Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.92 KB, 29 trang )

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG XẾP HẠNG TÍN
DỤNG TẠI CÁC NHTM
1.1. TÍN DỤNG VÀ AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM
1.1.1. Hoạt động tín dụng tại các NHTM
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng
Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy tùy theo góc độ
nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong
thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả
trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội
dung riêng. Nhưng chung quy lại, có thể hiểu:
Tín dụng nói chung được định nghĩa là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển
nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức giá trị hoặc hiện vật) từ người sở
hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn
hơn giá trị ban đầu.
Nếu xem xét ở một góc độ hẹp hơn, “Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về
tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa NH và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ
thể khác), trong đó, NH chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian
nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi cho NH khi đến hạn thanh toán”.
Ngày nay, TD không chỉ đơn thuần là việc chuyển giao quyền sử dụng vốn bằng
hình thái tiền tệ, hình thái tài sản tài chính (leasing) mà còn sử dụng cả uy tín của NH
(hình thức bảo lãnh - tín dụng chữ ký) để cung cấp cho khách những dịch vụ tốt nhất
như chiết khấu, bao thanh toán, thấu chi, cho vay theo hạn mức, vay trung dài hạn, đầu
tư dự án.
1.1.1.2. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng
- TDNH thúc đẩy sự ra đời, tồn tại và phát triển của các hoạt động sản xuất
kinh doanh
TDNH là công cụ tài trợ nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn kịp thời về sản xuất tiêu
dùng cho các chủ thể trong xã hội đặc biệt là các DN. Vốn là yếu tố tiên quyết giúp các
ý tưởng kinh doanh đi vào thực tiễn cũng như mở rộng quy mô hiệu quả hoạt động của


các DN. Trong bối cảnh đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay cùng làn sóng
hội nhập khiến các DN gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt trong giai đoạn kinh tế phục
hồi hiện nay, họ cần vốn để mở rộng quy mô cả về chiều sâu và chiều rộng, đổi mới
hiện đại hóa trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực…để nâng cao năng lực cạnh tranh và
khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Tuy thị trường tài chính, chứng khoán
những năm trở lại đã có những bước tiến đáng kể song vẫn chỉ là bắt đầu mới phát triển
như Việt Nam, chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình là nơi giúp các DN tăng vốn,
cùng với các điều khoản chặt chẽ để có thể phát hành chứng khoán khiến cho việc huy
động vốn trực tiếp thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu chưa phổ biến thì TDNH
vẫn luôn là nguồn vốn đặc biệt quan trọng đối với DN. Nhất là đối với các DN vừa và
nhỏ - loại hình quy mô DN phổ biến tại Việt Nam hiện nay.
- TDNH là một trong các đòn bẩy kích thích DN và NH hoạt động kinh doanh
có hiệu quả hơn.
NH vừa là người “đi vay”, vừa là người “cho vay” nên bản thân NH trong quá
trình kinh doanh phải tính toán đến hiệu quả kinh doanh sao cho bản thân NH có lời,
đồng thời hoàn trả được gốc và lãi cho người gửi tiền. Mặt khác, khi cho các chủ thể
vay vốn, NH cũng phải tính toán đến hiệu quả kinh tế sao cho bản thân họ có lời và
hoàn trả vốn gốc và lãi vay cho NH. Như vậy TDNH có tác dụng tăng cường chế độ
hạch toán kinh tế không chỉ đối với các NHTM, mà cả với các DN đi vay.
- TDNH là kênh truyền tải tác động nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách
tiền tệ vĩ mô trong từng thời kỳ
Thông qua việc cấp tín dụng cho các chủ thể trong xã hội, TDNH đã góp phần
điều hòa sự lưu thông của tiền tệ. Nhờ việc điều chỉnh các điều kiện TD như về lãi suất,
hạn mức, thời hạn, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh…mà TDNH đã có tác động giúp thực
hiện các mục tiêu vĩ mô của quốc gia trong từng thời kỳ theo sự điều tiết của Nhà nước.
Cụ thể, khi các NHTM mở rộng TD cấp vốn ra thị trường, sẽ tạo điều kiện tốt cho các
DN tiếp cận nguồn vốn rẻ để tăng cường sản xuất kinh doanh. Từ đó đóng góp chung
vào sức tăng trưởng GDP của cả nước, ổn định giá cả, tạo thêm công ăn việc làm và ổn
định xã hội. Hoạt động TD cũng có vai trò trong việc tác động đến hoạt động huy động
các nguồn lực, hình thành và biến nguồn vốn thành đầu tư, tăng trưởng kinh tế và tạo

