Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luận văn thạc sĩ xử lý nợ xấu theo pháp luật việt nam từ thực tiễn ngân hàng TMCP quốc tế việt nam (VIB)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ VIỆT ANH

XỬ LÝ NỢ XẤU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIB)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI – 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ VIỆT ANH

XỬ LÝ NỢ XẤU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIB

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PSG.TS LÊ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI – 2020



LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, trong thời gian qua tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, các đồng nghiệp và gia đình, bè
bạn. Đặc biệt, tơi xin được chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Lê Thị
Thu Thủy - người đã hướng dẫn, định hướng cách thức nghiên cứu và giải
quyết những vấn đề cơ bản của luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo, chuyên viên, cán bộ tại Hội sở của
Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam đã dành thời gian góp ý về
hoạt động xử lý nợ xấu, cũng như đã tạo điều kiện, đồng thời cung cấp những
tài liệu nghiên cứu, dữ liệu về thực tiễn xử lý nợ xấu tại q Ngân hàng để tơi
hồn thiện luận văn này.
Tơi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bè bạn đã động viên, giúp đỡ. Mặc
dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian có hạn, cũng như kinh nghiệm của bản
thân về vấn đề nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi
những sai sót nhất định. Rất mong q thầy, cơ và đồng nghiệp đóng góp ý kiến
để luận văn được hồn thiện hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Học Viên

Vũ Việt Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .......... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân nợ xấu của ngân hàng thương
mại ......................................................................................................... 6

1.2. Khái niệm, đặc điểm về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại .... 11
1.3. Các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại .............. 12
1.4. Khái niệm, nội dung của pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại .......................................................................................... 17
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XỬ LÝ
NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ VIỆT NAM . 19
2.1. Các quy định pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu của NHTM .. 19
2.2. Thực tế thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Quốc tế Việt Nam ........................................................... 42
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI
NGÂN HÀNG QUỐC TẾ VIỆT NAM ................................................. 54
3.1. Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về về xử lý nợ xấu
tại ngân hàng thương mại .................................................................... 54
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng
thương mại tại Việt Nam..................................................................... 56
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương
mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam. ........................................................ 69
KẾT LUẬN .............................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AMC
DATC

Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản
Debt and Assets Trading Company - Công ty mua bán

nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp - Bộ tài chính

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

HĐKD

Hoạt động kinh doanh

NHTM

Ngân hàng thương mại cổ phần

NHNN

Ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng

TSBĐ

Tài sản bảo đảm

VIB

Vietnam International Bank – Ngân hàng THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN Quốc tế Việt Nam



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã và đang có những bước phát triển vượt
bậc không những phát triển kinh tế nội địa mà chúng ta đã thực sự quan tâm đến
giao lưu, phát triển kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đánh giá
nền kinh tế nước ta trong 15 năm trở lại đây để có thể thấy được sự phát triển này.Về
cơ chế xử lý nợ xấu, hiện Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ phát triển, đến
nay những đơn vị được tham gia mua nợ chủ yếu là DATC, VAMC và các AMC
của TCTD. Ngồi ra, chưa có đơn vị nào được cấp đăng ký kinh doanh mua bán nợ
theo quy định tại Luật Đầu tư 2014 và Luật số 69/2014/QH13 của Quốc hội về quản
lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, dẫn
đến VAMC mua nợ xấu từ các TCTD nhưng không thể bán nợ cho các đơn vị khác
ngoài DATC và AMC của các TCTD. Cũng do những quy định tại Luật Đầu tư
2014, Luật 69/2014/QH13, nhà đầu tư nước ngoài chưa thể tham gia hoạt động xử
lý nợ xấu tại Việt Nam. Ngày 21/6/2017, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số
42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Nghị quyết này
có hiệu lực trong 05 năm từ ngày 15/8/2017. Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép
áp dụng nhiều chính sách mới (so với pháp luật hiện hành) về xử lý nợ xấu, tài sản
bảo đảm của khoản nợ xấu, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc
xử lý nợ xấu. Nghị quyết này được ban hành hứa hẹn mang lại những bước chuyển
mới trong xử lý nợ xấu tại Việt Nam hiện nay.Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Xử
lý nợ xấu theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần Quốc
tế Việt Nam (VIB)” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình. Việc triển khai
nghiên cứu đề tài để làm sáng tỏ hơn nữa một số vấn đề về lý luận và thực tiễn việc
xử lý nợ xấu, cụ thể là ở ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam để từ
đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hơn trong thực tiễn áp dụng các
quy định này về xử lý nợ xấu ở Việt Nam hiện nay.


