nớc và hệ thống chính trị,
của quần chúng nhân dân trong quản lý dới chủ nghĩa xã hội. Phù hợp với những cơ sở
đó, khoa học quản lý xã hội chủ nghĩa đã đi sâu nghiên cứu một loạt các vấn đề quan
trọng về lý luận quản lý, đặc biệt là các vấn đề:
- Chủ thể quản lý, là ngời chỉ đạo, quản lý điều khiển, chỉ huy quá trình, hoạt
động quản lý .
- Đối tợng quản lý là ngời (hoặc vật), tổ chức chịu sự quản lý của chủ thể quản

lý.
- Nội dung, hình thức quản lý.
- Khách thể quản lý là mục tiêu, mục đích mà chủ thể quản lý hớng đến.
- Công cụ quản lý là phơng tiện gắn với các biện pháp, cách thức mà chủ thể
quản lý sử dụng để tác động lên đối tợng quản lý.
- Môi trờng quản lý là các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi để quá trình quản lý đạt
đợc mục tiêu, mục đích có hiệu quả cao nhất.
Trong chủ nghĩa xã hội, quản lý luôn là một quá trình mang bản chất xã hội,
gắn với tổ chức xã hội, gắn với một lĩnh vực hoạt động cụ thể, cũng luôn gắn với đào
tạo, giáo dục, huấn luyện con ngời, với quá trình lao động tạo ra của cải, vật chất, vì
con ngời và lợi ích của con ngời.
Thứ hai: Quản lý nhà nớc bằng pháp luật theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-
Lênin và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quản lý nhà nớc bằng pháp luật là quản lý mà chủ thể là nhà nớc, cụ thể là các
cơ quan quản lý từng lĩnh vực nhất định, trong đó pháp luật là cơ sở, công cụ quản lý,
thể hiện các quyết định quản lý và bảo đảm thực hiện các quyết định đó.
T tởng về nhà nớc quản lý bằng pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin gắn liền
với các quan điểm duy vật biện chứng về nhà nớc và pháp luật. Theo Các Mác và Ph.
7
Ănghen, nhà nớc là sản phẩm của của xã hội; Nhà nớc thiết lập một quyền lực công
cộng , là một bộ máy cai trị, quản lý. Bộ máy này dờng nh tách ra ngoài xã hội, đứng
trên xã hội, bao gồm một hệ thống các cơ quan quản lý các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Nhà nớc sử dụng quyền lực công cộng để ra các quyết định quản lý, thực hiện các
chức năng đối nội, đối ngoại bằng cách ban hành pháp luật và bắt buộc mọi tổ chức,
mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Do bản chất kiểu mới của nhà nớc xã hội chủ nghĩa mà quản lý nhà nớc bằng
pháp luật có bản chất hoàn toàn khác với nhà nớc bóc lột. Trong tác phẩm nổi tiếng
Những nhiệm vụ trớc mắt của chính quyền Xô -Viết, VI. Lênin đã nhấn mạnh:
Ngày nay, nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm, Chúng ta
giành đợc nớc Nga từ tay bọn nhà giàu để giao lại cho những ngời nghèo, từ tay bọn

bóc lột để giao lại cho những ngời lao động. Bây giờ chúng ta phải quản lý nớc Nga,
và chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý đợc tốt, thì ngoài cái tài biết thuyết
phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực
thực tiễn [1, tr 209-210]. Ngời đặc biệt nhấn mạnh công việc kiểm kê, kiểm soát
trong quản lý nhà nớc. Ngời cho rằng: Điều quyết định là: tổ chức cho toàn dân kiểm
kê và kiểm soát một cách hết sức chặt chẽ sự sản xuất và phân phối sản phẩm , rằng:
Nếu nhà nớc không tiến hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc sản xuất
và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những ngời lao động, nền tự do của
họ sẽ không thể nào duy trì đợc và nhất định họ sẽ phải phải sống trở lại dới ách của
chủ nghĩa t bản [2, tr 224]. Nhấn mạnh vai trò của nhân dân lao động trong quản lý
nhà nớc VI. Lênin viết: Chủ nghĩa xã hội không thể do một số ít ngời tiến hành mà
phải do hàng chục triệu ngời tham gia.
Kế thừa những t tởng mác xít về quản lý nhà nớc trong nhà nớc xã hội chủ
nghĩa, trong thời kỳ đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định; Chúng ta đã
xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nớc quản lý thành cơ
chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội

[3, tr 109], trong đó, công tác quản lý không
phải việc riêng của những ngời quản lý chuyên nghiệp, mà là sự nghiệp của nhân dân.
Trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nớc, dù quản lý hành chính hay quản lý
8
sản xuất, kinh doanh, quản lý trật tự, trị an, đều cần có sự tham gia của quần chúng,
rằng phải đảm bảo phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là nền nếp
hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động quản lý nhà nớc mình
[1, tr112]. Mục đích, cũng là khách thể sâu xa nhất của quản lý nhà nớc là sự đổi mới
sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống đất nớc; là tạo cho chủ nghĩa xã hội một hình
thức tổ chức mới, hiện đại nhất; là sự phát huy cao nhất tính nhân đạo xã hội chủ
nghĩa ở mọi lĩnh vực đời sống xã hội : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội [2, tr 89].
Trong bối cảnh cả nớc đang bằng mọi nỗ lực để thực hiện Nghị quyết Đại hội
IX, xây dựng nhà nớc pháp quyền, thực hiện quản lý nhà nớc bằng pháp luật đòi hỏi