các bước nhảy vọt về công nghệ.
NHTM cấp TD cho các DN trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động,
có nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi dưới các hình thức cho vay ứng trước, chiết khấu,
bảo lãnh...và nó mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho NH. Nhưng rủi ro TD thường
xảy ra, luôn đe doạ sự tồn tại của NH.
1.1.2. An toàn trong hoạt động tín dụng tại các NHTM
1.1.2.1. Rủi ro tín dụng, nguyên nhân và những hậu quả
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng luôn phải đối
đầu với rất nhiều rủi ro, đó là: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro
lãi suất. Rủi ro và lợi nhuận là hai mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất của quá
trình kinh doanh, chúng luôn tồn tại và mâu thuẫn. Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt
động của ngân hàng.
Ở Việt Nam, loại rủi ro phổ biến nhất và gây ra thiệt hại lớn nhất cho các ngân
hàng, chính là rủi ro tín dụng. Đó là rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián
tiếp) xuất phát từ việc người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam
kết hoặc mất khả năng thanh toán, từ đó làm giảm vốn tự có của ngân hàng và làm giảm
sức mạnh tài chính các ngân hàng.
RRTD là hiện tượng NH không thu hồi được đầy đủ, đúng hạn hoặc mất khả
năng thu hồi các khoản vay đã ghi trong hợp đồng TD, dẫn đến toàn bộ hoặc một phần
gốc và lãi vay bị tổn thất. Căn cứ vào khoản 1, điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động NH của TCTD ban hành theo
quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN: ”RRTD
trong hoạt động NH của các TCTD là khả năng xảy ra rủi ro trong hoạt động của NH
của TCTD do KH không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”.
Sơ đồ 1.1: Biểu hiện và hậu quả của rủi ro tín dụng
RỦI RO TÍN DỤNG
Không thu được vốn đúng hạn
Không thu được lãi đúng hạn
Không thu đủ vốn cho vay

Phát sinh nợ quá hạn
Không thu đủ lãi
 Khả năng thanh toán suy giảm
 Hiệu quả kinh doanh giảm
 Thất thoát vốn, phá sản
Phát sinh nợ khó đòi
Phát sinh lãi treo
Phát sinh lãi treo đóng băng


RRTD là hệ quả của rất nhiều yếu tố, được quy về hai nguyên nhân chính, đó là
nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nhóm nguyên nhân khách quan là tác nhân gây ra rủi RRTD bất khả kháng,
xảy ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người trong một thời điểm nào đó, như:
- Tình hình chính trị và hệ thống pháp luật không ổn định: Việc chính trị bất ổn, hay hệ
thống pháp luật chồng chéo, chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở sẽ dẫn tới việc các chủ
thể kinh tế không an tâm trong kinh doanh, không thích nghi được với sự thay đổi, từ
đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, đến khả năng trả nợ ngân hàng.
- Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế thay đổi: Đó là sự thay đổi của chu kì kinh tế, lạm
phát, hội nhập kinh tế quốc tế…RRTD thường xảy ra khi nền kinh tế rơi vào tình trạng
suy thoái, khi đó lạm phát tăng cao kéo theo sự thất nghiệp và sự thắt chặt trong chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sẽ ngày càng làm cho chủ thể kinh tế hoạt động
kém hiệu quả, lợi nhuận suy giảm nên việc thanh toán nợ gặp khó khăn.
- Các yếu tố xã hội gắn với mỗi vùng: dân số, tâm lý, thói quen tiêu dùng, tập quán, trình
độ văn hóa ... nếu không được NH quan tâm đúng mức, sẽ gây ra việc không phù hợp
giữa sản phẩm tín dụng với thói quen của khách hàng, từ đó là nguyên nhân của rủi ro
đạo đức, rủi ro tín dụng.
- Sự lạc hậu về công nghệ thông tin: Việc NH không theo kịp đà phát triển của công
nghệ, như việc ứng dụng các phần mềm chuyên ngành, dịch vụ thẻ… cũng sẽ gây ra
RRTD cho NH.