1


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tổng quan các cơng trình nghiên cứu về pháp luật xử lý nợ xấu như:
“So sánh pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về xử lý nợ quá hạn tại các Ngân hàng
TCMP” của học viên Đỗ Thị Xuân Phương – Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà
Nội; “Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam – Chi nhánh Quảng Bình” của học viên Nguyễn Tiến Đức – Học viện
hành chính quốc gia; “Giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai” của học viên Nguyễn Thị Thu
Hiền – Đại học Đà Nẵng; “Quản lý nợ xấu tại ngân hàng Agribank chi nhánh
Phù Yên – tỉnh Sơn La’’ của học viên Nguyễn Tuấn Anh – Học viện Hàn lâm
KHXH; … có thể thấy các cơng trình nghiên cứu đã đề cập những vấn đề sau:
Thứ nhất, các cơng trình đã đưa ra được khái niệm pháp luật về xử lý nợ
xấu trong hoạt động tín dụng qua thực tiễn tại các ngân hàng thương mại tại
Việt Nam. Ở góc độ nhất định cũng đã nêu và phân tích được các đặc điểm về
xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Thứ hai, các cơng trình đã phần nào phân tích làm rõ được các quy định
pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng, qua thực tiễn tại các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam
Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu ở mức độ nhất định cũng phân tích về
pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng, qua thực tiễn tại các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam, qua đó chỉ ra thực trạng và đề xuất giải pháp để
giải quyết nợ xấu tại Việt Nam hiện nay. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu
đề tài luận văn, tác giả sẽ có sự tiếp thu, kế thừa những thành quả, các giá trị
mà các nghiên cứu đã chỉ ra làm nền móng cho việc tiếp tục nghiên cứu đề tài
của mình của về lý luận cũng như thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về xử lý nợ xấu và đánh giá thực trạng
2


pháp luật về xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam,
từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu của Ngân hàng
Thương mại và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại cổ
phần Quốc Tế Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu tại ngân
hàng thương mại cổ phần, như làm rõ khái niệm, đặc điểm, các biện pháp xử
lý nợ xấu của ngân hàng thương mại, nội dung của pháp luật về xử lý nợ xấu
của ngân hàng thương mại.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành
và thực tiễn thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng, qua
thực tiễn tại VIB theo pháp luật Việt Nam, từ đó làm rõ những ưu điểm, nhược
điểm của pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng, qua thực tiễn tại
các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu
của ngân hàng thương mại và biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về xử lý nợ xấu tại VIB.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật Việt Nam về
xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại và thực tiễn thực thi các quy định này
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến xử lý
nợ xấu của ngân hàng thương mại, qua thực tiễn lại ngân hàng thương mại cổ phần
Quốc tế Việt Nam. Đặc biệt, luận văn tập trung vào các biện pháp xử lý nợ xấu

như mua bán nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm, cơ cấu các khoản nợ xấu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên
3


5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật và những quan điểm của Đảng và Nhà
nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ đổi
mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
trong tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, phân tích quy
định của pháp luật, các số liệu,...
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong luận văn để so sánh một số
quy định của pháp luật trong các văn bản khác nhau, tập trung chủ yếu ở chương
2 của luận văn.
- Phương pháp diễn giải quy nạp: Được sử dụng trong luận văn để diễn
giải các số liệu, các nội dung trích dẫn liên quan và được sử dụng tất cả các
chương của luận văn.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác
như: phương pháp thống kê,...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn đã nghiên cứu, đánh giá pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân
hàng thương mại tại Việt Nam và cụ thể là ngân hàng thương mại cổ phần Quốc
tế Việt Nam. Qua đó, luận văn đề xuất một số định hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về xử lý nợ xấu gắn với thực tiễn tại ngân hàng thương mại nói chung
và ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam nói riêng. Các giải pháp

được đưa ra tập trung vào nhóm vấn đề: chủ thể xử lý nợ xấu, định giá các
khoản nợ xấu, mua bán nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu. Thông
qua các định hướng, giải pháp này, đề tài mong muốn phần nào đóng góp vào
4


việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu ở nước ta hiện nay và thực
tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài mục lục, danh mục các từ viết tắt, lời nói đầu, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu và pháp luật về xử lý
nợ xấu của NHTM.
Chương 2: Các quy định pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu của NHTM
và thực tiễn thực thi tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam
Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật ở Việt
Nam và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Quốc tế Việt Nam.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân nợ xấu của ngân hàng
thương mại
“Nợ xấu” thường được nhắc đến với các thuật ngữ “ bad debt”, “ nonperforming loan” (NPL), “doubtful del debt”.Theo khái niệm của Ngân hàng
Thế giới (World Bank) thì “nợ xấu” là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá
hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ,

điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài
sản. [20] Theo Uỷ ban Basel về giám sát Ngân hàng (BCBS), trong các hướng
dẫn về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định, việc khoản nợ bị coi là khơng
có khả năng hồn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: ngân
hàng thấy người vay khơng có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực
hiện hành động gì để cố gắng thu hồi, người vay đã quá hạn 90 ngày. [1] Dựa
trên hướng dẫn này, nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản cho vay mà người
vay khơng có khả năng trả nợ đầy đủ trong tương lai hoặc các khoản cho vay
đã quá hạn 90 ngày và có dấu hiệu người đi vay không trả được nợ [7].
Theo pháp luật Việt Nam (Khoản 3 Điều 3 Quy định về phân loại tài sản
có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủ ro và việc sử dụng dự phòng
rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngồi ban hành
kèm theo Thơng tư 09/2014/TT-NHNN của NHNN Việt Nam về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của
thống đốc ngân hàng nhà nước quy định về phân loại tài sản có, mức trích,
phương pháp trích lập dự phịng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài), nợ
xấu là các khoản nợ thuộc nhóm nợ 3,4,5. Cụ thể, đây là các khoản nợ dưới tiêu
6


chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
Vậy theo quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam cũng khẳng định nợ
xấu là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên hoặc các khoản nợ đã được cơ
cấu lại thời hạn trả nợ mà khách hàng vẫn bị nghi ngờ về khả năng trả nợ.
Nguyên nhân của nợ xấu tại ngân hàng thương mại
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tình hình kinh
doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm.
Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng

hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao.
Những tác động tiêu cực này khiến cho Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu
chậm lại, trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế ước chỉ đạt 4,38%
so với cùng kỳ năm 2011. Các chỉ số tiêu dùng (Gồm cả chỉ số tiêu thụ của
ngành công nghiệp và chỉ số tiêu dùng cá nhân) tăng chậm so với cùng kỳ các
năm trước. Trong khi đó, tại các doanh nghiệp chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở
mức cao so với cùng kỳ các năm trước, tại thời điểm 01/6/2012, chỉ số hàng
tồn kho của ngành công nghiệp chế biến tăng 26% so với cùng kỳ năm 2011.
Hàng tồn kho nhiều dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh doanh và làm tăng
nợ xấu của các TCTD. Bên cạnh đó, rất nhiều doanh nghiệp hiện nay có năng
lực tài chính yếu, chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng, vốn chủ sở hữu nhỏ và
khả năng ứng phó với sự thay đổi mơi trường kinh doanh hạn chế. Vì vậy, khi
mơi trường kinh doanh xấu đi, chính sách kinh tế vĩ mơ thắt chặt, lãi suất tăng,
đồng thời tiêu thụ hàng hoá khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài chính,
kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp. Theo
báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng
hoạt động tăng nhanh: Năm 2011 có 79.014 doanh nghiệp và tính từ đầu năm
đến ngày 21/6/2012 có khoảng 25.250 doanh nghiệp, tăng 8,1% so với cùng kỳ
năm 2011 (23.358 doanh nghiệp bị phá sản trong 6 tháng đầu năm 2011).
7


Thứ hai, nguyên nhân dẫn đến nợ xấu ngân hàng là do năng lực quản trị
rủi ro tại mỗi ngân hàng cịn kém.
Hiện nay, việc xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng của TCTD mang
tính chất chủ quan. Các ngân hàng chưa xây dựng được thước đo lượng hóa rủi
ro nên chưa tính tốn chính xác được yếu tố này dẫn đến quyết định cho vay,
phân loại nợ chưa chính xác. Bên cạnh đó, về phía các doanh nghiệp – đối
tượng giải ngân vốn quan trọng của các TCTD, theo nghiên cứu hiện có đến
90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khơng ít doanh nghiệp có báo cáo tài chính

khơng chính xác, trong khi phần lớn các báo cáo tài chính này lại khơng được
kiểm tốn. Ngay cả đối với những doanh nghiệp lớn được kiểm tốn thì sự
chậm chễ trong việc công bố báo cáo cũng như chất lượng kiểm tốn cũng gây
khơng ít khó khăn cho ngân hàng.
Thứ ba, do đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng và khách
hàng kém dẫn đến tình trạng thông đồng rút ruột ngân hàng.
Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc thù, cần dựa trên sự tin cậy và mức
độ tín nhiệm thì đạo đức phải được đặt lên hàng đầu và ở khía cạnh nào đó cịn
mang tính bắt buộc. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ ngân hàng đã thông đồng
rút ruột với khách hàng, cho vay khống dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Chính vì vậy đã có chi nhánh phải xử lý hàng chục nhân viên do cấu kết với
nhau rút ruột ngân hàng. Ngồi ra, nợ xấu cịn nằm ở dạng “chuyển vốn cho
vay thành vốn góp.” Khoản nợ này khơng chỉ “rất xấu” mà cịn nguy hiểm ở
chỗ đơi khi chỉ tồn tại trên sổ sách của con nợ và chủ nợ.
Thứ tư, do tình trạng sở hữu chéo
Một nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright cơng bố về
sở hữu chéo giữa Ngân hàng với doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam cho thấy hệ
thống Ngân hàng đã hình thành một mạng lưới sở hữu chéo và cho vay theo quan
8