phải thay đổi về cơ bản mối quan hệ giữa nhà nớc và pháp luật. Quản lý nhà nớc bằng
pháp luật trong nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân đòi hỏi trớc hết Nhà nớc
phải tôn trọng pháp luật, bị ràng buộc bởi pháp luật, mọi hoạt động quản lý của nhà n-
ớc phải trong khuôn khổ pháp luật, chỉ đợc làm những gì mà pháp luật cho phép. Quá
trình quản lý nhà nớc do vậy là quá trình tạo dựng cơ sở pháp luật, đa pháp luật vào
cuộc sống bằng chính sự tuân thủ của Nhà nớc, bằng việc bảo đảm sự thi hành pháp
luật nghiêm minh của mọi đối tợng quản lý.
Thứ ba: Đặc trng cơ bản của nhà nớc bằng pháp luật.
Từ những cơ sở lý luận trên cho phép rút ra một số đặc trng cơ bản sau của quản
lý nhà nớc bằng pháp luật:
- Quản lý nhà nớc đợc bắt đầu bằng việc định ra các thể chế pháp lý thể hiện ý
chí chung của xã hội nhằm tạo cơ sở chuẩn mực cho các hoạt động quản lý nhà nớc cụ
thể, để đánh giá chất lợng, hiệu quả quản lý, cho việc xử lý vi phạm trật tự quản lý.
Đó cũng là sự tạo dựng ra công cụ, phơng tiện pháp luật trong quản lý, tạo ra yếu tố
quyết định của cơ chế quản lý nhà nớc.
- Yếu tố quan trọng của quản lý nhà nớc bằng pháp luật là quyền lực quản lý.
Đó là quyền lực có giới hạn, trong khuôn khổ pháp luật. Trong nhà nớc xã hội chủ
nghĩa, quyền lực nhà nớc đợc sử dụng để thực hiện các các quyết định quản lý, là
quyền lực của nhân dân, do nhân dân uỷ nhiệm cho cơ quan nhà nớc theo thủ tục do
pháp luật quy định. Việc thực hiện quyền lực đó phải bảo đảm tính thống nhất, trên cơ
9
sở có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nớc, không đối trọng,
triệt tiêu hiệu quả quản lý của nhau.
- Khách thể của quản lý nhà nớc là trật tự quản lý nhà nớc từng lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Đạt đợc các khách thể này cũng đồng nghĩa với đạt đợc mục
tiêu của quản lý, thiết lập và duy trì đợc trật tự, ổn định xã hội, đa xã hội phát triển
theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
- Quản lý nhà nớc bằng pháp luật là quản lý đợc thực hiện trên cả ba lĩnh vực
lập pháp, hành pháp và t pháp. Mỗi lĩnh vực quản lý đó có tính độc lập nhng quan hệ
chặt chẽ với nhau trong một chu trình quản lý thống nhất.

Trong chu trình quản lý đó, quản lý hành chính bằng pháp luật thể hiện tập
trung bản chất, đặc điểm của quản lý trong nhà nớc xã hội chủ nghĩa, quyết định việc
thực hiện mục tiêu của quản lý. Quản lý đó có các đặc điểm sau:
+ Chủ thể quản lý là toàn bộ các cơ quan, tổ chức trong bộ máy hành chính nhà
nớc. Đó là những cơ quan chấp hành của cơ quan dân cử, có chức năng thống nhất
quản lý các nhiệm vụ kinh tế xã hội, hoạt động liên tục, mang tính pháp lý và
nghiệp vụ hành chính cao.
+ Quyền lực hành chính trong quản lý bằng pháp luật là quyền lực đơn phơng,
trực tiếp, trong nhiều trờng hợp buộc đối tợng quản lý chấp hành vô điều kiện. Vì lẽ
đó, quản lý nhà nớc bằng pháp luật phải bị đặt trong khuôn khổ của pháp luật một
cách chặt chẽ nhất, và phải thờng xuyên thanh tra, kiểm tra sự chấp hành của các cơ
quan quản lý hành chính.
+ Quản lý hành chính phục vụ cho các chức năng của nền hành chính, tuân thủ
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nền hành chính, bao gồm các nguyên tắc:
Đảng lãnh đạo; nguyên tắc nhân dân lao động tham gia ngày càng đông đảo vào quản
lý; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa
phơng, vùng lãnh thổ; nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức
năng.
10
+ Quản lý hành chính nhà nớc bằng pháp luật đợc thực hiện theo những hình
thức và phơng pháp quản lý đặc thù riêng.
Về hình thức, gồm: 1, hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật để chấp
hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan lập pháp và cơ quan hành
chính cấp trên, đồng thời để đặt ra chuẩn mực trực tiếp cho quản lý; 2, hình thức ban
hành văn bản áp dụng pháp luật, là hình thức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan hành chính nhà nớc để ra các quyết định quản lý cá biệt giải quyết các tr-
ờng hợp ,vụ việc cụ thể phát sinh trong quản lý. Có thể nói đây là hình thức phổ biến
và quan trọng nhất; ngoài ra, có hình thức áp dụng các biện pháp tổ chức trực tiếp
không mang tính chất quyền lực, pháp lý, nh hớng dẫn, cung cấp thông tin, t liệu, và

các hình thức quản lý liên quan đến thực hiện thủ tục hành chính, trong các việc cấp
văn bằng, chứng chỉ, giải quyết yêu cầu, lập biên bản xử lý
Phù hợp với mục tiêu, chức năng, nội dung và hình thức trên, quản lý hành
chính bằng pháp luật đợc tiến hành theo các phơng pháp khác nhau, bao gồm: 1, ph-
ơng pháp thuyết phục hành chính; 2, phơng pháp cỡng chế hành chính; 3, các phơng
pháp hành chính, phơng pháp kinh tế và một số phơng pháp khác.
1.1.2. Quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với thị trờng. Quản lý nhà nớc
bằng pháp luật đối với thị trờng là quản lý của nhà nớc, với sự tham gia của cả ba
hệ thống cơ quan lập pháp, hành chính, t pháp, bằng việc sử dụng công cụ pháp
luật để thiết lập trật tự của thị trờng.
Từ quan niệm trên, quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với thị trờng là quản lý
nhà nớc đợc triển khai trên cả ba phơng diện lập pháp, hành pháp và t pháp, lấy đối t-
ợng tác động quản lý là thị trờng. Theo Các Mác thị trờng nghĩa là lĩnh vực trao đổi,
là tổng thể nói chung những hoạt động mua bán, nơi thờng xuyên diễn ra các hoạt
động lu thông hàng hoá, là tổng hoà những mối quan hệ mua bán trong xã hội, phản
ánh tổng hợp quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế quốc dân.
Từ những quan niệm trên cho thấy trong nội hàm khái niệm thị trờng luôn bao
hàm các yếu tố;
- Nội dung quan hệ thị trờng là quan hệ mua, bán, lu thông hàng hoá
11
- Đối tợng của quan hệ đó là hàng hoá;
- Chủ thể tham gia thị trờng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, bình đẳng
với nhau trớc pháp luật, cũng là đối tợng của quản lý nhà nớc đối với thị trờng.
- Thị trờng luôn diễn ra, gắn với một địa bàn, địa danh nhất định, nh thị trờng
Hà Nội, thị trờng trong nớc, thị trờng quốc tế, hoặc hẹp hơn, nh các trung tâm giao
dịch chứng khoán, chợ
Từ quan niệm trên có thể đi tới khái niệm quản lý nhà nớc bàng pháp luật đối
với thị trờng là quản lý các quan hệ mua bán lu thông hàng hoá do các chủ thể kinh
doanh thực hiện, diễn ra trên một địa bàn nhất định trên cơ sở tác động điều chỉnh của
pháp luật theo một cơ chế pháp lý phù hợp.

