Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Một số vấn đề lý luận chung về rủi ro và phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.47 KB, 28 trang )

Một số vấn đề lý luận chung về rủi ro và phòng ngừa,
hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các Ngân
hàng thơng mại
___________
1.1- Rủi ro tín dụng, sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro
tín dụng của Ngân hàng thơng mại trong nền kinh tế thị trờng:
1.1.1- Sự ra đời của Ngân hàng thơng mại ở Việt Nam:
Việt Nam là một nớc nông nghiệp lạc hậu, thơng mại kém phát triển nên
đến mãi thế kỷ XIX mới xuất hiện Ngân hàng đầu tiên: Ngân hàng Đông Dơng
của Pháp, Ngân hàng này hoạt động phục vụ cho ý đồ thống trị của Thực dân
Pháp ở Đông Dơng. Tên gọi có thay đổi nhng chức năng vẫn là quản lý Nhà nớc
về tiền tệ - tín dụng ngân hàng, chịu trách nhiệm phát hành tiền quốc gia và các
nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng.
Đến tháng 5 năm 1951 Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh thành lập Ngân hàng quốc
gia Việt Nam.
Thực hiện đờng lối đổi mới toàn diện của Đảng, ngành Ngân hàng đã đi
đầu trong sự nghiệp vĩ đại này. Đánh dấu sự đổi mới của Ngân hàng là sự ra đời
Nghị định 53 của HĐBT, tháng 7/1988 chuyển hệ thống Ngân hàng từ hệ thống
một cấp thành hệ thống Ngân hàng hai cấp. Trong đó Ngân hàng Nhà nớc làm
nhiệm vụ quản lý và các Ngân hàng chuyên doanh thực hiện kinh doanh tiền tệ,
tín dụng và Ngân hàng.
Tuy nhiên cho đến năm 1990 khi hai sắc lệnh Ngân hàng ra đời thì sự
nghiệp đổi mới Ngân hàng thực sự đi vào chiều sâu, chức năng quản lý nhà nớc
của Ngân hàng nhà nớc và chức năng kinh doanh của Ngân hàng thơng mại thực
sự đợc quy định rõ ràng. Ngân hàng Nhà nớc cấp chỉ đạo quản lý trên bình diện cả
nớc về tín dụng, thanh toán Ngân hàng cả về đối nội và đối ngoại, Ngân hàng Th-
ơng mại là cấp trực tiếp làm nghĩa vụ giao dịch đối với các doanh nghiệp và tổ
chức kinh tế để làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ.
Ngân hàng thơng mại là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thờng xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và


làm phơng tiện thanh toán.
1.1.2 - Ngân hàng - một trung gian tài chính:
Để hiểu đợc chức năng đặc biệt của Ngân hàng trong nền kinh tế, chúng ta
hãy hình dung một thế giới giản đơn trong đó không có tồn tại hoạt động của hệ
thống Ngân hàng. Trong một thế giới nh vậy, những khoản tiền tiết kiệm của dân
chúng chỉ có thể đợc sử dụng hoặc là dới dạng tiền mặt; hoặc là dới dạng đầu t
chứng khoán vào các công ty. Nói một cách khái quát, các công ty phát hành
chứng khoán để đầu t vào tài sản thực: nh nhà xởng, máy móc, nguyên liệu v.v...
Trong một thế giới không có Ngân hàng thì quy mô các nguồn vốn từ
những ngời tiết kiệm chuyển đến các công ty nhìn chung là rất thấp. Lý do có thể
nêu ra nh sau:
- Chi phí để giám sát trực tiếp hoạt động của công ty là rất tốn kém. Khi
dân chúng mua chứng khoán của công ty, họ phải giám sát đợc mọi hoạt động
kinh doanh của công ty và họ phải đợc đảm bảo rằng tình trạng tài chính của công
ty là lành mạnh và công ty không che dấu và lãng phí tiền vốn trong bất kỳ dự án
đầu t nào. Để có thể giám sát đợc hoạt động của công ty, những ngời đầu t chứng
khoán phải dành nhiều thời gian và tiền bạc vào việc thu nhập, phân tích và xử lý
thông tin về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của công ty. Với những
yêu cầu phải giám sát hoạt động của công ty nh vậy thì quả là tốn kém đối với
những ngời đầu t chứng khoán vào công ty. Do đó, họ muốn uỷ quyền việc giám
sát cho những ngời khác. Và nh vậy, họ đã một phần hay hoàn toàn từ bỏ việc
giám sát trực tiếp hoạt động của công ty nên việc nắm giữ cổ phiếu và trái phiếu
công ty trở nên kém hấp dẫn và chứa đựng tiềm ẩn rủi ro rất cao, điều này làm
giảm động lực của dân chúng mua chứng khoán của các công ty. Trong thực tế, lo
lắng của những ngời nắm giữa trái phiếu giải toả một phần bằng các điều khoản
chặt chẽ đợc quy định phát hành trái phiếu. Những điều khoản này đã hạn chế
công ty phát hành chứng khoán đối với các dự án chứa đựng tiềm ẩn rủi ro cao.
Tuy nhiên, chi phí để giám sát việc thực thi các điều khoản này là rất tốn kém, đặc
biệt là đối với các chứng khoán dài hạn và các chứng khoán xuất hiện lần đầu
hoặc cha quen thuộc

