Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TẠI NHNT HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.19 KB, 20 trang )

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TẠI NHNT HÀ NỘI
3.1. Định hướng hoạt động kinh doanh của VCB Hà Nội
trong thời gian tới
3.1.1. Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch năm 2008
Về nguồn vốn, chi nhánh tiếp tục phát huy các thế mạnh về công nghệ
và uy tín thương hiệu của một ngân hàng đối ngoại trên địa bản, đồng thời
kết hợp với đa dạng hóa các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kỳ
phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp
nhiều tiện ích, mở rộng mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất
linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn… để cung
cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến
khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng huy động
vốn từ khách hàng từ 26% năm 2006, 36% năm 2007 lên 40% năm 2008.
Với việc mở thêm các địa điểm giao dịch và giao dịch tại trụ sở mới
344 Bà Triệu, dự kiến cuối năm 2008 tổng nguồn vốn của Chi nhánh
Vietcombank Hà Nội tăng 15% so với năm 2007, trong đó nguồn vốn huy
động từ dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 7.500 tỷ đồng, tăng 19% so với
năm 2007. Tính trung bình trong giai đoạn 2005-2010 tốc độ tăng trưởng
huy động vốn của Chi nhánh dự kiến khoảng 16,4% do sự phát triển không
ngừng của các tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức kinh tế trên địa
bàn như hiện nay làm gia tăng các loại hình đầu tư cạnh tranh với hoạt
động gửi tiền của Ngân hàng. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp về nghiệp vụ,
Chi nhánh đã và sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng
cao chất lượng dịch vụ và văn minh trong giao tiếp, từng bước áp dụng mô
hình quản lý và tổ chức giao dịch trong khối Ngân hàng bán lẻ theo chuẩn
mực của một ngân hàng thương mại hiện đại.
Về hoạt động cho vay, kế hoạch đến cuối năm 2008, Chi nhánh sẽ đạt
mức dư nợ tín dụng tăng 20% so với năm 2007. Khống chế tỷ lệ nợ quá
hạn dưới mức 2%, giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Tăng dần tỷ trọng
cho vay trung dài hạn đầu tư tài sản cố định trong cơ cấu tín dụng của Chi


nhánh, kế hoạch năm 2008 đạt 28% tổng dư nợ.
Về phát triển mạng lưới, thực hiện theo chỉ đạo của Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam, dự kiến năm 2008, Chi nhánh sẽ tiến hành mở mới 04
phòng giao dịch, đưa sản phẩm dịch vụ và các tiện ích của Vietcombank tới
gần hơn với khách hàng.
Bên cạnh đó, chi nhánh tăng cường việc đào tạo và bổ sung cán bộ
nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô hoạt động và đặc biệt là cổ phần
hóa Vietcombank. Nâng cao chất lượng hoạt động, nâng cao vị thế của
Vietcombank Hà Nội trong giai đoạn mới – giai đoạn cổ phần hóa.
3.1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển đến năm 2010
Ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ nhân viên tại ngân hàng Ngoại
thương đã đề ra các mục tiêu và định hướng phát triển đến năm 2010 như
sau:
• Đạt các chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế về ngân hàng (BIS), nâng chỉ
số an toàn vốn (CAR) theo tiêu chuẩn quốc tế.
• Nâng cao năng lực quản lý điều hành với mục tiêu đáp ứng mọi nhu
cầu của khách hàng. Tạo ra các sản phẩm hiện đại phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế.
• Phát triển mở rộng mạng lưới gắn liền với các sản phẩm mới trên
nền tảng công nghệ hiện đại.
• Giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, phấn đấu
trở thành Ngân hàng lớn trong khu vực.
• Đẩy mạnh thể chế hóa, hoàn thiện và đưa vào ứng dụng mô hình tổ
chức hiện đại, kiện toàn quy chế và quy trình hóa các nghiệp vụ hoạt động
của Ngân hàng.
• Cùng với hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trở thành
một tập đoàn tài chính đa năng có quy mô lớn ở Châu Á vào giai đoạn
2015-2020, có phạm vi hoạt động không những trong nước mà cả tại các
thị trường tài chính lớn trên thế giới.
Định hướng phát triển đến năm 2010:

• Không ngừng tăng trưởng về nguồn vốn, mở rộng và nâng cao chất
lượng tín dụng, áp dụng nhiều giải pháp để kinh doanh hiệu quả với mục
tiêu tăng lợi nhuận.
• Đi đầu ứng dụng và phát triển công nghệ trong quản lý và kinh
doanh. Dần từng bước vi lượng hóa và nâng cao chất lượng trong dịch vụ
ngân hàng.
• Triển khai áp dụng mô thức quản trị mới trong ngân hàng theo tiêu
chuẩn quốc tế, chuẩn mực hóa quy trình và không gian giao dịch, phát triển
mạng lưới hoạt động trên địa bàn Hà Nội, mở rộng cả hoạt động ngân hàng
bán buôn và bán lẻ.
• Phát huy vai trò chủ đạo trên thị trường liên ngân hàng và hoạt động
kinh doanh ngoại tệ.
• Xây dựng lộ trình, chuẩn bị các bước đi thích hợp nhằm thực hiện
thắng lợi chủ trương cổ phần hóa theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN
với mục tiêu nâng cao năng lực quản trị điều hành và năng lực tài chính
của NHNT trong những năm tới.
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại Ngân
hàng Ngoại Thương Hà Nội.
Tổ tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ (gọi tắt là SME) được thành
lập ngày 28/01/2008 tại phòng Quan hệ khách hàng NHNT Hà Nội. Do đó,
các giải pháp đưa ra nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như năng lực
cho vay đối với DNVVN tại NHNT Hà Nội trong những ngày mới ra đời.
Trước hết, Tổ tín dụng SME phải phân loại đâu là doanh nghiệp vừa
và nhỏ, dựa trên 2 tiêu chí chính là các doanh nghiệp có số vốn dưới 10 tỷ
đồng hoặc có số nhân công nhỏ hơn 300 người. Sau đó, các cán bộ tín
dụng mới tiến hành các bước trong quy trình cho vay, thẩm định phương
án xin vay vốn, yêu cầu tài sản đảm bảo, trích lập dự phòng rủi ro, giải
ngân....
Trong các bước đó, việc đầu tiên cần làm trước mắt là cải tiến Quy
trình cho vay.

Việc thực hiện hoạt động cho vay theo một quy trình cho vay chung
do NHNT Việt Nam xây dựng ở NHNT Hà Nội đã tạo ra không ít khó
khăn bất cập cho Ngân hàng, làm cho hoạt động cho vay của chi nhánh trở
nên cứng nhắc, bỏ qua nhiều cơ hội cho vay. Đặc biệt quy trình cho vay
chung này mới được xây dựng và áp dụng thí điểm tại ngân hàng. Quy
trình mới này đã bộc lộ những nhược điểm mà bản chất khi áp dụng một
quy trình mới tất yếu phải có. Vấn đề đặt ra cho NHNT Hà Nội trong
những năm tới là phải khắc phục, sửa chữa những hạn chế đó, tổ chức lại
hệ thống, xây dựng chính sách cho vay phù hợp hơn với quy trình mới. Cụ
thể:
Thứ nhất: Phân tích, đánh giá chính xác tình hình sản xuất kinh
doanh của khách hàng vay vốn.
Thực tế hiện nay nhiều doanh nghiệp để đạt được mục đích vay vốn
đã khai báo không đúng sự thực về tình hình sản xuất kinh doanh của
mình. Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới
thành lập nên chưa có báo cáo kết quả kinh doanh trong 3 năm liên tiếp
hoặc do mới thành lập thời kỳ đầu nên chưa tạo ra nhiều lợi nhuận mặc dù
doanh nghiệp có nhiều tiềm năng. Điều này làm cho các cán bộ tín dụng tại
NHNT Hà Nội rất khó nắm bắt chính xác tình hình thực tế của doanh
nghiệp, dẫn đến những quyết định sai khi cho vay và xếp hạng doanh
nghiệp, gặp nhiều rủi ro khi cho khách hàng vay vốn. Vì vậy giải pháp đặt
ra cho các cán bộ tín dụng tại NHNT Hà Nội là phải tìm hiểu thông tin từ
nhiều phía khác nhau về khách hàng để từ đó ra quyết định cho vay hay
không.
Việc phân tích đánh giá khách hàng dựa trên những tiêu chí như
năng lực tài chính của doanh nghiệp, khả năng quản lý điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh
trong ba năm gần nhất và xu hướng phát triển của doanh nghiệp cũng như
của ngành mà doanh nghiệp hoạt động trong thời gian tới. Những yếu tố
này sẽ quyết định đến hiệu quả của việc sử dụng vốn vay của khách hàng,

quyết định đến khả năng trả nợ của khách hàng. Do đó, ngân hàng phải
biết rõ những đặc điểm đó của khách hàng để tránh hiện tượng “lựa chọn
đối nghịch” xảy ra. Nghĩa là ngân hàng cho vay các doanh nghiệp không
có khả năng trả nợ và từ chối các doanh nghiệp có tiềm năng nhưng do sơ
xuất tại một khâu nào đó trong quá trình vay vốn nên không được ngân
hàng chấp thuận.
Thứ hai, ngân hàng phải nâng cao công tác thẩm định dự án.
Trong hoạt động cho vay, khâu thẩm định là khâu quan trọng nhất,
được thực hiện xuyên suốt trong quá trình cho vay. Tuy nhiên trên thực tế
khâu thẩm định tại NHNT Hà Nội chưa thực sự phát huy hiệu quả làm cho
tính an toàn và hiệu quả của khoản vay giảm xuống. Số liệu các năm 2005
và 2006 đã chỉ ra rằng nợ quá hạn luôn ở mức cao (năm 2005 là 2,74%,
năm 2006 là 2,46%). Nợ quá hạn luôn tồn đọng tại các công ty cầu đường
và giao thông do đơn vị chuyên chậm trả lãi và gốc nên bị chuyển sang
quá hạn. Sang đến năm 2007 do đã tách 4 chi nhánh cấp 2 và thành lập Tổ
xử lý nợ xấu nên tỷ lệ nợ quá hạn năm 2007 đã giảm xuống còn 0,78% tuy
nhiên việc nâng cao công tác thẩm định luôn phải được đặt lên hàng đầu.
Công việc cấp thiết mà các cán bộ tín dụng tại NHNT Hà Nội cần thực
hiện là tăng cường và nâng cao hiệu quả thẩm định các dự án vay vốn của
doanh nghiệp, phân tích hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp và
khả năng sinh lời của dự án để có thể ra quyết định cho vay hoặc từ chối
các dự án không khả thi, giảm thiểu rủi ro cho khách hàng và ngân hàng,
tăng cường khả năng kiểm soát đối với hoạt động sử dụng vốn vay của
khách hàng.
Để đạt được các mục tiêu trên Ngân hàng phải thực hiện tốt việc
ngân cao chất lượng thu thập thông tin khách hàng và nâng cao việc xử lý
thông tin khách hàng.
• Nâng cao chất lượng thu thập thông tin khách hàng:
Để thẩm định và phân tích các khoản vay, các cán bộ tín dụng phải
thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, từ việc kiểm tra đặc điểm mọi

mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn đến các báo
cáo tài chính của họ.
Thu thập thông tin từ hồ sơ của Ngân hàng về quan hệ cho vay trước
đây của khách hàng với Ngân hàng như việc xin vay và tình hình thu nợ
của khoản vay trước đây, doanh số hoạt động, số dư tài khoản tiền gửi
thanh toán.
Thu thập thông tin từ bên ngoài: Hầu hết các ngân hàng đều không
chú ý đúng mức đến nguồn thông tin này, song nó rất có ích cho cán bộ tín
dụng khi đưa ra quyết định cho vay đối với khách hàng mới. Trung tâm
thông tin của Ngân hàng Nhà nước có thể cung cấp những thông tin cần
thiết như doanh nghiệp trước đây đã vay vốn ở Ngân hàng nào và hiệu quả
món vay, tình hình trả nợ món vay đó ra sao...
Điều tra thông tin qua các cơ quan tài chính, thuế, quản lý thị
trường, cơ quan cảnh sát kinh tế, thông tin từ người cung cấp và khách
hàng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có thể phối hợp
điều tra trực tiếp với những ngân hàng đã có quan hệ cho vay với khách
hàng. Thông tin về ngành kinh doanh, thế mạnh của ngành nghề hoạt động
kinh doanh và xu hướng phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên những
thông tin này thường không cập nhật do quá trình thu thập mất thời gian và
không theo kịp sự thay đổi của doanh nghiệp. Vì vậy ngân hàng phải chú
trọng xử lý nguồn thông tin này để đánh giá đúng mức thực trạng của
khách hàng vay vốn.
Thu thập từ nguồn thông tin trực tiếp nới hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng có thể trực tiếp thị sát nơi hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó hiểu được mức độ
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như trình độ quản lý của họ.
Đặc biệt cán bộ tín dụng cần lưu ý về hệ thống tổ chức, tính hữu hiệu trong
hoạt động và lao động của đội ngũ cán bộ làm công. Vẻ gọn gàng, trang
thiết bị máy móc đầy đủ, tác phong nhanh nhẹn, phong cách làm việc
chuyên nghiệp, lịch sự là dấu hiệu lành mạnh của doanh nghiệp. Sự bận

rộn hay rảnh rỗi của đội ngũ công nhân, sản xuất đình trệ hay phát triển,
tình hình hàng tồn kho và chất lượng hàng hóa cũng là những thông tin rất
cần thiết để đánh giá doanh nghiệp.
Thông tin từ báo cáo tài chính: Khách hàng muốn vay vốn phải cung
cấp thông tin báo cáo tài chính thường xuyên cho ngân hàng. Báo cáo tài
chính phản ánh khả năng sinh lời, nhu cầu vốn xin vay và khả năng trả nợ
của doanh nghiệp. Tuy nhiên chất lượng của các báo cáo tài chính thường
không đảm bảo vì vậy cán bộ tín dụng cần cân nhắc và xem xét kỹ lưỡng
các nguồn thông tin từ báo cáo tài chính.
Ngoài ra bằng kinh nghiệm của bản thân cán bộ tín dụng và điều
kiện thực tế, NHNT Hà Nội cần xây dựng cho mình một hệ thống thông tin
cần thiết về giá cả, sản phẩm thị trường trong nước và quốc tế, cập nhật các
tiêu chuẩn về chi tiêu hiệu quả tài chính, an toàn tài chính để cán bộ tín
dụng có cơ sở so sánh khi tiến hành thẩm định.
• Nâng cao chất lượng xử lý thông tin:
Sau khi thu thập được thông tin đầy đủ về khách hàng, cán bộ tín
dụng phải tiến hành xử lý những thông tin hỗn hợp đó. Nếu chủ quan,
không có phương pháp xử lý, cán bộ tín dụng có thể đưa ra những kết luận
sai lầm hoặc bỏ lỡ những món cho vay có hiệu quả, tiến hành cho vay

×