Nhóm nguyên nhân chủ quan, bao gồm nguyên nhân từ phía người vay và bản
thân ngân hàng.
• Thứ nhất, nguyên nhân từ phía ngân hàng
Trước hết, phải nói đến việc NH còn thiếu một chính sách TD nhất quán, chính
sách TD ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho vay, chế độ TD ngắn hạn,
trung và dài hạn, các quy định về đảm bảo tiền vay, danh mục lựa chọn KH trong từng
giai đoạn… Nguyên nhân gây ra RRTD từ phía NH có thể khái quát như sau:
- NH không có đủ thông tin về các số liệu thống kê để phân tích và đánh giá
KH… dẫn đến đánh giá sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho
vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của NH.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát
hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm… coi đó là vật bảo
đảm chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng hoặc theo kế hoạch mà sao nhãng việc coi trọng chất
lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh
doanh của KH.
- NH không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn
sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán, từ đó dẫn đến
mất khả năng thanh toán nếu KH có nhu cầu rút vốn quá nhiều; hoặc dữ trữ vốn quá
nhiều gây ứ đọng, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài
hạn quá mức quy định.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số CBTD NH chưa đủ tầm và vấn
đề quản lý sử dụng và đãi ngộ cán bộ NH chưa thỏa đáng.
- Cạnh tranh giữa các TCTD chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô,
bỏ qua các điều kiện, tiêu chuẩn trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng các
khoản vay.
• Thứ hai, nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ vay
Đa số các DN khi vay vốn NH đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi.

Số lượng DN cố tình sử dụng vốn sai mục đích, lừa đảo NH không nhiều. Tuy nhiên,
những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín cán bộ, ảnh hưởng xấu
đến các DN khác.
- Năng lực kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực quá khả năng quản lý.
Khi các DN vay tiền NH để mở rộng quy mô kinh doanh, đa số là tập trung vốn
đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít DN nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư
cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh
doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các
phương án kinh doanh đầy khả thi mà đáng lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- KH vay vốn tại nhiều TCTD dưới một danh nghĩa hay nhiều danh nghĩa
khác nhau nên thiếu sự phân tích một cách tổng thể, khó theo dõi dòng tiền dẫn đến
việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
- Tình hình tài chính của DN yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản,
nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu cao là đặc điểm chung của phần lớn các
DN Việt Nam. Ngoài ra, việc ghi chép một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác các sổ sách
kế toán vẫn chưa được các DN tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Vì vậy khi cán bộ
NH lập các bản phân tích tài chính của DN dựa trên các số liệu ngày thường thiếu thực
tế và xác thực.
Hậu quả của RRTD:
o Đối với nền kinh tế:
Hệ thống NH được coi là huyết mạch của nền kinh tế. Mỗi NH là một mắt xích
quan trọng trong hệ thống đồng bộ này. Trong lĩnh vực tiền tệ vô cùng nhạy cảm thì rủi
ro của NH này sẽ lan truyền sang các NH khác gây ra rủi ro hệ thống. Khi một ngân
hàng gặp phải rủi ro tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng, gây hoang
mang cho các khách hàng gửi tiền, từ đó có thể xảy ra hiện tượng rút tiền ồ ạt. Sự bất
ổn trong hệ thống ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Nó sẽ gây ra tình
trạng suy thoái, giá cả tăng, sức mua của đồng tiền giảm xuống, gia tăng thất nghiệp, xã
hội mất ổn định… Từ các vấn đề trong kinh tế sẽ nảy sinh những tệ nạn xã hội làm
giảm sự ổn định và cản trở sự phát triển bền vững.
o Đối với ngân hàng:

Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được khoản tín dụng đã cấp và lãi
vay, nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động đến hạn. Điều này sẽ làm
NH mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn TD giảm làm cho hiệu quả kinh
doanh của NH giảm, chi phí tăng lên so với dự kiến. Đến một mức nào đó, NH không
đủ vốn để trả cho người gửi tiền, thì sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Và
kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh
tranh giảm, kết quả kinh doanh ngày càng xấu, điều này có thể dẫn NH đến thua lỗ hoặc
đưa đến bờ vực phá sản. RRTD ở một NH xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là NH
bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi NH không thu
hồi được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến NH bị thua lỗ và mất vốn. Nếu
tình trạng này kéo dài và không khắc phục được, NH sẽ bị phá sản và gây hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống NH nói riêng.
Các khoản cho vay không thanh toán đúng hạn là hình thức biểu hiện của RRTD.
Chúng được hình thành do hàng loạt các nguyên nhân khác nhau. Hậu quả của RRTD là
rất lớn; vì vậy, để hạn chế tối đa các tổn thất, NHTM phải có một chương trình quản trị
đồng bộ, từ chính sách quản trị rủi ro các khoản cho vay riêng lẻ và danh mục cho vay
đến việc giám sát và xử lý các khoản cho vay đó.
Có thể nói, RRTD là không thể tránh khỏi, nó theo sát quá trình kinh doanh của
NH; có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Thông qua tìm ra những nguyên
nhân căn bản của RRTD thì việc đưa ra các giải pháp giải quyết đảm bảo an toàn trong
hoạt động TD ngày càng trở nên cấp bách.
1.1.2.2. Giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng tại hệ thống các NHTM
Các biện pháp thường được sử dụng để nâng cao công tác quản trị RRTD là:
- Đảm bảo thực hiện duy trì những tỷ lệ an toàn mà NHNN đã quy định, như:
o Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu : > 8% Vốn tự có
o Giới hạn cho vay, bảo lãnh: <15% vốn tự có
o Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn: 30%
- Xác định danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau. Với các
khách hàng khác nhau, đối tượng cho vay khác nhau thì rủi ro và mức độ rủi ro sẽ khác
nhau. Nên cần phải phân chia thành các nhóm khách hàng cụ thể như khách hàng cá

nhân, doanh nghiệp, NHTM khác, tổ chức trung gian tài chính, tài chính phi ngân hàng,
ngân hàng nhà nước với những thời hạn cho vay cụ thể.
- Xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý. Đây là một điều kiện quan trọng
hàng đầu để giảm thiểu RRTD trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một chính
sách tín dụng phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng mức lãi suất và thời hạn,
giới hạn tín dụng, cùng với quá trình giám sát sau khi cho vay. Hơn nữa, cần thiết lập cơ
cấu tổ chức bộ máy quản lý tín dụng hợp lý, phân rõ trách nhiệm của từng cá nhân, bộ
phận trong quá trình phân tích và cấp tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro trong từng khâu.
Đặc biệt, nhằm giảm thiểu RRTD, quy trình tín dụng cần được xây dựng một cách chi
tiết từ khâu tìm hiểu khách hàng, đánh giá, đưa ra hạn mức tín dụng, thời hạn, lãi suất
đến khâu giải ngân, kiểm tra giám sát, thu nợ và quán triệt xuống từng chi nhánh, từng
cán bộ. Nhất là, quá trình phân tích tín dụng và giám sát tín dụng cần phải được thực
hiện chính xác, đầy đủ và chặt chẽ. Và một trong những phương pháp phân tích nhằm
ra quyết định cấp tín dụng đang được rất nhiều các NHTM sử dụng, đó là chấm điểm
các doanh nghiệp vay vốn (xếp hạng tín dụng) nhằm đánh giá khả năng trả nợ và lãi vay
của khách hàng. Phương pháp này sẽ được đề cập trong toàn bộ phần còn lại của khóa
luận.
1.2. XẾP HẠNG TÍN DỤNG TẠI HỆ THỐNG CÁC NHTM
1.2.1. Khái niệm xếp hạng tín dụng
Hai khái niệm xếp hạng tín dụng và xếp hạng tín nhiệm đều được dịch ra từ
tiếng Anh “credit rating” nhưng chúng không đồng nhất. Để làm rõ khái niệm xếp
hạng tín dụng, trước hết ta cần tìm hiểu khái niệm xếp hạng tín nhiệm.
• Khái niệm xếp hạng tín nhiệm
Xếp hạng tín nhiệm hay định mức tín nhiệm (credit rating) là thuật ngữ do John
Moody đưa ra đầu tiên và công bố vào năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán
đường sắt”. Có rất nhiều cách định nghĩa không giống nhau về thuật ngữ này:
Theo Bohn John A. viết trong cuốn “Phân tích rủi ro trên các thị trường đang
chuyển đổi” thì xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có
thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời
gian tồn tại của nó.

