Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự cần thiết của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.47 KB, 28 trang )

Doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự cần thiết của tín dụng
ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1 DNVVN trong nền kinh tế thị trờng.
1.1.1 Khái niệm DNVVN
.
Kể từ khi đất nớc ta chuyển đổi nền kinh tế theo hớng đa thành phần và
phát triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh cũng đã và đang từng bớc khẳng định vị trí, vai trò của mình. Theo đ-
ờng lối của Đảng và Nhà nớc thì mọi thành phần kinh tế đều là những bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế và các DNVVN cũng không là một ngoại lệ.
Tuy vậy, khó có đợc một khái niệm chung, duy nhất về DNVVN cho tất cả
các quốc gia mà điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm DNVVN giữa các nớc là
việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp và lợng hoá các tiêu
thức ấy thông qua các tiêu chuẩn cụ thể ở từng nơi. Ví dụ:
Đài Loan: theo quy định hiện nay thì trong ngành xây dựng các doanh
nghiệp có vốn dới 1,4 triệu USD, lao động dới 300 ngời; trong công nghiệp khai
khoáng các doanh nghiệp có vốn dới 1,4 triệu USD, 500 lao động và trong thơng
mại dịch vụ có doanh số dới 1,4 tỷ USD và dới 50 lao động là những DNVVN.
Hàn Quốc: trong công nghiệp, xây dựng các doanh nghiệp có số lao động
nhỏ hơn 300 ngời và vốn dới 0,6 triệu USD, trong thơng mại dịch vụ doanh nghiệp
có số lao động dới 20 ngời và số vốn dới 0,25 triệu USD là những DNVVN.
EU: DNVVN là những doanh nghiệp có số lao động dới 250 ngời, vốn dới
27 triệu ECU và doanh thu đạt khoảng 40.000 ECU.
Qua việc xem xét, xác định quy mô DNVVN của một số nớc trên thế giới
thì tiêu thức lao động và tiêu thức vốn đầu t là hai tiêu thức thờng đợc nhiều nớc
lựa chọn, sử dụng để xác định quy mô doanh nghiệp.
ở Việt Nam, khái niệm DNVVN đợc đa ra với những điều kiện cụ thể, đặc
điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần và các chính
sách, quy định phát triển kinh tế của nớc ta, với nội dung:
DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có t cách pháp nhân, không
phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thoả mãn các


quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tơng ứng với từng thời kỳ phát
triển của nền kinh tế.
Trớc năm 1998, do cha có quy định chính thức của Chính phủ nên nớc ta
chủ yếu sử dụng 2 tiêu thức là lao động và vốn, tuỳ theo quy định của từng cơ
quan nh: NHCT Việt Nam quy định các DNVVN là doanh nghiệp có vốn từ 5-10
tỷ đồng với số lao động từ 500-1000 ngời. Trong khi Hội đồng liên minh các HTX
lại quy định các doanh nghiệp có vốn đầu t từ 100-300 triệu đồng và số lao động
từ 5-10 ngời là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số vốn
sản xuất kinh doanh trên 300 triệu và lao động trên 50 ngời. Thành phố Hồ Chí
Minh quy định các doanh nghiệp có vốn trên 1 tỷ đồng, lao động trên 1000 ngời
và doanh thu trên 10 tỷ đồng/năm là doanh nghiệp vừa và dới các quy định trên là
doanh nghiệp nhỏ.
Ngày 20/6/1998 Thủ tớng Chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-
KTN xác định tiêu thức DNVVN tạm thời quy định trong giai đoạn hiện nay là
những doanh nghiệp có vốn điêù lệ dới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình
hàng năm dới 200 ngời.