Quan niệm quản lý nhà nớc bằng pháp luật có thể còn theo nghĩa rộng hơn nếu
lấy đối tợng của quản lý là các hoạt động thơng mại. Hoạt động thơng mại ở đây đợc
định nghĩa theo Điều 5, khoản 2 Luật Thơng mại là việc thực hiện một hay nhiều
hành vi thơng mại của thơng nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
thơng mại và các hoạt động xúc tiến thơng mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm
thực hiện các chính sách kinh tế xã hội. Nh vậy, đối tợng của quản lý nhà nớc
bằng pháp luật đối với thị trờng ngoài quan hệ mua bán hàng hoá còn bao gồm các
hoạt động cung ứng dịch vụ thơng mại, hoạt động xúc tiến thơng mại.
Quan niệm về quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với thị trờng còn rộng hơn
nữa nếu theo khái niệm hoạt động thơng mại tại Điều 2, khoản 3 Pháp lệnh Trọng tài
thơng mại (25/02/2003). Theo pháp lệnh này, các hoạt động sau đợc coi là hoạt động
thơng mại:
- Mua bàn hàng hoá;
- Cung ứng dịch vụ;
- Phân phối;
- Đại diện, đại lý thơng mại;
- Ký gửi;
- Thuê, cho thuê;
- Xây dựng;
12
- T vấn;
- Kỹ thuật;
- Li xăng;
- Đầu t;
- Tài chính, ngân hàng;
- Bảo hiểm;
- Thăm dò, khai thác;
- Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đờng không, đờng biển, đờng sắt, đ-
ờng bộ;
- Các hành vi thơng mại khác theo quy định của pháp luật.

Dù quan niệm theo nghĩa nào, quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với thị trờng
ở nớc ta hiện nay có đặc điểm sau:
Một: Đối tợng của quản lý chịu tác động mạnh mẽ, trực tiếp của cơ chế thị tr-
ờng. Đây là đặc điểm nói lên tính chất phức tạp của quản lý, đồng thời đề ra nhiệm vụ
của quản lý là phải ngăn chặn đợc những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trờng, mặt
khác, phải bảo đảm môi trờng lành mạnh, từ đó thúc đẩy thị trờng phát triển, đúng
định hớng xã hội chủ nghĩa, đúng mục tiêu của các chính sách kinh tế xã hội của
nhà nớc, của từng địa phơng.
Hai: Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng ở nớc ta chỉ mới đợc phát triển; các
yếu tố thị trờng hầu nh chỉ mới ra đời, lại cha đồng bộ đã làm cho pháp luật về thị tr-
ờng thiếu ổn định, không đầy đủ.
Ba: Quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với thị trờng, với quan niệm thị trờng
nh trên đợc giao cho nhiều cơ quan nhà nớc nớc khác nhau. Có thể nói hiện giờ, chủ
thể quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với thị trờng hết sức phức tạp, không chỉ do Bộ
Thơng mại và các cơ quan quản lý chuyên trách. Trong điều kiện của bộ máy quản lý
đang trong quá trình cải cách, đổi mới, điều chỉnh lại chức năng và cơ chế quản lý và
kinh nghiệm quản lý thị trờng trong điều kiện của cơ chế thị trờng cha nhiều đã làm
cho chủ thể quản lý gặp nhiều lúng túng, hiệu lực, hiệu quả quản lý vẫn cha đáp ứng
yêu cầu.
13
Bốn: Quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với thị trờng mang tính xã hội sâu sắc
bởi nó trực tiếp bảo vệ những lợi ích xã hội, đặc biệt là lợi ích của ngời tiêu dùng, của
cá nhân, đơn vị kinh tế, và do đó, là bộ phận quản lý dễ huy động lực lợng của nhân
dân tham gia, đợc d luận xã hội đồng tình. Đây là yếu tố động lực lớn góp phần tăng
cờng hiệu lực, hiệu quả quản lý.
1.2. Chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng trong quản lý nhà nớc bằng
pháp luật đối với thị trờng.
Kiểm tra, kiểm soát là một chức năng quan trọng của quản lý Nhà nớc về kinh
tế và cũng là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nớc đối với thị trờng. Đối t-
ợng của công tác kiểm tra, kiểm soát là thị trờng, mà là đối tợng phức tạp về nhiều