- Với đặc tính dài hạn của cổ phiếu và trái phiếu là nguyên nhân thứ hai
làm nản lòng ngời tiết kiệm mua chứng khoán của công ty. Điều này có thể khiến
cho ngời tiết kiệm u tiên nắm giữ tiền mặt nhằm mục đích thanh khoản hơn là đầu
t vào các chứng khoán dài hạn nhất là khi họ có kế hoạch sử dụng khoản tiết kiệm
vào chi tiêu trong thời gian ngắn.
- Lý do cuối cùng đó là mặc dù trong thực tế, các chứng khoán cha mua
bán trên thị trờng thứ cấp tạo ra một độ thanh khoản nhất định cho tài sản, những
nhà đầu t thờng phải chịu rủi ro biến động giá cả của chứng khoán (nhất là cổ
phiếu) và phải chịu các chi phí chuyển nhợng có liên quan. Điều này dẫn đến thu
nhập thực tế từ việc chuyển nhợng chứng khoán trên thị trờng thứ cấp giảm đáng
kể và trong một số trờng hợp thu nhập còn thấp hơn giá mua chứng khoán ban
đầu.
Tóm lại: Những nguyên nhân chính làm cho quy mô các nguồn từ những
ngời đầu t tiết kiệm trực tiếp vào chứng khoán các công ty thấp là do: chi phí để
giám sát hoạt động của công ty là lớn; chi phí chuyển nhợng (thanh khoản) các
chứng khoán công ty rất cao và rủi ro biến động chứng khoán trên thị trờng.
Trong một thế giới mà hệ thống Ngân hàng không tồn tại, thì những
nguyên nhân nêu trên làm cho dân chúng giảm động lực tiết kiệm, tăng chi tiêu
hoặc tiết kiệm ở dạng tiền mặt. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thế giới
mà ở đó hệ thống Ngân hàng phát triển mạnh mẽ và đợc coi nh bộ xơng sống của
nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng cung cấp một kênh dẫn vốn gián tiếp từ những
ngời có nhu cầu đầu t đến các công ty. Do tồn tại các nguyên nhân nh nêu trên
cho nên ngời tiết kiệm thờng u tiên gửi tiền vào Ngân hàng hơn là đầu t trực tiếp
vào các công ty.
1.1.3 - Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trờng:
Sự ra đời và phát triển của tín dụng ngân hàng:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khởi đầu cho cuộc sống đổi mới nền
kinh tế đất nớc chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trờng để xây dựng một nền kinh tế

