Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Cơ sở lý luận về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.35 KB, 32 trang )

Cơ sở lý luận về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền
kinh tế.
1/ Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng
tiền mặt (TTKDTM) trong nền kinh tế:
1.1 Sự cần thiết khách quan:
Thanh toán tiền tệ trong nền kinh tế diễn ra dới hai hình thức là thanh toán
bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu thanh toán bằng tiền mặt
có sự xuất hiện của tiền trong quá trình thanh toán thì thanh toán không dùng tiền
mặt không có sự xuất hiện của tiền trong quá trình thanh toán mà đợc tiến hành
bằng cách trích tiền từ tài khoản của ngời chi trả chuyển vào tài khoản của ngời
thụ hởng; hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của Ngân
hàng.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của lu thông, trao đổi hàng hoá, cũng từ sau
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI. Với sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh
tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng, hoạt động
của nền kinh tế đã trở nên sôi động hơn với nhiều loại hình kinh doanh thuộc
nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị
trờng ngày càng mở rộng.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đã khẳng định: Hệ thống
Ngân hàng cần phải vơn lên làm tốt chức năng trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh
toán của các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội,
thúc đẩy sản xuất phát triển. Góp phần từng bớc ổn định giá trị đồng tiền Việt
Nam.
Là một ngành có vai trò Trung tâm trong toàn bộ nền kinh tế, Ngân hàng
phải đi trớc các ngành kinh tế khác trong cuộc đổi mới và phát triển của đất nớc.
Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 của Đảng ta đã khẳng
định là: Phải cải tổ hệ thống Ngân hàng hoạt động có hiệu quả, thực sự trở thành
Trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán, đóng vai trò nòng cốt trên thị trờng vốn
và tiền tệ.
Thanh toán KDTM ra đời là do chính đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh
tế. Sản xuất hàng hoá phát triển qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao. Nhng ở giai


đoạn nào thì tiền tệ vẫn đóng vai trò là một công cụ có tầm quan trọng lợi hại đặc
biệt và có độ nhạy rất cao. Việc sử dụng công cụ tiền tệ nh thế nào sẽ gây tác
động dây truyền nh là một tác nhân kinh tế đối với từng mắt xích hoặc có khi đối
với các quá trình kinh tế. Trong các học thuyết kinh tế, ngời ta đã xác định Ngân
hàng có vai trò là Trung tâm thanh toán của hệ thống Ngân hàng ngày càng rõ nét
và to lớn. Tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn, trong đó tồn tại các quan
hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ và do đó phát sinh quan hệ thanh toán.
Mặt khác, tập trung thanh toán vào nguồn hàng là một vấn đề thiết yếu đối
với mỗi doanh nghiệp và các tầng lớp dân c trong điều kiện nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng là nơi tập trung một khối lợng tiền tệ trong nền kinh tế, số tồn tài
khoản này là Ngân hàng cho các tổ chức kinh tế trong nớc để tiến hành mở rộng
công ăn việc làm, kinh doanh buôn bán. Trong nền kinh tế hiện đại, Ngân hàng
kiểm soát và điều động một cách lợp lý khối lợng tiền tệ, chịu ảnh hởng của mọi
chính sách phát triển kinh tế quốc gia. Tập trung công tác thanh toán vào Ngân
hàng có một ý nghĩa to lớn không chỉ đối với xã hội, Chính phủ mà còn với cả các
doanh nghiệp và các tầng lớp dân c.
Ngân hàng đứng trên phơng diện rộng lớn. Nó phản ánh kinh tế của một
nớc. Nhìn vào những hoạt động và trình độ công nghệ của các nghiệp vụ trong
Ngân hàng ta có thể đánh giá đợc trình độ phát triển kinh tế của nớc đó. Hệ thống
Ngân hàng phát triển mạnh mẽ sẽ tạo ra động lực cho mọi ngành kinh tế khác
trong nớc phát triển và ngợc lại.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá thanh toán bằng tiền mặt
ngày càng bộc lộ nhiều nhợc điểm. Các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng, phức tạp,
thanh toán không ngừng tăng lên về khối lợng và chất lợng. Nh vậy, chính với sự
phát triển của nền sản xuất và lu thông hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời của một ph-
ơng thức thanh toán mới u việt hơn.