hệ rất phức tạp, nhằm mục đích thâu tóm ngân hàng, thu xếp vốn cho những dự
án đầu tư chưa minh bạch. Theo đó, rất nhiều cơng ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn
kinh tế Nhà nước và các tập đồn cổ phần, dù khơng thuộc lĩnh vực tài chính
nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trị nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược
trong các Ngân hàng thương mại. Chưa kể, các Ngân hàng cũng sở hữu cổ phần
lẫn nhau, cổ đông tại các Ngân hàng thương mại là các công ty quản lý quỹ đầu
tư vốn vào những Ngân hàng khác có tiềm năng. Hiện khơng ít tập đồn, tổng
cơng ty Nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở hữu chéo khi họ có trong tay
khá nhiều Ngân hàng. Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, đến nay, gần 40 Doanh

nghiệp Nhà nước và tư nhân sở hữu trên 5% tại các Ngân hàng Thương mại cổ
phần và các doanh nghiệp này lại sở hữu các cơng ty đầu tư tài chính. Tình trạng
sở hữu chéo này có thể dẫn tới rất nhiều hệ lụy, một trong số đó là làm tăng tỷ lệ
xấu của các ngân hàng. Bởi lẽ, việc sở hữu chéo sẽ dẫn đến tình trạng các Ngân
hàng sẽ tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ
dàng vay được vốn từ ngân hàng kia, hoặc dễ dàng cho các công ty con của các
doanh nghiệp có vốn sở hữu tại ngân hàng vay vốn, thậm chí khi một tổ chức tín
dụng lớn chiếm cổ phần chi phối ngân hàng khác và biến ngân hàng này thành
“sân sau” của mình, họ có thể buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín dụng cho những
dự án khơng an tồn hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ thân thiết. Việc cho vay
dễ dàng, thiếu kiểm soát cộng với việc thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng tất yếu
sẽ dẫn đến nợ xấu. Do đó, tình trạng sở hữu chéo được xem là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng cao trong thời gian gần đây.
Thứ năm, nguyên nhân dẫn đến nợ xấu là quy định pháp luật nhằm hạn
chế, giải quyết tình trạng nợ xấu đã có nhưng chưa minh bạch, chưa hợp lý
Có thể thấy rằng, pháp luật hiện hành đã có những khung pháp lý cơ bản
trong việc hạn chế cũng như giải quyết nợ xấu của các TCTD như: quy định về
phân loại nợ; quy định về trích lập dự phòng rủi ro; quy định về xử lý tài sản
đảm bảo nợ; quy định về quyền khởi kiện yêu cầu các tổ chức cá nhân hoàn trả
9


vốn vay; quy định về hoạt động mua bán nợ…Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy,
các quy định khi đi vào thực tế trở nên không phù hợp, không phát huy được
hiệu quả trong việc giải quyết nợ xấu, dẫn đến tình trạng nợ xấu khơng được
cải thiện mà cịn có xu hướng tăng lên.
Ngun nhân từ phía khách hàng, doanh nghiệp
Trong quá trình kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã phán đốn khơng
chính xác xu hướng phát triển của thị trường, dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất
trong các ngành đang phát triển q nóng mà khơng có sự đánh giá kỹ lưỡng.

Hậu quả là sự mất cân bằng trong cung và cầu. Một số doanh nghiệp khi thực
hiện các dự án lớn lại chia nhỏ dự án để tìm tài trợ từ nhiều ngân hàng khác
nhau, qua đó giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các
ngân hàng cũng như giảm bớt sự kiểm sốt của ngân hàng. Chính những yếu tố
này làm cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm sốt các khoản cho vay,
dẫn đến tình trạng nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Nguyên nhân từ cơ chế xử lý nợ của ngân hàng thương mại
Nợ xấu của ngân hàng thương mại đã tồn tại từ lâu nhưng quá trình xử
lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại lại thiếu hiệu
quả, nguyên nhân là do cơ chế xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng thương mại chưa thực sự hợp lý, còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế.
Hệ quả của nợ xấu của ngân hàng thương mại
Một là, nợ xấu của ngân hàng thương mại gia tăng tạo ra gánh nặng ngân
sách trong vấn đề xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương
mại.
Hai là, khi nợ xấu của ngân hàng thương mại gia tăng gây đình trệ nền
kinh tế.
Ba là, nợ xấu của ngân hàng thương mại đe doạ an toàn hoạt động của
cả hệ thống ngân hàng.
10