Nh vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký
kinh doanh nh: các doanh nghiệp nhà nớc đăng ký theo luật doanh nghiệp nhà n-
ớc; các công ty cổ phần, công ty TNHH và các doanh nghiệp t nhân đăng ký hoạt
động theo luật công ty, luật doanh nghiệp t nhân, luật doanh nghiệp và luật đầu t
nớc ngoài tại Việt Nam; các HTX đăng ký hoạt động theo luật HTX; các cá nhân
và nhóm sản xuất- kinh doanh đăng ký theo nghị định 66-HĐBT, đồng thời các
doanh nghiệp này thoả mãn hai tiêu thức về vốn và lao động theo công văn
681/CP-KTN đều đợc coi là DNVVN. Với cách phân loại này, ở Việt Nam số
DNVVN chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp hiện có.
Tuy nhiên, cùng với tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế khi bớc vào kỷ
nguyên mới, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các DNVVN, các chỉ tiêu
đánh giá DNVVN cũng đợc nâng lên một bậc nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Ngày 23/11/2001, Chính phủ
đã ban hành nghị định 90/NĐ-CP/2001 về Trợ giúp phát triển DNVVN. Theo

nghị định này thì DNVVN đợc hiểu: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc
lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 ngời. Căn cứ
vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành, địa phơng, trong quá trình thực hiện
các biện pháp, chơng trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ
tiêu về vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu.
1.1.2 Đặc điểm DNVVN và DNVVN trong nông thôn.
Là một doanh nghiệp nhng với quy mô vừa và nhỏ nên bên cạnh những đặc
điểm cơ bản của một doanh nghiệp thông thờng, DNVVN còn một số đặc điểm
sau:
Đây là loại hình doanh nghiệp có thể đợc tạo lập dễ dàng vì để thành lập chỉ
cần một số vốn đầu t ban đầu tơng đối ít, với một mặt bằng sản xuất hàng hoá nhỏ,
quy mô nhà xởng không lớn nên doanh nghiệp có thể giảm đợc chi phí cố định, tận
dụng đợc lao động thay thế cho vốn với giá công lao động thấp, hơn nữa khả năng
thu hồi vốn của loại hình này khá nhanh, tăng tốc độ vòng quay vốn, bớc đầu đã
mang lại hiệu quả kinh tế nên việc quan hệ TD với loại hình doanh nghiệp này sẽ
đem lại kết quả tốt cho cả hai bên.
Với quy mô thuận lợi của mình là một DNVVN, bộ máy quản lý gọn nhẹ,
các mối quan hệ dễ điều chỉnh nên tính linh hoạt cao, có khả năng quan hệ trực
tiếp với thị trờng và ngời tiêu thụ nên dễ dàng tìm kiếm và đáp ứng các nhu cầu,
thị hiếu trong thị trờng chuyên môn hoá. Đồng thời, mô hình quản lý gọn nhẹ, ít
trung gian đầu mối sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, tận dụng đợc
các cơ hội kinh doanh khi thời cơ đến. Mặt khác, khi gặp những biến cố của môi
trờng kinh doanh, loại hình doanh nghiệp này dễ xoay chuyển bằng cách chuyển
đổi hoặc thu hẹp quy mô sản xuất của mình vì vậy tổn thất giảm đi rất nhiều.
Không chỉ thuận lợi trong việc tạo lập và dễ thích nghi mà DNVVN còn có
thể phát triển rộng khắp các vùng của đất nớc, tham gia vào nhiều ngành nghề,
lĩnh vực và tồn tại nh một bộ phận không thể thiếu đợc của nền kinh tế, tạo ra
những sản phẩm phù hợp với những nhu cầu ở những vùng mang tính chất nội bộ,
cần số lợng sản phẩm ít, hoặc tạo ra một số mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu để

phù hợp với sức mua của dân. Việc mở rộng TD với loại hình doanh nghiệp này sẽ
giúp ngân hàng tham gia vào nhiều ngành nghề trong nhiều lĩnh vực nhằm phân
tán rủi ro cho ngân hàng.