mặt, trong đó tính chất, nội dung và quy mô hoạt động của thị trờng quyết định nội
dung, nhiệm vụ, hình thức tổ chức, phơng pháp, các công cụ của công tác kiểm tra,
kiểm soát thị trờng.
1.2. 1. Đối tợng, nội dung kiểm tra, kiểm soát thị trờng.
Các hoạt động trên thị trờng, gồm: hoạt động hợp pháp và hoạt động phi pháp,
đều là đối tợng và đều chịu sự giám sát, kiểm tra của lực lợng quản lý, kiểm tra, kiểm
soát thị trờng. Tuy nhiên, phơng thức kiểm tra, kiểm soát của lực lợng kiểm tra, kiểm
soát thị trờng đối với hai loại hoạt động nêu trên khác nhau về cơ bản:
- Một mặt, lực lợng kiểm tra, kiểm soát thị trờng phải thờng xuyên giám sát
hoạt động trên thơng trờng, tuyên truyền, hớng dẫn, nhắc nhở các chủ thể tham gia thị
trờng hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, làm sao để hoạt động hợp pháp
trên thị trờng ngày càng trở thành phổ biến, tạo nền tảng cho thị trờng phát triển lành
mạnh, xây dựng trật tự, kỷ cơng mới, văn minh trong hoạt động thơng mại, dịch vụ
của cả nớc. Xét về mặt này, công tác kiểm tra, kiểm soát thị trờng có nội dung và mục
đích giáo dục, xây dựng và phòng ngừa, và về lâu dài đây phải là mặt chủ yếu.
- Mặt khác, do kinh tế thị trờng ở nớc ta mới trong giai đoạn đầu của sự phát
triển, còn thiếu nhiều điều kiện cho cơ chế thị trờng hoạt động có hiệu quả, có trật tự
kỷ cơng và văn minh, hoạt động thị trờng còn nhiều lộn xộn, cha có nề nếp. Điều đáng
chú ý và quan tâm là hoạt động phi pháp, hành vi vi phạm pháp luật còn khá phổ biến,
14
có nơi, có lúc rất nghiêm trọng. Xét theo hớng này, lực lợng quản lý, kiểm tra, kiểm
soát thị trờng trong thời gian tới, nhất là trong những năm trớc mắt còn phải tập trung
sức đấu tranh chống các hoạt động phi pháp trên thị trờng, từng bớc ngăn chặn và đẩy
lùi các hoạt động tiêu cực này, góp phần tạo dựng trật tự, kỷ cơng và văn minh thơng
mại.
Do tính chất các loại hoạt động phi pháp có khác nhau, nên mục tiêu, phơng
thức kiểm tra, kiểm soát đối với từng loại hoạt động này không giống nhau. Mỗi loại
hoạt động phi pháp đều là một đối tợng cụ thể của công tác kiểm tra, kiểm soát thị tr-
ờng; những công việc cụ thể có liên quan đến công tác đấu tranh chống từng loại vi
phạm này là một nội dung của công tác kiểm tra, kiểm soát thị trờng.

Có thể phân chia các loại hoạt động thị trờng phi pháp là đối tợng kiểm tra,
kiểm soát của lực lợng quản lý thị trờng nh sau:
Một: Kinh doanh trái phép.
Xuất phát từ chỗ các chủ thể tham gia hoạt động thị trờng phải có đủ t cách
pháp lý, tức là đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền cấp đăng ký kinh doanh theo trình
tự và thủ tục pháp luật quy định, hoặc đợc pháp luật công nhận quyền tham gia hoạt
động thị trờng trong phạm vi nhất định, nên mọi hoạt động, hành vi trái với nội dung
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc ngoài phạm vi quyền tham gia thị trờng đ-
ợc pháp luật công nhận không phải đăng ký kinh doanh, hoặc kinh doanh không có
đăng ký cũng nh không có giấy phép riêng trong trờng hợp pháp luật quy định phải có
giấy phép đều là các hành vi kinh doanh trái phép.
Kinh doanh trái phép là một trong các đối tợng cụ thể của lực lợng kiểm tra,
kiểm soát thị trờng nhằm loại trừ các hành vi đó, bảo đảm các hoạt động kinh doanh,
mua bán trên thị trờng diễn ra bình thờng, đúng quy định của pháp luật, duy trì trật tự,
kỷ cơng trong hoạt động thị trờng, là công việc có tính thờng xuyên, và hết sức quan
trọng. Vì thế, trong Bộ luật Hình sự của nớc ta có riêng một điều (Điều 159) về Tội
kinh doanh trái phép để xét xử các hành vi vi phạm pháp luật thuộc loại này nếu hội
đủ các điều kiện quy định.
Hai: Buôn lậu.
15
Buôn lậu là một hiện tợng kinh tế phát sinh từ lâu đời, xuất hiện hầu nh ở khắp
các nớc trên thế giới, có nơi, có lúc trở thành quốc nạn. Theo quan niệm chung nhất,
buôn lậu bao gồm những hành vi sau:
- Hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoá hoặc ngoại tệ,
kim khí và đá quý, những vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá mà Nhà nớc cấm
xuất khẩu hay nhập khẩu, hoặc buôn bán hàng hoá nói chung qua biên giới mà trốn
thuế và trốn sự kiểm tra của Hải quan.
- Hành vi buôn bán trốn thuế, lậu thuế; buôn bán những hàng hoá mà Nhà nớc
cấm kinh doanh trong nớc.
Theo Bộ luật Hình sự của Việt Nam, không phải tất cả những hành vi buôn lậu