1.2. Khái niệm, đặc điểm về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại là quá trình được thực hiện bởi
các chủ thể và áp dụng các biện pháp khác nhau để thơng qua đó, ngân hàng
thương mại có thể thu hồi các khoản nợ mà ngân hàng thương mại đã cho khách
hàng vay.
Đặc điểm xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại:
Thứ nhất, về chủ thể xử lý nợ xấu: Có thể chính là ngân hàng thương
mại, hoặc ngân hàng thương mại bán cho AMC là công ty quản lý và khai thác

tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại, hoặc ngân ngân hàng thương mại bán
cho VAMC, DATC, hoặc các công ty mua bán nợ khác được thành lập hợp
pháp.
Thứ hai, đối tượng trong hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng thương
mại chính là các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại mà các khách hàng
nợ khơng có khả năng thanh tốn trong tương lai.
Thứ ba, các biện pháp xử lý nợ xấu: các biện pháp xử lý nợ xấu tại ngân
hàng thương mại rất đa dạng, có thể là mua bán nợ, cơ cấu lại khoản nợ xấu,
khởi kiện khách hàng ra trước tòa án nhân dân có thẩm quyền đề thu hồi nợ
hoặc các cơ quan tài phán khác,… Mỗi biện pháp xử lý nợ xấu lại có những
quy trình thực hiện khác nhau.
Thứ tư, xử lý nợ xấu được quy định bởi rất nhiều các văn bản và có sự
can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tỉ lệ nợ xấu tại các ngân hàng
thương mại luôn dưới 3% [21].
Thứ năm, xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại được thực hiện theo
những nguyên tắc nhất định:
- Bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán,
xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
11


- Phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm
quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống.
- Không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ
xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của
pháp luật.
1.3. Các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Về nguyên tắc, biện pháp xử lý nợ xấu cần được áp dụng từ nhiều phía,

trong đó có biện pháp từ cơ quan quản lý nhà nước nhưng trách nhiệm chính
trong việc thu hồi nợ xấu là chủ nợ (tổ chức tín dụng) và con nợ ( tổ chức, cá
nhân vay vốn). Bởi lẽ nợ xấu là vấn đề không chỉ của chủ thể kinh doanh đặc
thù là tổ chức tín dụng mà còn là vấn đề của nhiều chủ thể khác nhau trong nền
kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp, cá nhân – con
nợ giải quyết các khoản nợ xấu thương mại là nghĩa vụ hiển nhiên. Vì vậy, các
con nợ này phải tìm mọi nguồn có thể để trả nợ, thương lượng với các chủ nợ
để cơ cấu lại nợ, rà soát các dự án dể điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh,
tập trung vào các hoạt động có hiệu quả nhất, giảm thiểu chi phí và sự lệ thuộc
vào nguồn vốn ngân hàng, tăng khả năng quản trị rủi ro, khả năng tự đổi mới
và phản ứng thị trường của mình.
Tiếp cận trên phương diện các cách thức xử lý nợ xấu của TCTD, tác giả
tập trung vào các biện pháp xử lý nợ của các TCTD bao gồm:
Thứ nhất, phương thức trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu:
Việc kinh doanh tiền tệ luôn gặp phải những rủi ro bất ngờ, do đó quy
định về trích, lập và sử dụng nguồn quỹ dự phòng rủi ro để đảm bảo an toàn
cho hoạt động của các TCTD là cần thiết.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD [16] là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực
hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết và theo
12


hợp đồng tín dụng.
Dự phịng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phịng cho những tổn
thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam
kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch tốn vào chi phí hoạt
động của TCTD. Dự phịng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và dự phòng
chung
Sử dụng dự phòng là việc TCTD sử dụng dự phòng rủi ro để bù đắp tổn

thất đối với các khoản nợ.
Trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu được xem là một thông lệ tốt
trên thế giới trong hoạt động ngân hàng. Tại Việt Nam, phương thức này được
sử dụng như một biện pháp tích cực nhằm hạn chế mức độ rủi ro trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Theo đó, sau khi thực hiện việc phân loại nợ theo
từng nhóm nợ theo quy định tại Thơng tư số 36/2014/TT-NHNN của NHNN
các TCTD phải thực hiện việc trích lập đầy đủ quỹ dự phịng rủi ro tín dụng
nhằm đảm bảo an tồn cho cả hệ thống. Một khi có nợ xấu phát sinh, các TCTD
sẽ dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp cho khoản nợ xấu theo đúng quy định
pháp luật. Việc trích lập dự phịng rủi ro tín dụng ít hay nhiều sẽ tác động đến
hiệu quả kinh doanh, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông trong việc
hưởng lợi nhuận cuối cùng của ngân hàng. Song các TCTD khơng thể chỉ biết
có lãi để chia cho các cổ đông mà bỏ qua việc tuân thủ thực hiện quy chế đảm
bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng.
Thứ hai, phương thức thu hồi trực tiếp và thông qua phát mại tài sản bảo
đảm nợ vay.
Hiện nay, một trong những biện pháp được các ngân hàng thương mại sử
dụng để thu hồi nợ chủ yếu là thu hồi trực tiếp và phát mại tài sản bảo đảm nợ vay.
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện xử lý nợ xấu, nhất là nợ nhóm 5, thông qua
việc xử lý tài sản đảm bảo nợ gặp khơng ít khó khăn, tiến trình xử lý mất rất nhiều
thời gian và thủ tục, giá trị thu hồi thấp do nhiều nguyên nhân. Tình trạng phổ biến
13