Khả năng tài chính của DNVVN rất hạn chế, trớc hết là do nguồn vốn tự có
thấp dẫn đến khả năng vay vốn ngân hàng cũng nh huy động vốn trên thị trờng bị
hạn chế, những khoản tiền dự định vay của DNVVN thờng gặp khó khăn vì thiếu
tài sản thế chấp. Do vậy các DNVVN thờng rơi vào tình trạng thiếu vốn cộng với
khả năng tích luỹ thấp nên nguồn vốn bổ sung cho sản xuất kinh doanh bị giới
hạn, khiến cho khả năng thu lợi nhuận không tối đa ngay cả khi có cơ hội để kinh
doanh.
Cũng do quy mô loại hình doanh nghiệp, năng lực tài chính hạn hẹp, nên
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong mua sắm trang thiết bị, đổi mới công
nghệ, hầu hết là công nghệ, máy móc cũ kỹ, lạc hậu vì vậy việc tiếp cận những
thông tin, áp dụng công nghệ mới còn hạn chế nên nhiều doanh nghiệp phải tìm
đến con đờng liên doanh, liên kết nhằm đổi mới công nghệ, trang thiết bị đáp ứng
nhu cầu của sản xuất kinh doanh. Bên cạnh khó khăn về máy móc, trang thiết bị
doanh nghiệp còn bị bất lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm và khả năng thu hút nhà
quản lý và công nhân tốt. Do nguồn tài chính hạn hẹp nên doanh nghiệp khó có
thể thực hiện chiến lợc Marketing giới thiệu sản phẩm của mình. Một loạt các
chính sách trong chiến lợc Marketing nh: chiến lợc sản phẩm, chiến lợc về giá,
chiến lợc phân phối và cả chiến lợc khuyếch trơng đều cần đến một lợng tài chính
đầy đủ. Chính vì vậy, khả năng tiếp cận thị trờng thế giới của DNVVN bị hạn chế.
Chính những hạn chế về vốn, về trình độ công nghệ, về phơng thức quản lý
mà khả năng cạnh tranh, tiếp cận thị trờng của doanh nghiệp thấp. Đây chính là
những yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho ngân hàng khi cho vay vì vậy để quan hệ TD
đợc thiết lập, doanh nghiệp cần khắc phục những hạn chế đó và ngân hàng cần
thẩm định kỹ khách hàng trớc khi phát tiền vay.
Đặc điểm của DNVVN trong nông thôn
Một phần trong hệ thống DNVVN ở mỗi quốc gia có sự góp mặt của các
DNVVN trong nông nghiệp, đặc biệt ở một nớc nông nghiệp nh nớc ta, điều đó

càng rõ ràng. ở Việt Nam, những thay đổi về chính sách đất đai sau Đại hội Đảng
lần thứ VI và luật đất đai đợc Quốc hội thông qua đã đánh dấu một bớc phát triển
của các DNVVN khu vực nông thôn, đa khu vực này nhanh chóng tiến lên trên
con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Vốn của các DNVVN ở nông thôn
Vốn bình quân ban đầu của các DNVVN ở nông thôn rất thấp cả về số tơng
đối và số tuyệt đối so với các DNVVN khác. Với các doanh nghiệp hộ gia đình,
vốn bình quân là 921 USD, với các doanh nghiệp t nhân là 2.153 USD. Theo khảo
sát, trên 80% số doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vốn tự có và vốn vay không lãi của
bạn bè, họ hàng khi lập doanh nghiệp, với doanh nghiệp hộ gia đình, con số này là
87% và với doanh nghiệp t nhân, con số này là 75%. Vốn tự có và vốn vay không
phải trả lãi của chung DNVVN khu vực nông thôn chiếm 90% số vốn ban đầu.