hàng hoá thực sự đòi hỏi các mục tiêu của Chính phủ trong đó phát triển kinh tế là
mục tiêu quan trọng. Bản thân các doanh nghiệp cần vốn để phát triển mở rộng
sản xuất đổi mới công nghệ do đó nhu cầu về vốn đối với chúng ta là rất lớn, nhất
là khi nhà nớc cho phép các nhà kinh doanh đợc tự do đầu t sản xuất trong khuôn
khổ pháp luật dới các hình thức tổ chức kinh tế đa thành phần. Ngoài ra còn có
các tổ chức kinh tế t nhân và hộ gia đình với các hình thức kinh doanh đa dạng và
họ cũng cần phải có vốn đầu t. Nh vậy vấn đề đặt ra là việc cung ứng vốn cho các
nhà đầu t trong nền kinh tế nh thế nào? Điều đó có thể thực hiện đợc bằng nhiều
cách khác nhau thông qua nhiều nguồn nh vốn ngân sách, vốn bản thân các đơn vị
kinh tế, vốn tín dụng, vốn đầu t trực tiếp từ nớc ngoài... Đặc biệt trong đó vốn tín
dụng của các Ngân hàng thơng mại có vai trò quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng
khá lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp và các hộ kinh tế
gia đình.
Ngân hàng thơng mại là một trung gian tài chính hoạt động trong nền kinh
tế đóng vai trò quan trọng trong việc khơi thông nguồn vốn t những ngời tiết kiệm
những ngời có ý muốn dùng nó và có cơ hội đầu t để sinh lợi. Theo cách này các
Ngân hàng thơng mại đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách năng động và
có hiệu quả hơn. Trong những năm qua bằng các hoạt động của mình hệ thống
Ngân hàng nói chung và các Ngân hàng thơng mại nói riêng đã góp phần tích cực
vào việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, xây dựng và từng bớc hoàn thiện
nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam nh: Tạo nền kinh tế phát triển ổn định với mức
tăng trởng cao (đạt ở mức tăng trởng trên dới 9% liên tục trong một số năm gần đây),
kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định tiền tệ...
Nh vậy, ta thấy các Ngân hàng thơng mại giữ một vai trò hết sức quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó đảm bảo cho qúa trình tái sản
xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ở các doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy tăng tr-
ởng kinh tế, tăng nhanh tốc độ luôn chuyển hàng hoá, tốc độ luôn chuyển tiền tệ
trong nền kinh tế. Ngân hàng có đợc những đóng góp là nhờ ở hoạt động nghiệp
vụ của nó đặc biệt trong đó có hoạt động nghiệp vụ tín dụng.
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tín dụng nh chúng đều có những

nội dung và ý nghĩa tơng đơng nhau. Chúng ta có thể hiểu một cách khái quát
rằng. Tín dụng là sự chuyển nhợng tạm thời một lợng giá trị từ ngời sở hữu sang
ngời sử dụng và sau một thời gian nhất định quay về ngời sở hữu với lợng giá trị
lớn hơn.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài ngời, tín dụng đã ra đời và tồn tại
cùng với sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá. Nó là phạm trù kinh tế đồng
thời là phạm trù lịch sử gắn liền với mỗi phơng thức sản xuất, nhng dù ở phơng
thức sản xuất nào: T bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa thì tín dụng ngân hàng
cũng là t i sản quan trọng không chỉ đối với hoạt động của bản thân Ngân hàng
mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trờng.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần nh ở nớc ta hiện nay, tín dụng Ngân
hàng không chỉ là "cầu nối" giữa những nơi thừa vốn và nơi thiếu vốn. Bằng việc
huy động và cho vay, tín dụng ngân hàng đã điều hoà linh hoạt vốn giữa các đơn
vị, các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có hình thức sở hữu khác nhau.
Thông thờng nhà nớc sử dụng nguồn thu ngân sách để cấp cho các tổ chức kinh tế
thuộc quyền sở hữu nhà nớc mà không cấp cho các tổ chức kinh tế ngoài quốc
doanh. Do vậy không thể thông qua ngân sách để điều hoà vốn thuộc các quyền
sở hữu khác ấy với nhau. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể tận dụng đợc mọi
nguồn vốn tạm thời cha sử dụng phục vụ cho mối quan hệ qua lại không thể thiếu
đợc giữa kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác mà
không xâm phạm đến quyền sở hữu vốn đó. Sự gắn bó tất yếu trên phạm trù tín
dụng với quyền sở hữu khác nhau về vốn càng khẳng định việc điều hoà vốn giữa
các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần sở hữu khác nhau thông qua phạm trù
tín dụng là cần thiết.
Thực hiện việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng đã
tạo điều kiện tiến hành bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành sản xuất
vật chất. Thực hiện điều hoà vốn tín dụng ngân hàng đã chuyển dịch t bản từ các
ngành sản xuất có lợi nhuận thấp sang các ngành sản xuất cho lợi nhuận cao hơn.
Đó cũng là sự đáp ứng đòi hỏi mang tính chất khách quan của các nhà t bản trong