Đó là: Phơng thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt là một nấc thang phát triển tất yếu của
nghiệp vụ thanh toán trong nền kinh tế thị trờng và chính nó đã từng bớc đáp ứng
đợc yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.

1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị
trờng:
Khi thanh toán không dùng tiền mặt ra đời đã khắc phục đợc những nhợc
điểm của thanh toán bằng tiền mặt và phát huy đợc vai trò to lớn đối vơí sản xuất,
lu thông hàng hoá; tiết kiệm chi phí lu thông; góp phần tăng nguồn vốn cho Ngân
hàng và tăng quản lý vĩ mô đối với hoạt động thanh toán trong nền kinh tế.
Công tác thanh toán là một trong những chức năng Trung tâm của Ngân
hàng Nhà nớc. Theo đà phát triển chung của xã hội và hệ thống Ngân hàng, thanh
toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên quan trọng.
Ngày nay thanh toán không dùng tiền mặt là một phần không thể tách rời
các doanh nghiệp, các cá nhân và các đoàn thể - Trong nền kinh tế thị trờng, thanh
toán không dùng tiền mặt đợc thực hiện trôi chảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực
cho các đối tác tham gia.
- Thứ nhất: Tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong lu chuyển
hàng hoá tiền tệ góp phần làm giảm lợng tiền mặt trôi nổi trên thị trờng, tiết kiệm
đợc chi phí xã hội gắn liền với việc in tiền, huỷ tiền, h hỏng, bảo quản, kiểm
đếm
Khối lợng tiền cần thiết để thanh toán trong lu thông có mỗi quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt tăng sẽ làm giảm khối lợng
tiền mặt cần thiết. Vì vậy khối lợng tiền mặt trong lu thông giảm xuống, sẽ giảm
đợc chi phí lu thông, mà chủ yếu là chi phí phát hành, bảo quản, kiểm điểm, cất
giữ.v.v Giảm đ ợc chi phí này sẽ tạo đều kiện tốt để điều hoà lu thông tiền tệ vì
quá trình thanh toán này chịu giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của Ngân hàng Nhà
nớc. Vì vậy mà chúng ta kế hoạch và điều hoà lu thông tiền tệ.
- Thứ hai: Thanh toán không dùng tiền mặt phục vụ sản xuất và lu thông
hàng hoá. Bất kỳ một chu kỳ sản xuất và lu thông hàng hoá nào đều bắt đầu bằng
khâu thanh toán. Do vậy, phải tổ chức thanh toán nhanh gọn, chính xác vừa đảm
bảo an toàn về vốn. Đứng ở tầm vĩ mô, khâu thanh toán ảnh hởng trực tiếp đến
hiệu quả sử dụng vốn, đến kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Nếu nh thanh toán đợc tiến hành trôi chảy sẽ giúp cho lu thông hàng hoá thông

suốt, các hoạt động của nền kinh tế sẽ tiến hành thuận lợi.
Để tiến hành thanh toán qua Ngân hàng, các tổ chức, cá nhân phải mở tài
khoản tiền gửi thanh toán thông qua việc gửi một khoản tiền nhất định vào Ngân
hàng. Tính chất của tài khoản này là luôn d có, đó là nguồn vốn huy động tạm
thời tồn đọng trên các tài khoản tiền gửi thanh toán nhng cha sử dụng đến. Hơn
nữa, xuất phát từ khách không liên tục của việc nộp tiền bán hàng hoá, dịch vụ
vào tài khoản và việc chi trả từ tài khoản, do không phải lúc nào các lệnh chi trả
cùng một lúc với giá trị nh nhau. Nên trên tài khoản luôn lu ký một số chủ nhất
định. Đây là nguồn vốn tín dụng khá lớn và có chi phí thấp (vì trả lãi thấp), mà
Ngân hàng đợc phép sử dụng để mở rộng đầu t và tín dụng cho nền kinh tế. (sau
khi duy trì một tỷ lệ nhất định để đảm bảo chi trả cho chủ tài khoản trong mọi tr-
ờng hợp).