hiện nay là nhiều giá trị tài sản đảm bảo nợ đã giảm rất mạnh so với thời điểm vay
vốn, ví dụ như giá trị các cổ phiếu, giá trị bất động sản giảm mạnh hoặc là những
tài sản trên đất như nhà xưởng, dây chuyền máy móc trên các khu cơng nghiệp…
Điều này khiến các ngân hàng rất khó xử lý tài sản đảm bảo nợ, nếu xử lý thì chỉ
thu hồi được một phần nợ. Ngồi ra, một khó khăn khác mà ngân hàng thường
gặp phải là khi tài sản bảo đảm được thanh lý thì số tiền thu được lại được ưu tiên

chi trả trước cho những khoản nợ phân chia theo thứ tự ưu tiên. Điều này dẫn đến
việc thực hiện xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản đảm bảo nợ thường kéo dài,
tốn kém về tài chính.
Thứ ba, phương thức mua bán nợ.
Mua bán nợ là một hoạt động còn mới ở Việt Nam trong những năm gần
đây. Bên bán nợ thường là các chủ nợ, bên mua nợ là các tổ chức mua bán nợ
chuyên nghiệp và đối tượng của các hoạt động này là khoản nợ. Việc bán nợ
này cũng được xem là phương án xử lý nợ nhanh nhất, giúp chủ nợ thu hồi một
phần vốn kinh doanh để phục vụ cho các nhu cầu và các cơ hội kinh doanh mới
nhằm cải thiện tình hình tài chính. Tuy nhiên, việc ra đời của các hoạt động
công ty mua bán nợ cũng khơng đơn giản. Các cơ quan có thẩm quyền phải
định rõ cơ chế pháp lý hoạt động của công ty, định giá đúng các khoản nợ xấu
hợp lý để nó thực sự đạt được mục tiêu hình thành.
Thứ tư, phương thức xử lý nợ thông qua con đường khởi kiện tại Tòa án
hoặc Trọng tài.
Đây là các biện pháp mà các ngân hàng thương mại áp dụng cuối cùng.
Sau khi các biện pháp khác đã được áp dụng nhưng khơng có hiệu quả trong
việc thu hồi nợ, cần thiết có sự hỗ trợ của các cơ quan pháp luật như tòa án, cơ
quan thi hành án nhằm giúp ngân hàng thu hồi nợ vay. Việc đưa các cá nhân,
doanh nghiệp ra Tòa án, phát mại tài sản sẽ tốn nhiều chi phí phát sinh, mất
nhiều thời gian, rườm rà về thủ tục và lợi ích thu về chưa chắc đã đạt được như
14


mong muốn. Chính vì vậy, các ngân hàng khơng cịn cách thức nào nữa mới sử
dụng phương thức này.
Thứ năm, phương thức xử lý nợ bằng biện pháp cơ cấu lại nợ, xóa nợ.
Cơ cấu lại nợ là biện pháp được sử dụng khi một khoản nợ đến kì hạn trả
nợ nhưng ngân hàng đánh giá khách hàng khó có khả năng trả nợ cho ngân
hàng theo lịch trả nợ đã ký trước đó do khách hàng gặp khó khăn trong hoạt

động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng thực hiện việc cơ cấu lại
thời gian trả nợ (bao gồm gia hạn nợ và điều chỉnh kì hạn trả nợ) thì khách hàng
hồn tồn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Ngân hàng thương mại
cần chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả
nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài
chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực và được
đánh giá là có khả năng trả nợ theo thời gian cơ cấu lại.
Xóa nợ là việc xóa bỏ các khoản nợ có vấn đề ra khỏi bảng cân đối dự
tốn, nhằm loại bỏ các khoản nợ còn tồn đọng tại ngân hàng thương mại. Biện
pháp này được áp dụng khi cơ cấu lại nợ khơng có hiệu quả. Biện pháp xóa nợ
chỉ áp dụng đối với khách hàng thuộc các đối tượng: (i) thành phần kinh tế gặp
nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, cháy nổ … dẫn
đến khơng có khả năng trả nợ cho ngân hàng; (ii) doanh nghiệp nhà nước đã có
quyết định phá sản của Tịa án hoặc quyết định giải thể, khơng còn khả năng
trả nợ ngân hàng; (iii) khách hàng là cá nhân bị tòa án tuyên bố là đã chết hoặc
tuyên bố mất tích theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 mà khơng cịn người
thừa kế theo quy định của pháp luật.
Thứ sáu, phương thức xử lý nợ xấu bằng biện pháp giảm miễn lãi.
Biện pháp này được áp dụng nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho
khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục hoạt động sản xuất kinh
doanh, khuyến khích khách hàng trả một phần hoặc tồn bộ nợ xấu cịn lại của
ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng khi nhận thấy các doanh nghiệp cịn có
15