nền sản xuất hàng hoá bởi họ luôn mong muốn tìm kiếm lĩnh vực đầu t có lợi nhất
mà khả năng về vốn của bản thân không cho phép nhà t bản có thể ngay lập tức
đầu t vào lĩnh vực sản xuất mà họ mong muốn. Thông qua việc tài trợ vốn, tín
dụng ngân hàng đã góp phần tích cực định hớng giúp đỡ khách hàng tìm ra lĩnh
vực đầu t cần thiết và có lợi.
Trong nền kinh tế hiện nay, quá trình sản xuất và kinh doanh của các doanh
nghiệp có quan hệ gắn bó và liên quan mật thiết lẫn nhau. Điều đó đợc phản ánh
trong mối quan hệ trực tiếp thờng xuyên giữa tín dụng ngân hàng với các hoạt
động của mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức cũng nh toàn bộ nền kinh tế. Mối quan
hệ đó đủ điều kiện cho tín dụng ngân hàng có khả năng kiểm soát đợc mọi giao
dịch bằng tiền của các doanh nghiệp, giúp cho Ngân hàng có thể xem xét đến quá
trình sử dụng vốn vay của khách hàng để từ đó đa ra quyết định đúng đắn trong
cho vay, thu nợ. Thông qua kiểm soát bằng tín dụng ngân hàng có thể giúp đỡ
khách hàng tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục khó khăn. Ngoài ra, thực
hiện chức năng kiểm soát bằng đồng tiền các mặt hoạt động kinh tế của nền kinh
tế quốc dân, tín dụng ngân hàng đã góp phần quan trọng trong việc củng cố thực
hiện chế độ hạch toán kinh tế từ đó nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong
việc sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm nguồn vốn.
Việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ đã tạo điều kiện cho Ngân hàng
phát huy vai trò của mình trong việc tổ chức điều hoà lu thông tiền tệ, ổn định sức
mua của đồng tiền. Trên cơ sở tuân theo quy luật lu thông tiền tệ trong quá trình
cân đối nguồn vốn tín dụng ngắn hạn với nhu cầu cho vay, Ngân hàng thực hiện
việc phát hành tiền vào lu thông. Việc tăng giảm lợng tiền trong lu thông, việc mở
rộng thanh toán không dùng tiền mặt hông qua hoạt động nghiệp vụ tín dụng có
tác dụng tích cực trong việc điều hoà lu thông tiền mặt. Tín dụng ngân hàng phát
triển tạo điều kiện tăng tốc độ lu thông tiền tệ thông qua việc thu hút tiền nhàn rỗi
vào Ngân hàng và chuyển vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh góp phần giảm lợng
tiền mặt trong lu thông cùng các chi phí khác (chi phí vận chuyển, in ấn, đếm,
đóng gói, bảo quản... tiền mặt).
Có thể nói tín dụng ngân hàng là dòn bẩy kinh tế phục vụ cho quá trình sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng lớn, nó đóng vai trò quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng /nh toàn bộ nền kinh tế.
Cùng với ngân sách Nh n ớc, tín dụng ngân hàng là nguồn hỗ trợ vốn chủ yếu
cho việc hình thành lên vốn cố định và vốn lu động của các doanh nghiệp, đảm
bảo thoả mãn nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh một cách hợp lý và linh
hoạt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,
tăng cờng cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công
nghệ... Nh vậy, tín dụng ngân hàng thực sự là nhân tố không thể thiếu đợc trong
quá trình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế.
1.1.4 - Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thơng mại:
Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân c:
Đây là nhiệm vụ đặc trng của Ngân hàng thơng mại đồng thời là nghiệp vụ
có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tăng trởng và phát triển của Ngân hàng.
Ngân hàng thơng mại có thể huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân c
và các tổ chức kinh tế bằng nhiều hình thức, thời gian và lãi suất khác nhau đó là:
- Huy động vốn của các tổ chức kinh tế.
- Huy động tiền gửi tiết kiệm.
- Huy động tiền gửi kỳ phiếu, trái phiếu.
Ngoài các hình thức huy động trên, các Ngân hàng thơng mại còn có thể
vay vốn của Ngân hàng Trung ơng và các tổ chức tín dụng khác khi có nhu cầu.
Nghiệp vụ tín dụng:
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận nhất
cho Ngân hàng thơng mại và cũng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thơng
mại. Chính vì vậy hoạt động này mang ý nghĩa quyết định đối với Ngân hàng th-
ơng mại. Tín dụng là một nghiệp vụ trong đó một thể nhân hay một pháp nhân
(gọi là ngời cho vay). Để một ngời khác (gọi là ngời đi vay) sử dụng một số tiền,
với cam kết hoàn trả gốc và lãi đúng hạn đã cam kết xong hoạt động tín dụng.
Nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng:
Đây là nghiệp vụ của Ngân hàng thơng mại xuất phát từ việc Ngân hàng
mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng, qua đó khách hàng uỷ quyền