đều bị xét xử theo Tội buôn lậu, mà chỉ bị xét xử theo trình tự tố tụng hình sự về tội
này những hành vi buôn bán hàng hoá trái phép qua biên giới có trị giá từ 100 triệu
đồng trở lên (hoặc dới 100 triệu đồng nhng vi phạm các quy định của Điều này), kể cả
buôn bán hàng cấm, có số lợng lớn (hoặc tuy số lợng không lớn nhng còn vi phạm các
quy định khác của Điều này). Mặt khác, cũng theo Bộ luật Hình sự hiện hành, thì các
hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng hoá mà Nhà nớc cấm kinh
doanh ở trong nớc và hành vi trốn thuế (nếu đến mức cấu thành tội phạm) thì lại bị xét
xử theo những tội danh riêng (không thuộc tội buôn lậu). Ngoài ra, theo Bộ luật Hình
sự thì hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới (hoặc tiền tệ, kim khí quý,
đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, kể cả hàng cấm) cũng bị xét xử theo
tội danh riêng, không xử theo tội buôn lậu. Tuy đây không phải là hành vi buôn bán
hàng hoá trái phép qua biên giới mà chỉ là hoạt động vận chuyển, tức là một hoạt động
dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hoá nào đó, nhng xét về bản chất thì nó cũng
không thua kém gì hành vi buôn lậu.
Một đặc trng chung của các hành vi buôn lậu cũng nh hành vi vận chuyển hàng
hoá trái phép qua biên giới là việc trốn tránh sự kiểm soát của các cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền, dùng các thủ đoạn gian dối để che mắt các cơ quan này, hoặc cấu kết với
các cơ quan này để thực hiện các hành vi đó. Trong tình hình hiện nay, công tác chống
16
buôn lậu là một nội dung rất quan trọng, trở thành nội dung trung tâm của công tác
kiểm tra, kiểm soát thị trờng.
Ba: Buôn bán hàng giả.
Sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả là hai khâu thờng gắn liền với nhau, có
cùng bản chất. Vì thế, nên hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả đợc xem xét chung
là một đối tợng không kém phần nguy hại so với buôn lậu, và cần đợc kiểm tra, kiểm
soát gắt gao. Theo Bộ luật Hình sự của Việt Nam thì hành vi này bị xét xử theo một
tội danh chung là Tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Từ đó, nội dung công tác kiểm
tra kiểm soát chống hàng giả đợc hiểu đầy đủ là chống sản xuất, buôn bán hàng giả,
mặc dù ngày càng xuất hiện nhiều loại hàng giả đợc sản xuất ở một nớc, nhng buôn
bán, tiêu thụ ở nớc khác. Hiện nay ở nớc ta cũng có nhiều loại hàng giả đợc sản xuất ở

nớc ngoài và đợc nhập lậu, thậm chí nhập theo đờng chính thức vào để tiêu thụ; hoặc
sau khi nhập khẩu vào rồi mới thay đổi nhãn mác, tên, địa chỉ ngời sản xuất và đa ra
buôn bán trên thị trờng.
Việc xác định hàng giả mặc dù đã có hớng dẫn của cơ quan nhà nớc song suy
cho cùng là phải lấy hàng thật làm chuẩn để so sánh, đối chiếu các tiêu chí, tiêu
chuẩn, nhất là tiêu chuẩn chất lợng và các nội dung khác của chúng để phát hiện sự
khác biệt; nếu cần phải qua kiểm nghiệm, giám định của cơ quan chuyên môn kỹ
thuật. Nói chung, đặc trng chủ yếu của hàng giả là hàng có chất lợng kém, phẩm cấp
thấp nhng chủ hàng với động cơ lừa dối, thủ đoạn tinh đã cố ý nguỵ trang nó dới danh
nghĩa hàng thật, che đậy nó bằng cách làm giả, làm nhái nhãn mác hàng chính hiệu
cùng loại có chất lợng tốt hơn, phẩm cấp cao hơn của các hãng sản xuất - kinh doanh
đợc thị trờng tín nhiệm và ngời tiêu dùng a chuộng nhằm dễ tiêu thụ sản phẩm của
mình với khối lợng lớn, bán hàng nhanh và thu lợi nhuận lớn.
Hàng giả một mặt tàn phá nền kinh tế trong nớc, làm xói mòn uy tín các thơng
hiệu chính phẩm và lợi ích của các nhà sản xuất chân chính; mặt khác, đặc biệt
nghiêm trọng là hàng giả xâm hại lợi ích, thậm chí gây nguy hiểm đến tính mạng ngời
tiêu dùng, nhất là hàng giả là thực phẩm, thuốc chữa và phòng bệnh cho ngời, thức ăn
chăn nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây, con, phân bón Có thể nói,
17
với công nghệ hiện đại, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ nhanh, hầu nh ít có hoặc
hiếm thấy loại hàng nào mà kẻ xấu không thể làm giả hoặc không tìm cách để làm
giả. Vì thế cuộc chiến chống hàng giả không kém phần khó khăn, phức tạp so với
chống buôn lậu, diễn ra không ngừng và nhiều khi rất quyết liệt nhằm bảo vệ lợi ích
chung của xã hội, lợi ích và cuộc sống bình yên, an toàn của ngời tiêu dùng, đồng thời
bảo vệ quyền lợi của các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính.
Bên cạnh hàng giả, còn các loại hàng kém chất lợng, quá hạn sử dụng, không
bảo đảm tiêu chuẩn bắt buộc về chất lợng theo quy định của Nhà nớc hoặc không thực
hiện đúng và đầy đủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm Tuy không thuộc
phạm trù hàng giả, nhng hành vi lu thông, buôn bán các hàng hoá này có thể đợc
xếp chung vào nhóm đối tợng buôn bán hàng giả để tổ chức công tác kiểm tra, kiểm