Nguồn vốn vay ngoài chủ yếu là vay t nhân có trả lãi, TD nhà nớc hầu nh không
có vai trò gì, chỉ khoảng 3% DNVVN đợc vay vốn ngân hàng hoặc HTX TD hoặc
của chính quyền địa phơng. Hiện nay, con số này có cao hơn do những nỗ lực của
hệ thống NHTM nhà nớc theo quan điểm thúc đẩy sự phát triển khu vực t nhân
của Chính phủ, nhng tỷ trọng nguồn vốn vay ngân hàng trong tổng nguồn vốn của
các DNVVN khu vực nông thôn cha cao.
Tình trạng thiếu nguồn vốn TD vay chính thức khiến cho vốn ban đầu của
một DNVVN hoàn toàn dựa vào khả năng, quy mô của các nguồn vốn tự có, có
thể đầu t mà không trông mong gì vào các khoản dự kiến thu hồi hoặc mục tiêu
yêu cầu vốn. Đối với nền kinh tế nói chung, điều đó gây ra những hậu quả nghiêm
trọng, hơn nữa còn làm tăng chứ không giảm sự khác biệt về thu nhập và phân
phối ở trong vùng cũng nh trong từng hộ gia đình và toàn bộ cộng đồng nông
thôn. Điều đó dẫn đến hậu quả là các ngành công nghiệp nông thôn phát triển
chậm hơn.
Cũng nh các DNVVN ở các ngành khác, thiếu vốn làm cho DNVVN khu
vực nông thôn tồn tại ở trình độ công nghệ thấp kém, phơng pháp sản xuất lạc
hậu, năng suất thấp, đồng thời giảm khả năng cạnh tranh. Nó sẽ làm khác biệt về
phát triển kinh tế cũng nh những chênh lệch ngay giữa các DNVVN trong khu

vực nông thôn. Các DNVVN sẽ phát triển ở những nơi nào mà nhân dân có nguồn
đầu t đáng kể chứ không phải là nơi nào có nhu cầu lớn nhất về việc làm và thu
nhập hoặc ở những nơi có điều kiện tốt nhất để phát triển những loại hình hoạt
động phi nông nghiệp. Thực tế là các DNVVN mạnh về mặt kinh tế thờng phát
triển chủ yếu ở những vùng nông nghiệp trù phú, nơi mà lợi nhuận từ nông nghiệp
có thể đầu t vào công nghiệp còn những doanh nghiệp ở vùng nghèo nàn thì dù đ-
ợc đánh giá là nhìn chung có phát triển song cũng chỉ nhỏ bé, năng suất thấp, dễ
đi đến phá sản khi phải đơng đầu với cạnh tranh bên ngoài.
Lao động ở các DNVVN khu vực nông thôn.
Sự phát triển của các DNVVN khu vực nông thôn có tác dụng chính trong
việc tạo thêm cơ hội việc làm cho các hộ gia đình vì các doanh nghiệp này chủ
yếu dựa vào lao động hộ gia đình. Trong số các DNVVN nông thôn thì có hơn 1/3
số lao động là lao động làm công ăn lơng. Các doanh nghiệp hộ gia đình nông
thôn hầu nh phụ thuộc hoàn toàn vào lao động hộ gia đình. Chỉ có 8,1% số doanh
nghiệp thuê lao động có trả lơng và trung bình số lao động làm thuê chỉ chiếm
6,1% tổng lực lợng lao động. Doanh nghiệp t nhân ở khu vực nông thôn cũng vậy,
phụ thuộc phần lớn vào lao động hộ gia đình, chiếm 43,6% tổng lực lợng lao
động. Tỷ lệ lao động làm công ăn lơng lớn nhất trong các doanh nghiệp sản xuất
và chế biến sản phẩm nông nghiệp.
Trình độ học vấn của lao động ở các DNVVN khu vực nông thôn tơng đối
thấp, 26,5% số lao động trong các doanh nghiệp hộ gia đình có trình độ lớp 6 phổ
thông trở nên, con số này là 21% trong các doanh nghiệp t nhân. Chỉ có 16,6% số
lao động trong các doanh nghiệp hộ gia đình có trình độ lớp 10 trở nên, con số
này là 39,6% ở các doanh nghiệp t nhân.