- Thứ ba: Thanh toán không dùng tiền mặt giúp Ngân hàng và các tổ chức
tín dụng tập trung đợc nguồn vốn nhàn rỗi trong dân c vào nền kinh tế để mở rộng
việc cấp tín dụng cho Ngân hàng.
Nh đã đề cập trong vai trò thứ hai, Ngân hàng có thể sử dụng một phần
nguồn vốn từ tài khoản tiền gửi thanh toán để cho vay, mở rộng việc cấp tín dụng
cho nền kinh tế.
Chỉ tiêu kế hoạch tín dụng tổng hợp là một trong những chỉ tiêu kế hoạch
quan trọng nền kinh tế, mà kế hoạch tín dụng muốn thực hiện đợc tốt thì phải đẩy
mạnh công tác thanh toán qua Ngân hàng. Việt thanh toán này diễn ra càng nhanh
chóng thì sẽ giải phóng nhanh vốn trong khâu thanh toán, kết quả là tạo ra nguồn
vốn nhàn rỗi lớn thì đẩy mạnh hoạt động cho vay của Ngân hàng và cuối cùng là
tạo điều kiện để kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.
Xu hớng trong thời gian tới khối lợng thanh toán sẽ tiếp tục tăng nhanh,
do vậy nguồn vốn tiền gửi thanh toán sẽ chiếm đoạt tỷ trọng đáng kể trong toàn
bộ cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng.
- Thứ t: Thanh toán qua Ngân hàng đã và đang trở thành công cụ cạnh
tranh có hiệu quả của các Ngân hàng nhằm thu hút khách hàng. Điều này thể hiện
trên hai khía cạnh sau:

+ Về dịch vụ Ngân hàng:
Mục đích của khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng không chỉ để hởng lãi
mà còn để mua các dịch vụ Ngân hàng và dịch vụ dần sẽ trở thành mục đích chính
của khách hàng. Vì vậy sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng đợc
đo bằng số lợng và chất lợng các dịch vụ Ngân hàng trong đó có dịch vụ thanh
toán.
+ Về chi phí Ngân hàng:
Lãi suất Ngân hàng phải trả cho số d trên tài khoản tiền gửi thanh toán là
rất thấp. Thậm chí một số nớc trên thế giới ngời gửi tiền không đợc hởng lãi trên
số d tài khoản tiền gửi thanh toán. Vì vậy Ngân hàng có thể lợi dụng việc mở rộng
thanh toán không dùng tiền mặt nh một giải pháp hữu hiệu để thay đổi cơ cấu
nguồn vốn theo xu hớng tăng tỷ trọng nguồn vốn có chi phí thấp, giảm tỷ trọng
nguồn vốn có chi phí cao. Bên cạnh đó, thông qua việc quản lý trong biến động về
số d trên tài khoản tiền gửi Ngân hàng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát
hoạt động, khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Đây là cơ sở rất quan trọng
để Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ t vấn, đầu t có hiệu quả.
- Thứ năm: Vai trò đối với quản lý vĩ mô của Nhà nớc, Ngân hàng là tổ
chức kinh tế thông qua các chính sách của Nhà nớc về tiền tệ, tín dụng và thanh
toán đợc thực hiện. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nớc qua các Ngân hàng chỉ
thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi phần lớn khối lợng thanh toán tập trung qua
các Ngân hàng. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân
hàng Nhà nớc quản lý một cách tổng thể quá trình sản xuất và lu thông hàng hoá.
2/ Quá trình phát triển của nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền
mặt ở Việt Nam:
2.1. Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kinh tế kế hoạch
hoá tập trung.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp nền kinh tế đợc thực
hiện theo cơ chế hành chính mệnh lệnh từ trên giao xuống cho các doanh nghiệp
sản xuất và thơng nghiệp làm công việc phân phối tiêu thụ hàng hoá. Do vậy sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm trong xã hội tốt hay xấu cũng không ảnh hởng gì đến

nền kinh tế bao cấp này. Hoạt động của Ngân hàng cũng đợc thực hiện theo cơ
chế đó cho nên hiệu quả kinh tế của Ngân hàng cũng nh toàn bộ nền kinh tế
không đợc quan tâm nhiều.
Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kế hoạch hoá đợc thực hiện
theo Nghị định 75/NĐ - CP. Với nguyên tắc cứng nhắc, kém hiệu quả - cụ thể ph-
ơng thức thanh toán lòng vòng, chậm chạp (một khoản chuyển tiền thanh toán chi
trả tiền hàng khi thực hiện phải mất nhiều thời gian từ 5-10 ngày). Vì công cụ
thanh toán kém linh hoạt, thủ tục phức tạp, các phơng tiện làm việc lạc hậu, công
cụ thanh toán nói trên dẫn đến tốc độ luân chuyển vốn chậm chạp, thiếu chính
xác, cung cấp thông tin không kịp thời và không đảm bảo quyền lợi cho các bên
tham gia thanh toán làm ảnh hởng đến tốc độ và kéo dài chu kỳ sản xuất và lu
thông hàng hoá.
Ngoài công cụ thanh toán nghèo nàn Ngân hàng còn có qui định cho các
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế chỉ đợc mở tài khoản tiền gửi tại đại phơng
mình hoạt động (cùng địa phơng). Khách hàng không đợc tự do lựa chọn Ngân
hàng dẫn đến không có sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp việc thanh toán
không dùng tiền mặt ở nớc ta tuy đã đợc áp dụng khá rộng rãi trong nền kinh tế
nhằm giảm bớt lợng tiền mặt đi vào lu thông bằng cách Ngân hàng đã qui định
cho các doanh nghiệp định mức tồn quĩ tiền mặt, định mức tạo chi nh ng vấn
kém hiệu quả, cụ thể những năm đó lợng tiền mặt trong lu thông rất lớn, Ngân
hàng ở trong tình trạng khan hiếm tiền mặt, nh vậy Ngân hàng vẫn cha làm tốt
chức năng thanh toán của mình để giúp cho nền kinh tế phát triển. Ngân hàng đợc
xây dựng theo mô hình một cấp gồm Ngân hàng Nhà nớc và các chi nhánh vừa
thực hiện chức năng kinh doanh hoạt động theo phơng thức kế hoạch hoá tập
trung từ trên xuống dới.
2.2. Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần.
Để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, với xu hớng toàn cầu hoá nền kinh
tế, thì nền kinh tế của nớc ta phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung

sang nền kinh tế thị trờng. Do vậy mà đòi hỏi ngành Ngân hàng phỉ tiến hành sửa
đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chế độ, thể lệ thanh toán và áp dụng tiến bộ khoa
học vào kỹ thuật thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp và đáp ứng đợc yêu
cầu đa dạng hoá của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trởng ban hành Nghị định 53 về tổ chức bộ
máy Ngân hàng. Theo Nghị định này hệ thống Ngân hàng bắt đầu đợc chia thành
hai cấp.
+ Cấp quản lý: Là Ngân hàng Nhà nớc có chức năng độc quyền phát triển
tiền, quản lý Nhà nớc trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trên tầm quản lý vĩ
mô.
+ Cấp kinh doanh: Là các Ngân hàng chuyên doanh thuộc sở hữu của
Nhà nớc và vẫn trực thuộc Ngân hàng Trung ơng. Các Ngân hàng này có chức
năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng.
Sau khi hai Pháp lệnh ra đời ngày 23/05/2990 đã đáp ứng nhu cầu phát
triển của nền kinh tế thị trờng là lần lợt các Ngân hàng thơng mại, Ngân hàng cổ
phần đợc thành lập, chi nhánh Ngân hàng nớc ngoaì Năm 1990 hệ thống Kho
bạc ra đời mà chức năng quản lý ngân quĩ ngân sách Nhà nớc. Bắt đầu của thời kỳ
thanh toán không dùng tiền mặt đợc thực hiện bằng Quyết định 101/NH-QĐ ngày
30/7/1991 Quyết định này ban hành các thể lệ chế độ thanh toán không dùng tiền
mặt bằng bốn công cụ sau:
- Séc.