soát và xử lý nghiêm các vi phạm theo các quy định pháp luật có liên quan, vì các vi
phạm thuộc loại này gây nguy hại trực tiếp tới lợi ích, sức khoẻ ngời tiêu dùng không
kém gì hàng rởm, hàng giả.
Ngoài ra, các loại tem, vé, văn bằng, hoá đơn tài chính hoặc các giấy tờ có
giá khác đợc làm giả và mua - bán nh hàng hoá thì đều bị coi là hàng giả, và cần xử lý
nghiêm các hành vi buôn bán này. Việc thực hiện dán tem đối với một số sản phẩm
sản xuất trong nớc hoặc nhập khẩu vừa có tác dụng chống hàng nhập lậu, vừa có tác
dụng chống hàng giả. Tuy nhiên, nếu việc tổ chức dán tem hoặc quản lý tem không
chặt chẽ thì chính tem (có thể là tem thật bị lọt ra ngoài vòng kiểm soát, tem thật quay
vòng tái sử dụng hoặc là tem giả) lại tạo ra nơi ẩn náu mới cho hàng lậu, hàng giả, vừa
gây khó khăn cho việc kiểm tra, kiểm soát, vừa gây nhầm lẫn đối với ngời tiêu dùng.
Bốn: Gian lận thơng mại.
Gian lận thơng mại là một trong những đối tợng của kiểm tra, kiểm soát thị tr-
ờng.Trong hoạt động thơng mại thờng gặp các hành vi gian lận sau:
+ Gian lận đối với khách hàng và ngời tiêu dùng, nh: gian dối khi cân, đo, đong,
đếm, cố ý tính sai, đánh tráo chủng loại, phẩm cấp hàng hoá gây thiệt hại cho khách
hàng hoặc ngời tiêu dùng.
18
+ Gian lận đối với cơ quan quản lý nhà nớc, nh: buôn bán nhiều, kê khai ít để
trốn lậu thuế; buôn bán chủng loại hàng hoá này kê khai chủng loại khác có thuế suất
thấp hơn hoặc kê khai loại hàng này nhng giao nhận, vận chuyển, lu thông loại hàng
khác, thậm chí cả hàng lậu, hàng cấm nhằm trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các
cơ quan chức năng và trốn lậu thuế.
Gian lận thơng mại là hiện tợng thờng gặp nên cần đợc kiểm tra, kiểm soát và
xử lý các vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích chung và lợi ích ngời tiêu dùng, bảo đảm trật tự
kỷ cơng và văn minh trong hoạt động thơng mại.
Năm: Các hành vi vi phạm pháp luật khác trong thơng mại.
Hoạt động trao đổi, mua bán, lu thông hàng hoá trên thị trờng ngoài việc phải
tuân thủ các quy phạm pháp luật chung của Nhà nớc, còn phải theo các quy định hoặc
hớng dẫn của các cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền, nhất là đối với các

loại hàng hoá có tính đặc thù, nh:
+ Quy định về chất lợng hàng hoá đợc phép mua bán, lu thông trên thị trờng;
+ Quy định về hàng hoá và điều kiện kinh doanh các loại hàng có tính đặc thù,
nh: thuốc phòng chữa bệnh cho ngời, vệ sinh thực phẩm, thuốc thú y, thuốc trừ sâu,
văn hoá phẩm
Ngoài ra, hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trờng cũng không bỏ qua các vi
phạm pháp luật về các lĩnh vực khác, nh: quy định về sản xuất, về tài chính, tiền tệ,
thanh toán, giá cả, thuế khoá đ ợc bộc lộ thông qua mua bán trên thị trờng.
Để kiểm tra, kiểm soát chống các hành vi vi phạm pháp luật nêu trên, lực lợng
quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trờng chuyên nghiệp cần phối hợp với các lực lợng
kiểm tra kiểm soát khác, nhất là các lực lợng thanh tra chuyên ngành, nhằm bảo đảm
trật tự, kỷ cơng chung trên thơng trờng, không loại trừ bất cứ hành vi vi phạm pháp
luật nào xâm phạm lợi ích kinh tế chung và lợi ích ngời tiêu dùng.
1.2.2. Lực lợng kiểm tra, kiểm soát thị trờng.
Thực thi chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng là lực lợng kiểm tra kiểm soát
chuyên nghiệp trong lĩnh vực thơng mại, dịch vụ, còn gọi là Quản lý thị trờng.
19
Việc thành lập lực lợng kiểm tra, kiểm soát thị trờng chuyên nghiệp là hết sức
cần thiết, bởi: 1, thị trờng là một lĩnh vực hoạt động sôi động và phức tạp, bao gồm
nhiều loại hoạt động, nhiều mối quan hệ kinh tế - xã hội đan xen, cả hợp pháp và phi
pháp, do hàng triệu cá nhân và tổ chức thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia, kể cả
tổ chức sản xuất, kinh doanh của nớc ngoài, diễn ra trên khắp mọi miền của đất nớc,
có liên hệ ngày càng nhiều với thị trờng nớc ngoài 2, để bảo đảm thực thi các chính
sách và pháp luật của Nhà nớc về thơng mại, dịch vụ, một lĩnh vực hoạt động có tính
chuyên ngành; bảo đảm duy trì trật tự kỷ cơng đối với các hoạt động trên thị trờng.
ở nớc ta hiện nay hoạt động thị trờng còn lộn xộn, cha vào khuôn khổ, cha có
nề nếp, trật tự kỷ cơng, chính sách, pháp luật về thơng mại, dịch vụ, quản lý thị trờng
cha ổn định, cha đồng bộ và hoàn chỉnh thì việc tổ chức lực lợng kiểm tra, kiểm soát
thị trờng chuyên nghiệp là hết sức cần thiết.
Ngoài lực lợng chuyên nghiệp của cơ quan quản lý thị trờng có một số cơ quan

nhà nớc trong thực thi chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của mình có khả năng và điều
kiện kết hợp, phối hợp kiểm tra và phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực hoạt động thơng mại, buôn bán hàng hoá trên một địa bàn nhất định. Đó là các cơ
quan, tổ chức sau:
- Lực lợng Hải quan, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, là lực lợng hoạt động tại
các cửa khẩu, biên giới, vùng biển nên có điều kiện và khả năng kiểm tra kiểm soát
chống kinh doanh, buôn bán, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, chống
buôn lậu
- Lực lợng Cảnh sát kinh tế (và trong một số trờng hợp kể cả cảnh sát giao
thông) trong hoạt động của mình có điều kiện theo dõi, kiểm tra phát hiện hoặc điều
tra kết luận các hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, thơng mại, nhất là các hành vi vi
phạm lớn có tính hình sự, phá hoại an ninh kinh tế và an ninh quốc gia.
- Lực lợng thuế vụ, trong quá trình kiểm tra bảo đảm thực thi nghĩa vụ nộp thuế
của thơng nhân có thể phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thơng
mại, nh kinh doanh trái phép
20
- Các lực lợng thanh tra chuyên ngành, nhất là đối với các ngành hàng có nhiều
đặc thù và do đó có những quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn chất lợng sản phẩm và điều
kiện sản xuất kinh doanh, nh: thực phẩm, thuốc chữa và phòng bệnh cho ngngời, thuốc
thú y, thuốc trừ sâu bệnh thực vật, văn hoá phẩm
Nh vậy, trong công tác kiểm tra, kiểm soát thị trờng, ngoài lực lợng chuyên
nghiệp, cần có sự phối hợp hoạt động giữa lực lợng chuyên nghiệp có tính thờng trực
này với các lực lợng khác có liên quan. Đó là một nhu cầu cần thiết khách quan.
1.2.3.Vai trò của chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng.
- Thông qua kiểm tra, kiểm soát thị trờng góp phần truyền bá, giải thích, hớng
dẫn, nhắc nhở các chủ thể tham gia thị trờng thực hiện các quy phạm pháp luật, các
định hớng, cơ chế chính sách của Nhà nớc, uốn nắn những lệch lạc, thiếu sót giúp đỡ
họ tự giác thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nớc; qua đó có tác dụng phòng
ngừa, ngăn chặn những sai phạm có thể xảy ra.
Trên cơ sở theo dõi, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động thực tiễn trên thơng tr-