Hỗ trợ của Nhà n ớc đối với các DNVVN khu vực nông thôn.
Sự khuyến khích của chính quyền địa phơng hoặc sự hỗ trợ tài chính cũng
có vai trò quan trọng trong việc định hớng cho sự phát triển của các doanh nghiệp
khu vực nông thôn. Qua khảo sát, có 56% số doanh nghiệp nhận đợc sự giúp đỡ
về một số mặt khi mới thành lập trong đó hỗ trợ về TD chiếm 2,9%, một con số
còn quá khiêm tốn, cha thúc đẩy khu vực này phát triển hiệu quả, cha khai thác

hết những khả năng và thế mạnh của nó.
Thị tr ờng và tiêu thụ sản phẩm
Các DNVVN khu vực nông thôn có hai loại thị trờng chính: một loại chủ
yếu bán cho thị trờng địa phơng, một loại để bán trên thị trờng thành phố lớn.
Khoảng 1/3 các doanh nghiệp chỉ bán sản phẩm của mình ở thị trờng địa phơng,
còn lại đợc tiêu thụ tại các thành phố lớn.
Mối quan hệ giữa các DNVVN khu vực nông thôn với khách hàng dờng
nh ít mật thiết hơn so với hệ thống các DNVVN trong nền kinh tế nói chung. Các
doanh nghiệp nông thôn dờng nh có nhiều khách hàng hơn, ít khi sản xuất theo
đơn đặt hàng trớc và hiếm có các hợp đồng phụ. Sự khác nhau giữa DNVVN nông
thôn với khu vực khác ở chỗ DNVVN nông thôn có mối quan hệ không đợc chặt
chẽ với khu vực nhà nớc, các doanh nghiệp nhà nớc chỉ cung ứng dới 10% đầu
vào cho doanh nghiệp nông thôn và mua sản phẩm với tỷ lệ ít hơn 10%.
Đối với các DNVVN khu vực nông thôn, khó khăn về thị trờng là một trong
những vấn đề đợc đề cập nhiều nhất trong sự phát triển của doanh nghiệp bên
cạnh khó khăn về vốn. Sự khó khăn thể hiện trên hai mặt: Thứ nhất, do cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng các DNVVN khu vực nông thôn bị cạnh
tranh mạnh mẽ từ phía các doanh nghiệp nhà nớc trong khu vực này. Sự hạn chế
về vốn cũng nh kỹ năng quản lý, kinh nghiệm và trình độ quản lý kinh doanh đã
làm các DNVVN khu vực nông thôn khó có thể cạnh tranh hữu hiệu. Thứ hai, sự
chia cắt nền kinh tế qua nhiều thị trờng tại địa phơng làm hạn chế việc doanh
nghiệp mở rộng ra các thị trờng bên ngoài khu vực của mình, điều này dẫn đến
tình trạng doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu hậu quả khi sản xuất ra sản phẩm vợt
quá nhu cầu của thị trờng địa phơng.
Thông qua những đặc điểm của DNVVN trong nông thôn, chúng ta cũng
thấy đợc những khó khăn mà họ gặp phải trong đó vẫn đặc biệt là thiếu vốn. Vì
vậy mở rộng hoạt động TD đối với các DNVVN trong nông thôn là cần thiết và tất
yếu nhằm hoàn thiện một nền kinh tế nặng về nông nghiệp.
1.1.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trờng.
Cùng với tốc độ phát triển nhanh, hiệu quả của nền kinh tế thế giới chúng

ta càng thấy rõ hơn vị trí và vai trò của loại hình DNVVN. Trong bối cảnh cạnh
tranh toàn cầu gay gắt nh hiện nay, DNVVN đã và đang tham gia hoạt động trong
hầu hết các lĩnh vực kinh tế với nhiều hình thức đa dạng, phong phú nên ngày
càng nhận đợc sự quan tâm, hỗ trợ của các Bộ, Ban ngành liên quan nhằm huy
động tối đa các nguồn lực trợ giúp cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm.