phương án sản xuất kinh doanh để có thể trả nợ thường sẽ hỗ trợ doanh nghiệp
khoanh nợ, giãn nợ, giảm lãi suất. Đây là cách thức giúp con nợ phục hồi trở
lại, phát triển và trả nợ dần trong tương lai.
Ngồi ra, có thể kể đến một số biện pháp khác:
Bên cạnh những biện pháp xử lý nợ xấu quen thuộc trên đây, hiện nay

cũng có rất nhiều những biện pháp xử lý nợ khác mà rất nhiều quốc gia trên thế
giới đã và đang áp dụng. Có thể kể đến các biện pháp như: chuyển nợ vay
thành vốn góp cổ phần vào doanh nghiệp, chứng khốn hóa các khoản nợ
xấu; các doanh nghiệp giảm giá hàng bán, tăng cường các hoạt động bán
hàng, kết hợp sự hỗ trợ từ cơ quan nhà nước, ngân hàng để doanh nghiệp có
thể quay vịng vốn nhanh nhất, từ đó giải quyết các khoản nợ đối với ngân
hàng…
Ngoài ra, tái cơ cấu các TSCĐ là một trong các biện pháp nhằm xử lý nợ
xấu. Theo Đề án “ Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 của Thủ
tướng Chính phủ, được cụ thể hóa trong Thơng tư số 36/2015/TT – NHNN
ngày 31/12/2015 quy định việc tổ chức lại TCTD, các TCTD thực hiện cơ cấu
lại tồn diện về tài chính, hoạt động, quản trị của các TCTD theo các hình thức,
biện pháp và lộ trình thích hợp. Các TCTD có mức độ rủi ro cao sẽ được áp
dụng các biện pháp xử lý đặc biệt để đảm bảo an toàn, ổn định của hệ thống
ngân hàng. Đặc biệt, tái cơ cấu TCTD gắn với việc xử lý nợ xấu của TCTD.
Nếu TCTD tái cơ cấu tốt sẽ nâng cao được năng lực quản trị điều hành, lành
mạnh hóa hoạt động tài chính, trên cơ sở đó nợ xấu sẽ giảm.
Tại Việt Nam, giải quyết nợ xấu của các TCTD là công việc thường
xuyên, lâu dài và cần các TCTD quan tâm đặc biệt. Để đạt được mục tiêu tỷ lệ
nợ xấu ln kiềm chế ở mức thấp nhất thì các TCTD Việt Nam cần có những
chính sách kiểm sốt sự gia tăng của nợ xấu bên cạnh việc áp dụng giải pháp,
học hỏi những kinh nghiệm xử lý nợ xấu của các nước trên thế giới để áp dụng
có chọn lọc theo điều kiện đặc thù ở Việt Nam. Tùy thuộc vào điều kiện thực
16


tế, mỗi ngân hàng có thể chọn cho mình một hoặc kết hợp các biện pháp xử lý
nợ xấu sao cho có hiệu quả cao nhất trong việc xóa bỏ các khoản nợ xấu, làm
trong sạch bảng cân đối kế tốn, tăng năng lực tài chính cho các ngân hàng và
năng lực cạnh tranh trong xu hướng mở cửa ngày càng sâu rộng thị trường dịch

vụ tài chính theo cam kết gia nhập WTO.
1.4. Khái niệm, nội dung của pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân
hàng thương mại
Nợ xấu là vấn đề luôn tiềm ẩn từ trong giai đoạn ban đầu của hoạt động cấp
tín dụng, do vậy xử lý nợ xấu nếu chỉ bắt đầu từ khi nợ xấu phát sinh thì “e rằng”
quá muộn, việc xử lý nợ xấu phải bắt đầu ngay từ giai đoạn phịng ngừa, ngăn
chặn khơng cho nợ xấu xảy ra. Chính vì lẽ đó, hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu
ở Việt Nam có thể được hiểu bao gồm các chế định pháp luật điều chỉnh từ giai
đoạn nợ xấu chưa phát sinh đến giai đoạn xử lý nợ xấu, điều này đồng nghĩa với
việc các quy định pháp luật về nợ xấu bao gồm cả nhóm quy định mang tính phịng
ngừa, ngăn chặn và nhóm quy định xử lý nợ xấu.
Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại là là tổng hợp các
quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xử lý nợ
xấu của ngân hàng thương mại.
Nhìn chung, pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại có
những nội dung sau:
Thứ nhất, chủ thể tham gia xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại.
Thứ hai, các biện pháp xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại bao gồm:
mua bán nợ, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, cơ cấu lại các khoản nợ,
trích lập dự phịng rủi do, khởi kiện khách hàng ra tịa án nhân dân có thẩm
quyền.
Thứ ba, quy trình xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại.
Thứ tư, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình
17


xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn này tác giả không đi sâu vào
phân tích về quy trình xử lý nợ xấu và xử lý vi phạm cũng như giải quyết tranh
chấp phát sinh trong quá trình xử lý nợ xấu.

