Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tư duy lí luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.27 KB, 29 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế
luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất
cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn,
phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động
thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học
đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề
do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học
nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một
cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp
luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của
chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên
cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư
tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để
xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những
khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo
thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước
trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ
nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên.
Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách
quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh
cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài
“Trong thời kỳ đổi mới chúng ta khẳng định phải đổi mới tư duy lý luận trước
khi đổi mới thực tiễn. Anh hay vận dụng những tư tưởng cơ bản của triết học
Macxit để giải thích cho luận điểm trên”.


Vò Ngäc Khoa
1
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
GIỚI THIỆU TIỂU LUẬN
I, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản, sự thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa bằng
xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tiến trình lịch sử của nhân loại là một quy luật
khách quan. Việt Nam hiện nay đang ở vào thời kỳ quá độ, chúng ta đã bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy trong quá trình phát
triển, luôn luôn nảy sinh những mâu thuẫn cần giải quyết. Với sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng và Chính phủ, chúng ta đã có những chiến lược và sách lược đúng đắn.
Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là lý luận triết học
Mác- Lênin, chúng ta đã vạch rõ được con đường phát triển kinh tế đúng đắn đó là:
”luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách
quan.’(Trích’Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI”). Từ năm 1986, chúng
ta đã tổng kết được những bài học kinh nghiệm quý báu để đổi mới và cải cách kinh
tế. Xây dựng một nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế nhiều thành phần, lành
mạnh chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chỉ đạo của Đảng vào thực tiễn hoàn
cảnh trong nước và trên thế giới. Những quan điểm đổi mới, tiến bộ đó là sự tôn
trọng hoàn toàn những lý luận nhận thức và thực tiễn chi phối nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm triết học Mác- Lênin, ta càng có cơ sở để khẳng định
những khởi sắc trong mười năm đổi mới cho dến nay từ sau Đại hội Đảng lần thứ
VI là những thành công mang tính tất yếu do chúng ta đã vận dụng đúng đắn các
quy luật khách quan vào cải tạo thực tiễn. Chúng ta đã tôn trọng những bước phát
triển có tính quy luật của lịch sử, không đi ngược lại “guồng quay” của lịch sử.
II, M ỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ
Luôn luôn gắn lý thuyết với thực hành, nắm vững kiến thức thông qua sự hiểu
biết sâu rộngvấn đề là một phương châm hành động của sinh viên trong thời đại
mới. Nghiên cứu lý luận nhận thức và thực tiễn là một sự nghiên cứu sâu rộng của
triết học trong mối liên quan với phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

Hơn thế nữa, đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, khi mà xu thé hội nhập đang
tăng cao, nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các hành động đều xuất phát
Vò Ngäc Khoa
2
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
từ quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn là phương châm chỉ đạo và hoạt động của
Đảng, Nhà nước ta.
Muốn phát triển kinh tế vững mạnh thì phải luôn đặt nó với mối quan hệ với
những khoa học khác, đặc biệt là triết học. Sự thành công hay thất bại, phát triển hay
lạc hậu của bất cứ nền kinh tế nào là do có lập trường triết học đúng đắn. Bởi vì xuất
phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được cách giải quyết
phù hợp với những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập
trường triết học sai lầm, con ngưòi khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Trong
hoạt dông kinh tế, một lập trường triết học đúng đắn là tối cần thiết. Chỉ có triết học
Mác - Lênin mới có được những tính ưu việt này.
Đối với một sinh viên ngân hàng nói riêng và những cán bộ kinh tế nói chung,
viếc nắm vững triét học với những quy luật, lý luận, phương pháp của nó là không
thể thiếu được. Vì khi giải quyết những vấn đề phức tạp cụ thể như: các cán bộ làm
công tác thực tiễn này không thể tìm thấy được ở những cán bộ thuộc lĩnh vực
chuyên ngành triết học một câu trả lời cụ thể về vấn đề đó dược, nhưng trong hoạt
động thực tiễn, những vấn đề phức tạp này lại luôn nảy sinh.
III, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Triết học Mác - Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời gian và về
sự thống nhất vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa
học và có ý nghĩa về phương pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn. Triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại
nó gắn bó hết sức chặt chẽ với cuộc sống, thực tiễn, chỉ đạo cho con người hành
động. Nắm vững được mọi nội dung của triết học, đặc biệt là lý luận nhận thức và
cải tạo thực tiễn sẽ làm cho con người làm chủ thế giới, chinh phục thiên nhiên, cải
tạo được xã hội, phát triển kinh tế mạnh mẽ.