Tại các nớc công nghiệp phát triển cao nh Đức, Nhật bản, Mỹ mặc dầu
có nhiều công ty lớn nhng DNVVN vẫn có vai trò rất quan trọng. ở Nhật Bản ng-
ời ta coi DNVVN là một nguồn lực đảm bảo cho sức sống của nền kinh tế, là bộ
phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các doanh nghiệp
và số DNVVN chiếm tới 99% trong tổng số các doanh nghiệp trong nớc.
Đối với các nớc phát triển và chậm phát triển thì ngoài vai trò là một bộ
phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng tr-
ởng kinh tế, DNVVN còn có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, xoá đói giảm nghèo, giải quyết
những vấn đề xã hội.
Đối với các nớc ở Châu á nh Philippines, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia,
DNVVN còn có vai trò tích cực trong việc chống đỡ các tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính- tiền tệ, góp phần đáng kể vào sự ổn định kinh tế- xã hội và từng
bớc khôi phục nền kinh tế.
ở Việt Nam, do đặc điểm, tình hình và bối cảnh phát triển kinh tế của nớc
ta quy định nên sự có mặt các DNVVN là rất cần thiết để phát triển kinh tế. Nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho đất nớc chúng ta lạc hậu, kém phát
triển trong một thời gian dài, nhng những năm gần đây do đờng lối đúng đắn của
Đảng và Chính Phủ về phát triển kinh tế nên nhiều thành phần kinh tế có cơ hội
phát triển trong đó có DNVVN. Là một nớc có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn
so với các nớc trong khu vực và trên thế giới cộng với cơ sở vật chất kỹ thuật yếu
kém, trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý còn nhiều hạn chế nên việc phát
triển loại hình DNVVN là phù hợp nhất, việc tích tiểu thành đại sẽ giúp chúng
ta đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.

Sự phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế thị trờng góp phần quan
trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế- xã hội ở một số mặt:
Một là, các DNVVN đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân và tăng
trởng kinh tế.
Theo tính toán của các nớc thì DNVVN đóng góp rất lớn vào sự gia tăng
thu nhập quốc dân của các nớc, bình quân chiếm khoảng trên dới 50% GDP ở mỗi
nớc. ở Mỹ các DNVVN đóng góp hơn một nửa GDP năm 1994, Đức: 50%,
Indonesia: 38,9%, Malaysia: 50,5% GDP trong công nghiệp. ở một số nớc và
lãnh thổ, DNVVN tham gia hoạt động xuất khẩu và chiếm tỷ trọng đáng kể trong
kim ngạch xuất khẩu, từ 25- 40%. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý
TW Việt Nam thì hiện nay khu vực DNVVN của cả nớc chiếm khoảng 24%-25%
GDP.
Hai là, DNVVN tham gia cung cấp một khối lợng hàng hoá đáng kể cho xã
hội.
Từ lợi thế về quy mô vừa và nhỏ, DNVVN hoạt động trong hầu hết các lĩnh
vực, các ngành nghề kể cả các loại hàng hoá mang tính chất vùng, địa phơng. Với
nguồn lực sẵn có của địa phơng cùng với đội ngũ nhân công lành nghề của doanh
nghiệp, rất nhiều sản phẩm đợc ra đời đáp ứng nhu cầu của ngời tiêu dùng trong
và ngoài nớc.
Ba là, sự có mặt của các DNVVN đã tham gia giải quyết một số lợng lớn
chỗ làm việc cho dân c, làm tăng thu nhập cho ngời lao động, góp phần xoá đói,
giảm nghèo.