ờng mới có thể phát hiện kịp thời các xu hớng phát triển của hoạt động thị trờng;
những lệch lạc, sai phạm, những hành vi trái pháp luật, những vụ buôn bán hàng cấm,
hàng nhập lậu, hàng giả, trốn lậu thuế, gian lận thơng mại để có biện pháp xử lý phù
hợp. Từ đó có tác dụng trực tiếp duy trì trật tự kỷ cơng đối với các hoạt động trên thị
trờng, góp phần lành mạnh hoá hoạt động thị trờng; mặt khác, còn có tác dụng răn đe,
ngăn ngừa tội phạm, góp phần phát triển thị trờng ổn định, có hiệu quả và lành mạnh;
vừa bảo vệ lợi ích chung của Nhà nớc và xã hội, vừa bảo vệ lợi ích của các chủ thể
kinh doanh chân chính, tôn trọng và làm đúng pháp luật.
- Thông qua kiểm tra, kiểm soát thị trờng, hàng ngày hàng giờ tiếp cận với hoạt
động thực tiễn của các chủ thể tham gia thị trờng, đồng thời qua quá trình xử lý vi
phạm, phát hiện những bất hợp lý, những sơ hở của hệ thống pháp luật và cơ chế chính
sách để có những kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà nớc nói chung và nhất là
trong lĩnh vực quản lý thị trờng.
21
- Đồng thời, thông qua các hoạt động nêu trên, bản thân tổ chức và lực lợng
Quản lý thị trờng, kiểm tra, kiểm soát thị trờng đợc rèn luyện và đào tạo, tích luỹ đợc
kinh nghiệm, trên cơ sở đó ngày càng có những hình thức, phơng pháp, biện pháp,
công cụ sắc bén hơn nhằm phát huy tác dụng của công tác kiểm tra, kiểm soát thị tr-
ờng, góp phần đa hoạt động thị trờng ngày càng vào nề nếp, trật tự kỷ cơng, ổn định,
có hiệu quả, theo định hớng và pháp luật của Nhà nớc.
Những tác dụng nêu trên khẳng định vai trò quan trọng của công tác kiểm tra,
kiểm soát nhằm thực thi một chức năng không thể thiếu của quản lý nhà nớc về kinh
tế cũng nh quản lý thị trờng. Vai trò kiểm tra, kiểm soát của nhà nớc đối với hoạt động
thị trờng càng trở nên bức thiết, khi thị trờng còn trong giai đoạn sơ khai, ý thức tự
giác chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia thị trờng còn thấp, hoạt động trên
thị trờng ngày càng phát triển nhộn nhịp cùng với các mối quan hệ rất phức tạp và còn
nhiều lộn xộn
1.3 Cở sở pháp luật của quản lý nhà nớc đối với thị trờng và chức năng
kiểm tra, kiểm soát thị trờng.

Pháp luật về thị trờng và về quản lý nhà nớc đối với thị trờng là cơ sở của quản
lý nhà nớc đối với thị trờng, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trờng. Với
quan niệm nh vậy, pháp luật về thị trờng và quản lý nhà nớc đối với thị trờng đợc phân
thành các bộ phận quy phạm sau:
- Bộ phận quy phạm quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu bộ máy
của cơ quan nhà nớc có chức năng quản lý thị trờng.
- Bộ phận quy phạm quy định các chuẩn mực buộc các đối tợng khi thực hiện
các hành vi thơng mại phải tuân thủ.
- Bộ phận quy phạm quy định chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thị trờng và
quản lý thị trờng.
Nếu căn cứ vào thứ bậc hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật có thể
phân chia cơ sở pháp lý của quản lý nhà nớc đối với thị trờng nh sau:
- Các quy phạm ở cấp độ Hiến pháp, bao gồm các quy định cao nhất, có tính
nguyên tắc, nh khẳng định đờng lối kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
22
trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa; quy định các thành
phần kinh tế tồn tại lâu dài, cá nhân, tổ chức thuộc tất cả các thành phần kinh tế, kể cả
thành phần kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài đều bình đẳng trớc pháp luật; quy định vốn
và tài sản hợp pháp của các cá nhân và tổ chức đợc nhà nớc bảo hộ, không quốc hữu
hoá; quy định quyền tự do kinh doanh.
Các quy phạm Hiến pháp cũng quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh phải chấp
hành Hiến pháp và pháp luật, nhà nớc thực hành pháp chế, nghiêm trị mọi hành động
vi phạm Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, trong đó có
các quyền lao động, học tập, quyền của ngời tiêu dùng.
- ở cấp độ lập pháp, Quốc hội, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội đã ban hành một loạt
các văn bản quan trọng, đáng chú ý là các văn bản sau:
+ Các Luật doanh nghiệp, Luật đầu t nớc ngoài, Luật khuyến khích đầu t trong
nớc quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp;
những nội dung quản lý nhà nớc đối với doanh nghiệp (1, ban hành, phổ biến và tổ
chức thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp; 2, tổ chức đăng ký kinh doanh;