Theo công ty chứng khoán Merrill Lynch, xếp hạng tín nhiệm là đánh giá hiện
thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh
sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Trong kết
quả xếp hạng tín nhiệm chứa đựng cả ý kiến chủ quan của chuyên gia xếp hạng tín
nhiệm.
Còn theo Moody’s, xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng và sự sẵn sàng của
một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn cho một khoản nợ nhất định trong
suốt thời gian tồn tại của khoản nợ đó. Nói một cách rộng hơn, xếp hạng một đầu tư bởi
một công ty xếp hạng tín nhiệm (CRA) là việc thể hiện ý kiến chuyên gia của bên thứ
ba về mức độ rủi ro vỡ nợ gắn liền với thể loại đầu tư đó. Xếp hạng càng cao thì mức
độ vỡ nợ càng thấp. Xếp hạng có thể là làm lên hạng hoặc xuống hạng của một nhà phát
hành, một công cụ tài chính theo khả năng của nó có đáp ứng được các nghĩa vụ đối với
một nhà đầu tư hay không. Về mặt nào đó, xếp hạng tín nhiệm có thể được xem như là
một hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán, nhưng đó chỉ là ý kiến dựa trên các nhân tố
rủi ro và không hoàn toàn là một lời khuyên nên mua hay bán bất kỳ một loại chứng
khoán nào. Một sự xếp hạng cao không đồng nghĩa là một khoản đầu tư tối ưu.
Qua những cách định nghĩa trên, ta có thể hình dung: xếp hạng tín nhiệm là việc
đánh giá khả năng chi trả đúng hạn của khách hàng đối với một nghĩa vụ nợ trong hiện
tại và tương lai.
• XHTD và sự phân biệt XHTD với xếp hạng tín nhiệm
o Xếp hạng tín dụng là đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong hoàn
cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng có thể thanh toán gốc và lãi
khoản vay đúng hạn - (trích tài liệu citibank) - Xếp hạng tín dụng được thực hiện bởi
ngân hàng (hoặc các trung tâm thông tin tín dụng…) để đánh giá khả năng trả nợ các
khoản vay ngân hàng của doanh nghiệp, trong khi xếp hạng tín nhiệm được thực hiện bởi
các công ty xếp hạng tín nhiệm (CRA) riêng biệt.
o Hai khái niệm xếp hạng tín dụng và xếp hạng tín nhiệm, tuy cùng được dịch từ tiếng
Anh “credit rating”, nhưng chúng không đồng nhất. Xếp hạng tín nhiệm là một phạm
trù lớn hơn xếp hạng tín dụng, mặc dù ý nghĩa đều có thể tương tự là cách đánh giá khả
năng trả nợ trong tương lai, nhưng chúng có đối tượng, chức năng, mục đích riêng. Do