Mặc dù số lợng lao động của từng DNVVN không nhiều, nhng lại chiếm
một tỷ lệ lớn trong tổng số các doanh nghiệp, nên DNVVN thu hút lợng lao động
lớn của toàn xã hội, khoảng 50- 80%. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, khi các doanh
nghiệp lớn sa thải công nhân thì sự phát triển của các DNVVN lại thu hút thêm
nhiều công nhân đang thất nghiệp. Cũng theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản
lý kinh tế TW thì số lao động của các DNVVN ở Việt Nam trong các lĩnh vực phi
nông nghiệp hiện có khoảng 7,8 triệu ngời, chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động
phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lợng lao động của cả nớc.

ổn định đợc việc làm cũng có nghĩa ổn định nguồn thu nhập cho ngời lao
động, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân c, tạo ra sự
phát triển tơng đối đồng đều giữa các vùng của đất nớc và cải thiện mối quan hệ
giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
Bốn là, DNVVN có khả năng khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm
năng tại chỗ của các địa phơng, các nguồn tài chính trong dân.
Do tính chất nhỏ lẻ, quy mô vốn ban đầu không cần nhiều nên DNVVN có
thể đợc thành lập ở tất cả các địa phơng, tận dụng đợc những lợi thế ngay tại chỗ,
giảm chi phí sản xuất, tránh gây lãng phí nguồn lực sẵn có.
Khu vực DNVVN thu hút đợc khá nhiều vốn trong dân tham gia vào sản
xuất kinh doanh, góp phần làm tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Điều này đặc biệt
quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở các nớc đang phát
triển.
Năm là, hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động.
Cùng với việc phát triển các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn
các nhà kinh doanh sáng lập. Đây sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà kinh doanh
làm quen với môi trờng kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông
qua điều hành quản lý quy mô vừa và nhỏ, một số nhà doanh nghiệp sẽ trởng
thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn, tài ba, biết đa doanh nghiệp mình
nhanh chóng phát triển. Đây là lực lợng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản
xuất kinh doanh ở những nớc đang trong giai đoạn phát triển, trong đó có Việt
Nam.
Sáu là, tạo ra môi trờng cạnh tranh thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển
có hiệu quả hơn.
Sự tham gia của rất nhiều các DNVVN vào sản xuất kinh doanh làm cho số
lợng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính
cạnh tranh trên thị trờng, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp thờng xuyên đổi mới
mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lợng để thích ứng với môi trờng mới, để doanh
nghiệp tiếp tục tồn tại và phát triển. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền
kinh tế năng động và hiệu quả hơn.

Bẩy là, các DNVVN có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá- hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực
nông thôn.
Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc
đẩy các ngành thơng mại, dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNVVN ở
thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và làm
thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Tám là, các DNVVN góp phần đáng kể vào việc thực hiện đô thị hoá phi
tập trung.
Hệ thống DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút những ngời lao động thiếu hoặc
cha có việc làm và có thể thu hút số lợng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông
nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực lợng lao động làm nông
nghiệp chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ, nhng vẫn sống ngay tại quê h-
ơng, bản quán, không phải đi xa. Đồng thời hình thành các khu cơ sở sản xuất
ngay tại nông thôn, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê, thực
hiện quá trình đô thị hoá phi tập trung.
1.2 Sự cần thiết của TD ngân hàng đối với các DNVVN.
1.2.1 TD ngân hàng.
1.2.1.1 Khái niệm TD ngân hàng
Để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tiến hành liên tục, mỗi doanh nghiệp
cần có nguồn vốn ổn định. Tuy nhiên không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có
sẵn vốn nên họ thờng xuyên có nhu cầu huy động các nguồn vốn có thể, trong khi
đó một số doanh nghiệp, cá nhân khác lại đang d thừa một lợng tiền tệ, chính vì
vậy ngân hàng đã ra đời cùng với các hoạt động của nó, kết quả là nguồn lực của
xã hội đợc sử dụng một cách có hiệu quả.