hớng dẫn việc đăng ký kinh doanh bảo đảm thực hiện chiến lợc, quy hoạch và kế
hoạch định hớng phát triển kinh tế - xã hội; 3, tổ chức thực hiện và quản lý đào tạo cán
bộ quản lý doanh nghiệp; 4, thực hiện chính sách u đãi đối với doanh nghiệp theo định
hớng và mục tiêu của nhà nớc, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; 5,
kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp; giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thông qua chế độ báo cáo tài chính định kỳ và báo cáo khác ).
Luật doanh nghiệp cũng quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ củ cơ quan quản
lý nhà nớc, trong đó có cơ quan quản lý thị trờng đối với doanh nghiệp.
Một bộ phận quan trọng là các luật, pháp lệnh quy định các chuẩn mực pháp lý
cho quản lý nhà nớc đối với thị trờng. Không kể Bộ Luật dân sự, có các văn bản trực
tiếp quy định đầy đủ vấn đề này: Luật thơng mại, Luật bảo hiểm, Luật khoa học công
nghệ, Pháp lệnh về tín phiếu, Pháp lệnh về bảo vệ quyền lợi ngời tiêu dùng
ở cấp văn bản lập quy của Chính phủ, các Bộ, Ngành, trực tiếp là Bộ Thơng mại
có rất nhiều văn bản quy định cụ thể và hớng dẫn thực hiện luật, pháp lệnh, đáng chú ý
23
là các văn bản: quy định về xử lý vi phạm hành chính về trật tự quản lý thị trờng, về
quản lý nhà nớc đối với các hoạt động kinh doanh theo các ngành, nghề, hàng hoá cụ
thể (vàng bạc, giết mổ )
Trong các văn bản trên, đáng chú ý là Nghị định 140/HĐBT 25/4/1991 của Hội
đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) quy định việc kiểm tra, xử lý sản xuất, buôn bán
hàng giả; Nghị định số 02/NĐ-CP của Chính phủ ngày o5/01/1995 quy định về hàng
hoá, dịch vụ cấm kinh doanh thơng mại và hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thơng mại có
điều kiện ở thị trờng trong nớc
Việc xử lý vi phạm phát hiện đợc qua công tác kiểm tra, kiểm soát thị trờng dựa
trên cơ sở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính sửa đổi ngày 16/ 7/ 2002, và tại Nghị
định 01/CP ngày 03/01/1996 của Chính phủ, đợc sửa đổi bổ sung một số điều theo
Nghị định số 01/2002/NĐ-CP ngày 03/01/2002 về việc xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thơng mại. Những văn bản này là cơ sở pháp lý để xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hoạt động thơng mại, dịch vụ thời gian qua. Ngoài ra những hành
vi vi phạm chế độ quản lý nhà nớc về thị trờng nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì đ-

ợc xử lý theo các quy định của Bộ luật hình sự.
Về tổ chức bộ máy cơ quan quản lý thị trờng, Chính phủ đã ra Nghị định quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bộ thơng mại, trong đó có
quản lý nhà nớc lĩnh vực thơng mại trong phạm vi cả nớc; quản lý nhà nớc các dịch vụ
công thuộc ngành và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn góp của nhà nớc tại
doanh nghiệp thơng mại có vốn nhà nớc theo quy định của pháp luật.
Về tổ chức bộ máy quản lý bộ máy chuyên trách quản lý thị trờng có Nghị định
số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ. Nghị định này quy định tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn của quản lý thị trờng. Điều 1 của Nghị định xác định: Quản lý thị trờng là
lực lợng chuyên trách đợc tổ chức từ trung ơng đến huyện, có chức năng kiểm tra,
kiểm soát, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thơng mại ở thị tr-
ờng trong nớc.
Hệ thống tổ chức quản lý thị trờng gồm có:
+ ở trung ơng thành lập Cục quản lý thị trờng trực thuộc Bộ Thơng mại
24
+ ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng lập chi cục quản lý thị trờng trực thuộc
Sở Thơng mại
+ ở quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh theo yêu cầu cụ thể trên từng địa
bàn Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định việc thành lập các đội quản lý thị trờng
trực thuộc Chi cục hoạt động trên địa bàn huyện hoặc liên huyện.
Nghị định trên cũng quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Cục quản lý thị
trờng, Chi cục quản lý thị trờng, đội quản lý thị trờng. Điều 5 của Nghị định quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của các chi cục quản lý thị trờng nh sau:
1. Kiểm tra, việc tuân theo pháp luật các hoạt động thơng mại của các tổ chức
cá nhân trên địa bàn tỉnh. Đề xuất với Sở Thơng mại và Uỷ ban nhân dân tỉnh kế
hoạch, biện pháp về tổ chức thị trờng, bảo đảm lu thông hàng hoá theo pháp luật, ngăn
ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động thơng mại trên địa bàn tỉnh.
2. Xây dựng và trực tiếp chỉ đạo các Đội quản lý thị trờng thực hiện các kế
hoạch kiểm tra, kiểm soát thị trờng, xử lý theo thẩm quyền các vi phạm pháp luật
trong hoạt động thơng mại.

3. Quản lý công chức, biên chế, kinh phí, trang bị, bồi dỡng chuyên môn nghiệp
vụ và xây dựng cơ sở vật chất cho lực lợng quản lý thị trờng ở địa phơng.
4. Thờng trực giúp Giám đốc Sở Thơng mại chủ trì, tổ chức sự phối hợp hoạt
động giữa các ngành, các cấp ở địa phơng có chức năng quản lý thị trờng, chống đầu
cơ buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của công chức kiểm
soát thị trờng; biên chế, kinh phí và chế độ trang bị của quản lý thị trờng, cấp hiệu, thẻ
kiểm tra thị trờng, phù hiệu, biển hiệu của quản lý thị trờng.
Cụ thể hoá Nghị định 10/CP, Bộ trởng Bộ Thơng mại đã ra quyết định số
217/TM/TCCB ngày 22/3/1995 về tổ chức bộ máy của Cục quản lý thị trờng.

25

×