cho khách hàng chi trả, thu nợ các khoản tiền phát sinh trong hoạt động của mình.
Hoạt động của thị trờng ngoại tệ:
Các Ngân hàng thơng mại có quy mô lớn có nhiều khách hàng tham gia
hoạt động xuất nhập khẩu thờng có thu chi ngoại tệ lớn hay nh Ngân hàng chuyên
trách trong việc cung cấp vốn trong hoạt động kinh tế đối ngoại là bộ phận quan
trọng trên thị trờng hối đoái. Các Ngân hàng này làm trung gian cho khách hàng
của họ.
Các Ngân hàng này tham gia vào thị trờng ngoại tệ nhằm mục đích:
- Cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng của mình.
- Kinh doanh ngoại tệ.
- Quản lý nguồn ngoại tệ
- Thực hiện chính sách khuyếch trơng và cạnh tranh các Ngân hàng khác.
Tham gia hoạt động trên thị trờng chứng khoán.
Ngân hàng tham gia vào thị trờng chứng khoán với t cách:
- Là ngời phát hành chứng khoán để tăng cung
- Là ngời mua bán chứng khoán.
- Là ngời môi giới chứng khoán
- Là ngời bảo lãnh cho các chủ đầu t phát hành chứng khoán
Thực hiện các dịch vụ đối với khách hàng:
Ngày nay hoạt động dịch vụ của Ngân hàng thơng mại thờng đem lại những
khoản lợi nhuận lớn. Các Ngân hàng thơng mại ngày càng đa dạng hoá các dịch
vụ của mình để không ngừng tìm kiếm lợi nhuận từ phía khách hàng.
Các dịch vụ cung cấp cho khách hàng nh: Uỷ thác, bảo quản các chứng từ
có giá, cung cấp t vấn thông tin về kinh tế, chuyển tiền cho khách hàng... Ngày
nay đang đợc mở rộng và phát triển.
Có thể tóm tắt các hoạt động của Ngân hàng thơng mại về các nghiệp vụ
nh sơ đồ sau:
Tóm lại: Hoạt động của Ngân hàng thơng mại đã và đang đóng vai trò hết
sức quan trọng. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Ngày nay cùng với
sự phát triển của xã hội, các hoạt động của Ngân hàng thơng mại càng đa dạng và