Tiểu kết chương 1
Chương I của luận văn đã bước đầu phân tích những vấn đề lý luận như
khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân nợ xấu của ngân hàng thương mại; khái
niệm, đặc điểm về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại; các biện pháp xử lý
nợ xấu của ngân hàng thương mại và khái niệm, nội dung của pháp luật về xử
lý nợ xấu của ngân hàng thương mại. Từ các vấn đề lý luận đã nêu ra tại Chương
I, tác giả đã có những cơ sở để phân tích rõ hơn các quy định pháp luật Việt
Nam về xử lý nợ xấu, qua thực tiễn tại ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế
Việt Nam trong Chương 2 của luận văn.

18


Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ VIỆT NAM

2.1. Các quy định pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu của NHTM
2.1.1. Chủ thể xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm
của quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng từ trước
đến nay. Bên cạnh các yếu tố thị trường chi phối chủ yếu đến các giao dịch cần
phát huy tối đa vai trò chủ đạo của Nhà nước để định hướng, dẫn dắt và điều
chỉnh thị trường nợ xấu có hiệu quả cao nhất. Chủ thể xử lý nợ xấu của ngân
hàng thương mại chủ yếu là DATC, VAMC và các AMC của TCTD. Ngồi ra,
TCTD cũng có thể thành phập các trung tâm, phịng ban chun trách phục vụ
cơng tác xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, trong khn khổ của luận văn có hạn, nên
tác giả chỉ đi sâu vào phân tích các chức năng, nhiệm vụ, quy định pháp luật
của VAMC.

Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng là một hiện tượng phổ biến của các
ngân hàng thương mại trên thế giới và vấn đề là cần xác định độ lớn của khoản
nợ, nguyên nhân xuất hiện, mức độ biến động và phương thức xử lý. Điều kiện
tiên quyết là cần xác định chính xác các khoản nợ, chủ nợ, con nợ, các cam kết
để hiểu rõ địa chỉ của khoản nợ và chủ sở hữu khoản nợ, các tổ chức và cá nhân
liên đới.
Đối với các khoản nợ của cá nhân hoặc doanh nghiệp, tổ chức với ngân
hàng khơng có yếu tố ngân sách nhà nước trực tiếp, có thể xử lý thông qua
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng Việt Nam (VAMC). Do tính chất quốc gia của các khoản nợ và liên quan

19


đến tài sản của dân cư và tài sản quốc gia, cơ chế mua - bán cần phải thận trọng
và việc mua - bán nợ phải trên nguyên tắc công khai, giảm thiểu những đổ vỡ
của hệ thống cũng như thất thốt tài sản. Cơng ty VAMC có hai chức năng cơ
bản là mua nợ và bán nợ mà mô hình này đã được Hoa Kỳ áp dụng thành cơng.
Các khoản nợ được mua giá rẻ trong điều kiện kinh tế suy thoái và bán lại với
giá cao đã làm lợi cho ngân sách liên bang hàng trăm tỷ đô la và khơng bị nước
ngồi thâu tóm. [10]
Mơ hình VAMC là phương thức phù hợp để thay đổi chủ sở hữu khoản
nợ xấu thơng qua mua - bán, có thể áp dụng có hiệu quả tại Việt Nam nhưng
cần tính đến các khía cạnh sau:
Thứ nhất, việc thành lập Cơng ty VAMC để xử lý nợ xấu của hệ thống
ngân hàng Việt Nam là một bước tiến quan trọng về nhận thức và hành động
xử lý các khoản nợ xấu theo các ngun tắc thị trường. Đây là mơ hình lần đầu
tiên áp dụng tại Việt Nam và tạo nền tảng quan trọng để vận hành lâu dài. Đây
là cách thức để “cứu” hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp một cách cơng khai.
Đây cũng là cách thức để Chính phủ quản lý dòng di chuyển của các khoản nợ

và theo đó, giám sát, theo dõi và quản lý các khoản nợ và tài sản của các doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức và tài sản quốc gia.
Thứ hai, VAMC là một doanh nghiệp nhà nước cho nên cần nhân danh
Nhà nước để thực hiện việc mua - bán nợ kể cả nợ cơng, nợ tư nhân thậm chí
cả các khoản nợ nước ngồi tư nhân. Cơng ty chịu sự quản lý trực tiếp của
Chính phủ để có thể kết nối với cả hệ thống ngân hàng, ngân sách nhà nước,
doanh nghiệp thuộc các thành phần và các giao dịch có yếu tố nước ngoài cũng
như các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thứ ba, việc mua - bán tiến hành công khai và tự nguyện hoàn toàn theo
nguyên tắc thị trường. Các chủ nợ và con nợ sau khi không thể thoả thuận được
các điều kiện để dàn xếp các khoản nợ, có thể bán khoản nợ này cho VAMC. Điều
này nhằm giảm thiểu tính chất mệnh lệnh của việc xử lý nợ và tăng khả năng tự
20


×