XHTD được thực hiện bởi ngân hàng (hoặc các trung tâm thông tin tín dụng…) để đánh
giá khách hàng của mình, do vậy kết quả xếp hạng sẽ khó có thể ngang tầm với kết quả
được thực hiện bởi CRA riêng biệt. Đồng thời, thông tin XHTD không được công bố
rộng rãi mà chỉ những đối tượng theo quy định và có đăng kí mua mới được biết kết
quả xếp hạng đó. Trong xếp hạng tín nhiệm, người trả phí dịch vụ không phải là tổ chức
được xếp hạng, mà là những người hỏi tin. Do đó, một DN có thể dùng kết quả xếp
hạng tín nhiệm để làm cơ sở cho việc vay ngân hàng, nhưng tất nhiên không thể sử
dụng kết quả xếp hạng tín dụng để làm cơ sở cho việc phát hành chứng khoán.
Tuy vậy bản chất xếp hạng tín nhiệm hay xếp hạng tín dụng thì đều gồm 2 công
đoạn chính: phân tích, đánh giá chấm điểm và xếp hạng khách hàng tín dụng. Trong phạm
vi bài khóa luận với đề tài xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp vay vốn, khóa luận thống
nhất thuật ngữ xếp hạng tín dụng để gọi thay cho quá trình đánh giá phân tích và định
dạng rủi ro của KH trong quan hệ TD với NHTM. XHTD với khách hàng là doanh nghiệp
sẽ gọi là XHTD DNVV hay đơn giản là XHTD DN.
Việc XHTD DNVV là một quá trình, nó bắt đầu từ khi xác định mục đích nghiên
cứu đến việc thu thập, xử lý thông tin trong quá trình quản lý và đánh giá chất lượng
thông tin thông qua quá trình sử dụng. Từ những thông tin thu thập kết hợp phương
pháp phân tích và các chỉ tiêu phân tích phù hợp với mục đích đánh giá của NH làm rõ
thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh cả về nguồn lực, tiềm năng, lợi thế kinh doanh
cũng như rủi ro tiềm ẩn về khả năng trả nợ của DN để các NHTM kịp thời đưa ra quyết
sách phù hợp nhằm ngăn ngừa, kiểm soát rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh.
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của xếp hạng tín dụng
Cần phải khẳng định lại rằng rủi ro là yếu tố không thể tách rời trong hoạt động của
các NHTM trên thị trường. Hơn nữa, rủi ro trong cho vay lại tăng lên gấp bội bởi NH phải
đối mặt với rủi ro từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan gây nên. Vì lẽ đó mà XHTD
có ý nghĩa ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Mục đích, ý nghĩa của XHTD DNVV là đánh giá khả năng tin cậy của DN khi
đứng trên giác độ NH trong các khoản TD. Thông qua sự đánh giá quá khứ và hiện tại
của DN để có thể thấy rõ được những mặt yếu, mặt mạnh của DN qua đó đưa ra những
quyết sách đúng đắn kể cả đối với NHNN và các TCTD. Hay nói cách khác, mục đích