phong phú. Tuy nhiên các hoạt động của Ngân hàng thơng mại càng mở rộng và
Nghiệp vụ thanh toán
cho khách hàng
Cho vay sản
xuất
Nghiệp
vụ tín
dụng
Cho vay
tiêu dùng
Nghiệp vụ thanh toán
cho khách hàng
Nghiệp vụ thanh toán
cho khách hàng
Tham
gia thị
trờng
ngoại
hối
Nghiệp vụ của
ngân hàng th-
ơng mại
Tham gia
cung cấp
ngoại tệ
KD ngoại
hối
Tham gia thị trờng
chứng khoán
Tham gia thị trờng

chứng khoán
Tín dụng
thuê mợn
phát triển bao nhiêu thì nguy cơ rủi ro càng lớn bấy nhiêu. Rủi ro luôn đi kèm và
tỷ lệ thuận với lợi nhuận. Chính vì vậy việc nghiên cứu để hạn chế và phòng ngừa
các rủi ro nhằm bảo toàn vốn cho các Ngân hàng thơng mại là điều hết sức quan
trọng.
1.2 - Rủi ro, tác hại của rủi ro và sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thơng mại:
1.2.1 - Khái niệm và phân loại rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thơng mại:
1.2.1.1 - Khái niệm rủi ro, sự tồn tại khách quan của rủi ro trong kinh
doanh của Ngân hàng thơng mại:
Trong cơ chế thị trờng, mỗi chủ thể kinh tế vừa phải theo đúng pháp luật,
chịu sự điều tiết vĩ mô qua các chủ trơng chính sách của nhà nớc, vừa hoạt động
theo nguyên tắc của riêng mình. Điều đó có nghĩa là các nhà kinh doanh phải có
chính sách biện pháp hay các "thủ đoạn" các mẹo trong kinh doanh để tôi đa hoá
lợi nhuận đó là mục tiêu chủ yếu của các doanh nghiệp. Tất cả các nhà kinh doanh
đều biết rằng: Kinh doanh là có rủi ro, rủi ro và kinh doanh là ngời bạn song hành.
Ngành kinh doanh nào có lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Thị trờng Ngân
hàng kinh doanh là thị trờng có nhiều rủi ro nhất. Vấn đề là chúng đợc giải quyết
bằng các cách khác nhau. Chúng ta không bao giờ tìm ra phơng án thực hiện các
nghiệp vụ trong lĩnh vực Ngân hàng có thể hoàn toàn loại trừ rủi ro và có thể đảm
bảo trớc những kết quả tài chính nhất định, chúng ta chỉ có thể lờng trớc và hạ
thấp rủi ro đến mức thấp nhất bằng các biện pháp phòng ngừa và hạn chế.
Vậy rủi ro là gì?
Có nhiều các định nghĩa khác nhau:
Theo từ điển Tiếng Việt: Rủi ro là điều không may ngẫu nhiên xẩy đến.
Theo Franhkaight - học giả Mỹ (1921): Rủi ro là sự bất trắc có thể lờng trớc đợc.
Theo Allanwillen - Học giả Italia (1951): Rủi ro là sự bất trắc cụ thể, có thể
liên quan đến sự xuất hiện một biến cố không mong đợi.