Thông qua các hoạt động của ngân hàng, vốn đợc chuyển từ tay ngời này
sang tay ngời khác và ngân hàng sẽ đợc trả công cho vai trò ngời dẫn vốn bằng
phần chênh lệch giữa lãi suất của nghiệp vụ huy động và lãi suất của nghiệp vụ
cho vay- hai nghiệp vụ chủ yếu, truyền thống của ngân hàng, trong đó phần lợi

nhuận mà ngân hàng tạo ra nằm hầu hết ở nghiệp vụ cho vay hay còn gọi là
nghiệp vụ TD. Có thể nói rằng, TD là nghiệp vụ quan trọng nhất trong các hoạt
động của ngân hàng, chỉ khi ngân hàng thực hiện tốt nghiệp vụ này thì hoạt động
ngân hàng mới tiếp tục tồn tại và góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của nền kinh tế.
TD ra đời, tồn tại song song và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá.
TD nói một cách khái quát là quan hệ vay mợn, nói cụ thể hơn là quá trình mà
chủ nợ chuyển nhợng tạm thời một số tài sản trực tiếp dới hình thái vật chất hoặc
hình thái hàng hoá đợc tách thành tiền hoặc trực tiếp dới hình thái tiền tệ cho con
nợ sử dụng trong một thời hạn đã thoả thuận. Hết thời hạn, khoản vay đó đợc trả
lại cho chủ nợ kèm theo một khoản lợi tức.
Một trong những loại TD quan trọng trong nền kinh tế hiện nay là TD ngân
hàng, đó là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay và bên
đi vay trong đó ngân hàng vừa là ngời đi vay vừa là ngời cho vay, theo đó bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo
thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên
cho vay khi đến hạn thanh toán.
Các chủ thể tham gia vào TD ngân hàng rất phong phú và đa dạng với một
bên là ngân hàng, một bên là các TCKT, cá nhân, HTX .Các quan hệ TD giữa
các chủ thể TD đợc thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có lợi cho cả hai
bên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Từ bản chất là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả, TD ngân hàng
có các đặc trng:
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả về thời gian và giá trị, vì vậy quan hệ TD
đợc xây dựng trên cơ sở lòng tin giữa ngời đi vay và ngời cho vay. Đây là điều rất
cơ bản trong quản trị TD, tuy nhiên không phải bất kỳ cán bộ TD nào cũng nhận
thức rõ về điều này mà hiện nay hầu nh khi xét duyệt cho vay các cán bộ TD
không dựa vào tín nhiệm mà lại chú trọng đến các đảm bảo, đó cũng là nguyên
nhân chính tại sao d nợ TD với các DNVVN, đối tợng khách hàng chủ yếu hiện
của các ngân hàng vẫn còn hạn chế.

TD là quan hệ chuyển nhợng giá trị mang tính chất tạm thời. Chỉ sau một
thời hạn nhất định, giá trị chuyển nhợng đó sẽ quay lại với chủ sở hữu của nó
cộng thêm một khoản lợi nhuận đã thoả thuận.
Giá trị hoàn trả thông thờng phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là ngời đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
Trong quan hệ TD ngân hàng, tài sản giao dịch bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trớc đây, chỉ là cho
vay bằng tiền nên cho vay và TD đợc coi là đồng nghĩa nhng do sự phát triển của
nền kinh tế vì vậy các sản phẩm của ngân hàng cũng theo đó mà đa dạng, phong
phú hơn và hình thức cho thuê đã ra đời nhằm đáp ứng các nhu cầu của xã hội.
Cùng với tốc độ phát triển của nền kinh tế thị trờng với trình độ khoa học
ngày càng cao, đòi hỏi lợng vốn đầu t lớn, do đó TD ngân hàng ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Hình thức TD này khắc phục đợc hết những nhợc điểm của các
hình thức trớc đó, đáp ứng đợc sự phát triển của nền kinh tế. Do đó có thể nói, đây
là hình thức TD chủ yếu và quan trọng ở mỗi quốc gia hiện nay.
1.2.1.2 Các hình thức của TD ngân hàng

×