của việc XHTD DNVV là lường trước được các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động
TD, cung cấp những thông tin mang tính hệ thống về quá khứ và hiện tại của DN để từ
đó hỗ trợ trong việc đưa ra quyết định cấp TD: Xác định đúng hạn mức, thời hạn, lãi
suất, biện pháp bảo đảm tiền vay, cơ sở để xây dựng chính sách tín dụng và chính sách
khách hàng. Ngoài ra còn giảm chi phí, tiết kiệm thời gian quyết định cho một khoản
vay. Từ đó tinh giản hóa quy trình và nâng cao hiệu quả trong hoạt động TD. Nó cũng
là cơ sở để các NH trích lập dự phòng rủi ro hay nâng cao cảnh giác, đảm bảo tốt công
tác quản trị rủi ro TD. Tùy vào mức độ xếp hạng mà NH thực hiện trích lập dự phòng
làm tấm nệm cho mình. Một mục đích quan trọng nữa của XHTD DNVV là phục vụ
công tác điều hành quản lý của NHNN, giúp NHNN có thêm thông tin hỗ trợ cho việc
hoạch định chính sách tiền tệ hợp lý và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.3. Chủ thể, đối tượng và nguồn thông tin sử dụng trong xếp hạng tín dụng
1.2.3.1. Đối tượng XHTD
Đối tượng của XHTD DNVV là những thông số, dữ liệu. XHTD thực hiện phân
tích dữ kiện từ các hồ sơ lưu trữ, các BCTC và báo cáo khác về DN, dưới sự tác động
của các nhân tố môi trường để nhận xét đánh giá tình hình hiện tại và tương lai của DN
nhằm xác định khả năng thu hồi vốn và lãi vay. Hay nói một cách rộng hơn, đối tượng
XHTD đề cập trong khóa luận chính là DNVV.
1.2.3.2. Chủ thể của XHTD
Hiện nay trên thế giới và các nước trong khu vực thường có 3 loại chủ thể thực
hiện đánh giá xếp hạng DN. Đó là: công ty xếp hạng tín nhiệm (CRA); các NHTM và
các Trung tâm thông tin tín dụng của tư nhân và trung tâm thông tin tín dụng của
NHNN (ví dụ như CIC của Việt Nam)
Hiệp ước Basel II thay thế hiệp ước Basel I cho phép các ngân hàng lựa chọn
giữa “phương pháp dựa trên đánh giá tiêu chuẩn” và “phương pháp dựa trên đánh giá
nội bộ”. Tức là, các NH có thể sử dụng luôn kết quả XHTN của các CRA hoặc tự mình
tiến hành công tác thu thập thông tin, chấm điểm và XHTD. Cho đến nay, tại Việt Nam,
do yêu cầu của việc quản lý khách hàng, phục vụ cho công tác quản trị các NHTM Việt
Nam phải tự tổ chức XHTD đối với các khách hàng của mình. Bởi vì, các CRA lại chưa
hình thành trong khi hoạt động của CIC còn nhiều bất cập.

Tùy theo mỗi chủ thể khác nhau thì chi tiết việc xếp hạng có sự khác nhau chi
tiết để phù hợp với mục đích khác nhau. Ở đây, do mục đích của đề tài nên khóa luận sẽ
chỉ chú trọng đến chủ thể xếp hạng là NHTM.
1.2.3.3. Nguồn thông tin sử dụng trong XHTD
Việc thu thập thông tin có ý nghĩa rất quan trọng. Ngân hàng càng thu thập được
nhiều thông tin sát thực về khách hàng thì kết quả XHTD càng chính xác. Thông tin
trong XHTD được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm:
Thứ nhất, thông tin từ hồ sơ DN
 Hồ sơ pháp lý: cung cấp các thông tin mang tính pháp lý như: trụ sở, địa chỉ, số
đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập DN - ngày cấp - nơi cấp, loại hình DN, ngành
nghề kinh doanh… Những thông tin này chứng thực về sự tồn tại của khách hàng và là
bằng chứng cần thiết để bảo vệ lợi ích của NH khi có tranh chấp xảy ra.
 Hồ sơ tài chính: BCĐKT, BCKQKD, BCLCTT…Thông tin từ những tài liệu
này là cơ sở giúp NH đánh giá được khả năng tài chính của DN.
 Hồ sơ về phương án, dự án, chiến lược kinh doanh của DN. Dựa trên những
thông tin này, NH có thể đánh giá được tính khả thi, tính toán hiệu quả của dự án.
Thông tin này rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ cũng như giúp
NH trong quá trình giải ngân.
 Hồ sơ về TSĐB: giấy CN quyền sở hữu… cung cấp cho NH những thông tin về
tính pháp lý và tính khả mại của tài sản… là cơ sở để NH xác định giá trị của TSBĐ.
Thứ hai, thông tin lưu trữ tại NH

×