- Uỷ nhiệm chi - chuyển tiền.
- Uỷ nhiệm thu.
- Thẻ tín dụng.
Sau một thời gian thực hiện bốn công cụ trên cha đáp ứng đợc đầy đủ nhu
cầu đa dạng hoá của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trờng. Để đáp
ứng nhu cầu cấp bách của thị trờng Ngân hàng Nhà nớc đã bổ sung và ra Quyết
định số 22/QĐ-NH1 ngày 22/02/1994 theo Quyết định này đã bổ sung thêm hai
công cụ thanh toán mới đó là:
- Ngân phiếu thanh toán.

- Thẻ thanh toán.
Ngày 01/4/1997 Thủ tớng Chính phủ có Quyết định 196/TTg về việc cho
phép Ngân hàng, tổ chức tín dụng đợc sử dụng dữ liệu thông tin trên vật mang tin
để làm chứng từ kế toán và thanh toán. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, tạo bớc
khởi đầu cho việc thực hiện chuyển tiền điện của hệ thống Ngân hàng phát triển.
Riêng thanh toán bằng séc đã đợc bổ sung thêm séc cá nhân nhằm thu hút
và tạo điều kiện cho ngời dân quen dần với công việc thanh toán qua Ngân hàng.
Sau đó ngày 09/5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 30/CP về việc sử dụng séc
mới trong cả nớc áp dụng kể từ ngày 01/4/1997 thay thế cho các loại séc cũ. Việc
áp dụng công cụ thanh toán mới đã đáp ứng đợc những yêu cầu thanh toán đa
thành phần trong nền kinh tế, mọi tổ chức cá nhân trong nền kinh tế đều có tể
tham gia trực tiếp thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng nhằm thúc đẩy
sản xuất hàng hoá, dịch vụ phát triển, góp phần phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, thu hút vốn đầu t nớc ngoài.
Từ khi đổi mới chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở nớc ta đã có
nhiều chuyển biến tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điều này đợc chứng minh
ở các mặt sau:
- Qua các công cụ thanh toán liên hàng giữa các Ngân hàng trong toàn
quốc và thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng đã có bớc tiến bộ rõ rệt.
Từ khi áp dụng kỹ thuật máy vi tính để thanh toán liên hàng, tiến tới thanh toán
điện tử thực hiện từ ngày 01/7/1996 trong toàn hệ thống Ngân hàng công nghiệp,
nông nghiệp Việt Nam. Khi thanh toán điện tử các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đợc
hoàn tất trong một ngày làm việc. Trờng hợp khách hàng yêu cầu chuyển nhanh
và hoàn tất trong thời gian từ 1-3h (khách hàng phải chịu chi phí dịch vụ khẩn
theo qui định).
- Qua thanh toán bù trừ: Các Ngân hàng thơng mại, tổ chức tín dụng, Kho
bạc khi tham gia thanh toán bù trừ đợc giao nhận chứng từ hai phiên trong ngày
qua trả mềm (tại Ngân hàng chủ trì là Ngân hàng Nhà nớc).
- Qua chuyển tiền điện tử: Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc đã ban hành
Quyết định số 353/1997/QĐ-NHNN

2
ngày 22/10/1997 ban hành Quy chế chuyển
tiền điện tử, từ đây Ngân hàng Nhà nớc, các Ngân hàng thơng mại Nhà nớc và
một số NHTM cổ phần có mạng lới hoạt động rộng đã xúc tiến xây dựng riêng
cho mình một hệ thống thanh toán nội bộ - chuyển tiền điện tử trong hệ thống, và
đa vào thực hiện từ đầu năm 1999.
Việc áp dụng thanh toán điện tử, thanh toán bù trừ, chuyển tiền điện tử
làm tăng nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt thời gian chiếm dụng vốn, mức độ an
toàn cao. Tiện lợi cho các khách hàng, rút ngắn thời gian chu chuyển vốn của
doanh nghiệp và cá nhân.