Vấn đề đã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng VI có tác dụng tích cực đối với sự
phát triển của nền kinh tế hiện nay. Sau hơn mười năm đổi mới với những thành tựu
nhất định ta càng thấy rõ sự đúng đắn và cần thiết của bài học kinh nghiệm đó.
Trong bài viết này, chỉ tập trung phân tích vấn đề lý luận nhận thức và cải tạo thực
tiễn của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển. Cùng với sự tổng kết của
Vò Ngäc Khoa
3
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI trong văn kiện đã đánh dấu một mốc son lịch sử
của Việt Nam chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động xây dựng kinh tế, đổi mới kinh tế những năm
gần đây và mối liên hệ của nó với thực tiễn và các quy luật triết học là trung tâm của
nội dung này.
IV, C Ơ SỞ LÝ LUẬN
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước văn kiện này, những bài học kinh
nghiệm đã được rút ra trong triết học Mác - Lênin và Đảng ta lấy đó làm “kim chỉ
nam’ cho hoạt động của mình. Triết học là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác- Lênin đã chỉ rõ; triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mác
không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII mà những thiếu sót chủ yếu nhất
của nó là máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. C.Mác
và F.Enghen đã khắc phục những thiếu sót ấy, đẩy triết học tiến lên hơn nữa bằng
cách tiếp thu một cách có phê phán và có chọn lọc những thành quả của triết hoc cổ
điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hêghen. Trong những thành quả đó thì
thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình
thức toàn diện nhất, sâu sắc nhất và thoát hẳn được tính phiến diện. Nhưng phép
biện chứng của Heeghen là phép biện chứng duy tâm nên Mác và Enghen đã cải tạo
nó. Chính trong quá trình cải tạo này, Mác và Enghen đã gắn phép biện chứng
Hêghen với thực tiễn, phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, đẩy nó lên thành chủ

nghĩa duy vật bịên chứng.Vì vậy chính Mác và Enghen đã xây dựng một triết học
mới với thế giới quan duy vật nhất quán trong việc nhận thức xã hội. Cơ sở của
những lí luận trong học thuyết đó là những quy luật khách quan và thực tiễn xã hội
(“Triết học Mác- Lênin”- Chương trình cao cấp. Tập I;Tập san triết học).
Vậy trong quá trình xây dựng nên triết học Mác, C.Mác và Enghen đã luôn đi
từ thực tiễn và những quy luật khách quan để định hướng lý luận nghiên cứu. Những
lý luận đó vì thế có cơ sở khoa học vững chắc, không sa vào siêu hình hay nhị
nguyên luận như các nhà triết học đi trước.
Vò Ngäc Khoa
4
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Để chỉ đạo hoạt động được đúng đắn, triết học Mác- Lênin chính là nền tảng
bền vững cho mọi mục tiêu, phương hướng phát triển mọi mặt của Đảng và Nhà
nước ta.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM
LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I. THỰC TIỄN
1. Khái niệm
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực
quan trọng đó là: hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):
Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật
chất đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến
đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự
mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực

tiễn, là cơ sở đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con
người.
3. Tính chất lịch sử xã hội
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác
nhau, thay đổi về phương thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn
vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá
trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của
con người.
Vò Ngäc Khoa
5
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực
mới, một ”thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất,
những điều kiện mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này không được
giới tự nhiên mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó, con người cũng
phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua hoạt
động thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo của
con người. Con người không thích nghi một cách thụ động mà thông qua hoạt động
của mình, tác động một cách tích cực để biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt
động đó chính là thực tiễn.
a,Ho ạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất
là tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với
thế giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài vật.
b.Ho ạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát
triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho
hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con

người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c. Ho ạt động thực nghiệm khoa học
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng cho
thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
II, T HỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
Hoạt động thực tiễn là cơ sở , là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn của nhận thức.
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt
các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy
luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề
Vò Ngäc Khoa
6
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua
hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều
kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các
giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
1,Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước
phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc
đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới,
đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại
nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt
được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những
quy luật vận động và phát triển của sự vật.

2,Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực
tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là
nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã
hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu
của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động
thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết
của con người mới có ý nghĩa.
3,Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
Vò Ngäc Khoa
7
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
4,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a.Ch ân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn
khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân
lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá
trình nhận thức của nhân loại.
b.Th ực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông
qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó
được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có
căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay

không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người
cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng
minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn
tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới
có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
c.Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công
bằng, bình đẳng, tién bộ.
Vò Ngäc Khoa
8
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể
muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh
doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải
pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành
tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những
vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục
tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác
lý luận nói riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú
hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.

III. M ỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Lý luận
a. Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh
những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội
nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý
luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ
chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và
cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Vò Ngäc Khoa
9
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn.
Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển
xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực
tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu
cầu của thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô
sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được
hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do
yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không
thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức

đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới
có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là
thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến
bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng
cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những
nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu
thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường
lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
* Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý
luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Vò Ngäc Khoa
10
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC -
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của
con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra
khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt
nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt
được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận
thức... để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với

nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động.
Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống
xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung
quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết
sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một
lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi
mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau,
tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận
vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính
là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh
sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách
mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý
Vò Ngäc Khoa
11

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×