Theo Mark - Hurt - Mecarly - Học giả Anh (1986): Rủi ro là một tình trạng
trong đó các biến cố xẩy ra trong tơng lai có thể xác định đợc.
Tuy có nhiều các định nghĩa khác nhau, song chúng đều khẳng định đợc
rằng, rủi ro là những sự kiện diễn ra ngoài ý muốn của con ngời, nó thờng đem
đến những hậu quả xấu. Rủi ro xuất hiện bất cứ lúc nào, bất cứ lĩnh vực nào của
đời sống kinh tế xã hội. Trong hoạt động Ngân hàng rủi ro là mối đe doạ tổn thất
một phần nguồn vốn của mình, không đạt đợc các khoản thu nhập hay đòi hỏi các
khoản chi phí bổ sung để thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhất định. Rủi ro còn
là những thiệt hại xẩy ra gắn liền với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thơng
mại.
Tất cả các nhà khoa học nghiên cứu về rủi ro đều thừa nhận: Không một
ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại nhiều nh kinh doanh tín
dụng. Chính vì vậy, mà các Ngân hàng thơng mại đặc biệt cần phải quan tâm
nghiên cứu, nhận biết, phân biệt rủi ro để hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất.
1.2.1.2 - Phân loại rủi ro:
Rủi ro luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cho nên có
ngời đã gọi nghề Ngân hàng là nghề kinh doanh rủi ro và mạo hiểm. Ngời ta cũng
khẳng định rằng hơn mọi doanh nghiệp khác, Ngân hàng phải đối phó với nhiều
loại rủi ro từ nhiều phía.
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro thiếu vốn khả dụng.
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro hối đoái
- Rủi ro tín dụng quốc tế và ngoại thơng.
- Rủi ro mất khả năng thanh toán
Rủi ro tín dụng.
Đây là loại rủi ro chủ yếu, thờng gặp nhất, gắn liền với hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng thơng mại. Đến nay cha có một văn bản nào hớng dẫn có
thể loại bỏ đợc rủi ro. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu đợc nợ khi đến hạn. Việc
đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của phía Ngân hàng.

Rủi ro tín dụng có thể xảy ra hai loại chính:
- Rủi ro ứ đọng vốn: Là loại rủi ro mà các Ngân hàng huy động đợc nguồn
vốn lớn mà không cho vay hết đợc trong khi vẫn phải trả lãi cho số tiền huy động
đó, dẫn đến làm giảm thu nhập của Ngân hàng, thậm chí lỗ không đủ bù đắp chi
phí để hoạt động.
- Nợ quá hạn: Là những khoản nợ bị kéo dài quá thời hạn quy định trên khế
ớc cho vay. Nợ quá hạn thờng chia thành hai loại:
+ Nợ quá hạn thông thờng: Là loại nợ quá hạn do khách hàng chậm thanh
toán vì nhiều yếu tố khác nhau nh: Hàng hoá tiêu thụ chậm, công nợ cha thu hồi
kịp, khách hàng cha thanh toán tiền hàng... Nhìn chung loại nợ này cần có thêm
thời gian và khách hàng sẽ trả đợc nợ.
+ Nợ khó đòi: Phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên căn
cứ vào khả năng thu hồi nợ ngời ta phân chia nợ khó đòi thành:
* Nợ khó đòi không có khả năng thu hồi: Đây là loại nợ bên vay đã phá sản
hoàn toàn hay không thể trả nợ đợc. Loại nợ này đợc để riêng vào quỹ rủi ro.
* Nợ khó đòi còn khả năng thu hồi: Đây là loại nợ mà bên vay có khả năng
trả nợ nhờ thanh lý một số tài sản hiện có hoặc nhờ duy trì tích cực sản xuất kinh doanh.
- Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa nó rất khó
khăn, nó có thể xẩy ra bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Hễ cứ rủi ro nào đó của ngời vay
cũng có thể rủi ro cho Ngân hàng. Nó đòi hỏi Ngân hàng phải có những biện pháp
đồng bộ hữu hiệu mới có thể hạn chế ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối thiếu những
thiệt hại có thể xảy ra và đem lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận cao.
- Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho một khách
hàng và Ngân hàng đợc các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ
thanh toán cả gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó, tại thời điểm
cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa nhận khả
năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng với một xác suất cao, còn
xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều.
Chúng ta hãy quan sát sự phân phối xác suất lợi tức đầu t Ngân hàng vào
các khoản cho vay tín dụng qua đồ thị sau:

Xác suất (P)
P = 1

×