- Bổ sung hai công cụ thanh toán mới: Ngân phiếu thanh toán và thẻ thanh
toán, sửa đổi một số qui định trong các công cụ thanh toán truyền thống lạc hậu
cho thấy rõ Ngân hàng đã làm tốt chức năng thanh toán, đáp ứng yêu cầu đổi mới
của nền kinh tế nhiều thành phần.
- Việc Ngân hàng từng bớc áp dụng công nghệ tin học tiên tiến vào thanh
toán nhằm hạn chế sai sót nhỏ của thao tác thủ công, tăng nhanh tốc độ luân
chuyển nhằm thu hút khách hàng, tạo lòng tin của Ngân hàng đối với doanh
nghiệp và cá nhân. Đồng thời cũng nâng cao trình độ của ngành Ngân hàng trong
nớc tiến kịp các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
- Việc khách hàng đợc tự do lựa chọn Ngân hàng để hoạt động đã tạo điều
kiện mở rộng mạng lới thanh toán không dùng tiền mặt. Để thu hút đợc nhiều
khách hàng Ngân hàng phải nâng cao uy tín của mình bằng chất lợng hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng trên thơng trờng.
Xuất phát từ sự đổi mới này, thanh toán không dùng tiền mặt ở nớc ta, đặc
biệt sau Quyết định 22/QĐ-NH đã tăng nhanh về số lợng, chất lợng và các thành
phần tham gia. Nh vậy lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt đã không ngừng
đợc mở rộng ở mọi thành phần kinh tế. Việc nâng cao và cải tiến áp dụng khoa
học kỹ thuật thanh toán luôn là khâu mấu chốt quan trọng để Ngân hàng đảm bảo
thanh toán nhanh, an toàn, rút ngắn thời gian thanh toán, chính xác tiện lợi, góp
một phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới kinh tế thị trờng của đất nớc. Qua đó

nó cũng tỏ rõ u thế hơn hẳn của thanh toán không dùng tiền mặt so với thanh toán
bằng tiền mặt.
Qua đó ta thấy việc thanh toán xuất hiện từ khi có hệ thống Ngân hàng ra
đời và lúc đó phơng thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng xuất hiện, nhng
trong từng thời kỳ kinh tế khác nhau thì phơng thức thanh toán cũng khác nhau:
Cụ thể là các phơng thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng hiện đại hơn,
nhanh chóng, chính xác hơn so với thời kỳ trớc.
Tuy nhiên việc thanh toán không dùng tiền mặt cũng phải là những qui
định mang tính nguyên tắc cụ thể.
3/ Những qui định mang tính nguyên tắc về thanh toán không dùng
tiền mặt ở Việt Nam:
Hiện nay ở nớc ta thanh toán không dùng tiền mặt đợc thực hiện theo
Quyết định số 22/QĐ-NH
1
ngày 21/02/1994 và thông t hớng dẫn số 08/TT-NH
2
ban hành ngày 02/6/1994 và mới đây là Nghị định 30/CP ngày 09/5/1996 của
Chính phủ và thông t 07/TT - NH
1
ngày 27/12/1996 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nớc Việt Nam hớng dẫn qui chế phát hành và sử dụng séc. Trong đó có các
qui định:
3.1. Quy định chung:
các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể Công dân Việt Nam và
ngời nớc ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam (gọi chung là đơn vị hay cá
nhân) đều có quyền lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện
thanh toán.
Với qui định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá
trình kinh doanh, họ sẽ tìm thị trờng thuận lợi nhất để hoạt động, lựa chọn những
Ngân hàng có uy tín, chất lợng và phục vụ tốt nhất cho nhu cầu thanh toán của họ.

Từ đó tạo cho khách hàng có điều kiện mở rộng mạng lới kinh doanh của mình
trên toàn quốc mà vẫn tiến hành giao dịch thanh toán chi trả một cách thuận lợi,
nhanh chóng và an toàn.
Đối với Ngân hàng qui định này đòi hỏi mỗi một Ngân hàng phải thờng
xuyên, đổi mới, hoàn thiện dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt bằng cách
phải đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và sử dụng máy vi tính thành thạo để nắm
đợc những kỹ thuật tiên tiến và cũng phải có trình độ ngoại ngữ nhất định để có
thể giao dịch đợc với khách hàng, bên cạnh đó thái độ phục vụ khách hàng của
cán bộ nhân viên rất quan trọng, cán bộ nhân viên phải nhiệt tình, hớng dẫn đơn vị
và cá nhân làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt theo đúng chế độ ban
hành. Nhằm nâng cao uy tín của Ngân hàng trên thị trờng và thu hút ngày càng đ-
ợc nhiều khách hàng hơn, Ngân hàng phải làm thế nào đó để khách hàng không
quên đợc Ngân hàng.
3.2. Quy định đối với khách hàng:
3.2.1 Quy định đối với bên mua (bên phải trả):
Để thực hiện thanh toán đầy đủ, kịp thời, các chủ tài khoản (bên trả tiền)
phải có đủ số d trên tài khoản. Mọi trờng hợp thanh toán vợt quá số d trên tài
khoản tiền gửi tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nớc là vi phạm chế độ thanh toán và
phải xử lý theo pháp luật.
Quy định này nhằm tránh tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các
bên tham gia thanh toán, giúp cho ngời chi trả cũng nh ngời thụ hởng chủ động
vốn của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần tăng nhanh vòng
quay vốn của các đơn vị kinh tế cũng nh tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong
toàn bộ nền kinh tế.
3.2.2 Quy định đối với bên bán (bên thụ hởng).
Ngời thụ hởng khi nhận đợc các chứng từ thanh toán phải kiểm tra tính
hợp pháp, hợp lệ của chứng từ này (ghi đầy đủ mọi yếu tố quy định, không sửa
chữa, tẩy xoá các chữ ký và dấu phải đúng với mẫu chữ ký đã đăng ký ở Ngân
hàng). Nộp các chứng từ thanh toán vào Ngân hàng đúng với thời gian qui định
cho từng loại chứng từ. Nếu thiếu một trong các điều kiện trên, giấy tờ thanh toán

sẽ không hợp lệ, không có giá trị thanh toán.
Quy định này nhằm bảo vệ an toàn tài sản cho các khách hàng kể cả ngời
chi trả, ngời thụ hởng và Ngân hàng tránh tình trạng sơ hở để kẻ gian lợi dụng
tham ô.
3.3. Quy định đối với Ngân hàng (ngời thực hiện thanh toán):
Ngân hàng thơng mại và Kho bạc Nhà nớc có trách nhiệm thực hiện các
uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài khoản, đảm bảo chính xác, kịp thời, an toàn,
thuận tiện. Các Ngân hàng thơng mại và Kho bạc Nhà nớc có trách nhiệm chi trả
bằng tiền mặt hay chuyển khoản trong phạm vi số d tài khoản tiền gửi theo yêu
cầu của chủ tài khoản.
Ngân hàng thơng mại và Kho bạc Nhà nớc có trách nhiệm kiểm tra khả
năng thanh toán của chủ tài khoản (bên trả tiền) trớc khi thực hiện việc thanh
toán. Đồng thời đợc quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền hoặc
chứng từ thanh toán không đầy đủ các yêú tố qui định.
Ngân hàng thơng mại hay Kho bạc Nhà nớc không chịu trách nhiệm về
nội dung liên đới của hai bên khách hàng. Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh
toán gây thiệt hại cho khách hàng thì Ngân hàng và Kho bạc Nhà nớc phải bồi th-
ờng thiệt hại tuỳ theo mức độ.
- Ngân hàng thơng mại và Kho bạc Nhà nớc chỉ cung cấp số liệu trên tài
khoản khách hàng cho các cơ quan bên ngoài khi có văn bản của cơ quan có thẩm
quyền theo qui định của Pháp luật.
- Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng đợc
thu phí theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc.
Quy định này đã hoàn toàn xoá bỏ mặc cảm trớc đây của khách hàng về
thanh toán Ngân hàng, tạo sự tin tởng tuyệt đối của khách hàng khi mà họ có số l-
ợng vốn không nhỏ giữ tại Ngân hàng và uỷ quyền cho Ngân hàng thanh toán.
Quy định cũng phân biệt trách nhiệm vật chất, pháp lý rõ ràng giữa Ngân
hàng và khách hàng khi một trong hai bên vi phạm chế độ thanh toán, nhằm đảm
bảo quyền lợi cho khách hàng và qui định những khoản phí mà họ phải trả cho
Ngân hàng khi thực hiện thanh toán. Việc thu phí dịch vụ thanh toán làm tăng

khoản thu nhập của Ngân hàng.
Để thực hiện thanh toán phải có các hình thức thanh toán thích hợp. Hệ
thống các hình thức thanh toán do Ngân hàng Nhà nớc ban hành để áp dụng thống
nhất trong toàn bộ nền kinh tế.
4/ Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đợc áp dụng ở nớc
ta hiện nay:
Nền kinh tế ngày càng phát triển, nhận thức cũng nh đời sống của ngời
dân ngày càng cao, để đáp ứng đợc nhu cầu đa dạng của các mối quan hệ xã hội,
trong quá trình hoạt động kinh tế, ngày nay hầu hết các Ngân hàng đã và đang
từng bớc cải tiến lại toàn bộ hoạt động của Ngân hàng, cả về tổ chức bộ máy tình
hình hoạt động và bên cạnh đó là các phơng thức thanh toán cụ thể, với thời đại
tin hoặc hoá vào khâu thanh toán song song với việc thực hiện áp dụng khoa học
kỹ thuật, ngành Ngân hàng cũng ra sức hoàn thiện các hình thức thanh toán không
dùng tiền mặt sao cho mang lại kết quả cao nhất.
Thanh toán không dùng tiền mặt đợc hiểu một cách đơn giản là trong quá
trình thanh toán không có sự xuất hiện của tiền.
Thanh toán không dùng tiền mặt là phơng thức thanh toán có nhiều u
điểm. Nó đợc áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới. ở Việt Nam thanh toán không
dùng tiền mặt đợc áp dụng trong Ngân hàng kể từ khi Ngân hàng mới đợc thành
lập. Để phù hợp với yêu cầu đổi mới nền kinh tế và đổi mới hoạt động Ngân hàng
theo cơ chế thị trờng, trớc đây theo Quyết định số 22/QĐ-NH
1
ban hành ngày
21/02/1994 và hiện nay theo Nghị định 30/CP của Chính phủ ban hành ngày
09/5/1996 Ngân hàng đã áp dụng các hình thức sau: Hiện nay có Việt Nam sử
dụng 6 hình thức thanh toán là:
- Thanh toán bằng séc.
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền.
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu.
- Thanh toán bằng thẻ tín dụng.

- Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán.
- Thanh toán bằng thẻ thanh toán.
4.1. Thanh toán bằng séc:
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản đợc lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà
nớc qui định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi
thanh toán của mình để trả cho ngời thụ hởng có tên ghi trên séc hoặc ngời cầm
séc.
Séc đợc chia ra séc ký danh và séc vô danh. Séc ký danh là séc có ghi họ
tên, địa chỉ ngời thụ hởng trên tờ séc. Séc vô danh là séc không ghi họ tên, ngời
thụ hởng trên tờ séc.
Séc có thể đợc chuyển nhợng, tức là ngời thụ hởng ghi trên séc có thể
chuyển nhợng cho ngời khác đợc thụ hởng số tiền ghi trên séc và trong phạm vi
thời hạn hiệu lực của tờ séc. Nếu trên séc có cụm từ không đợc phép chuyển nh-
ợng hay cụm từ không tiếp tục chuyển nhợng thì séc không đợc chuyển nhợng
cho ngời thụ hởng khác.
Thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày theo lịch kể từ ngày ký phát hành séc
đến ngày ngời thụ hởng séc vào đơn vị thanh toán séc (tổ chức tín dụng, Kho bạc
Nhà nớc). Nếu ngày nộp trùng vào ngày chủ nhật hay ngày nghỉ lễ, tết thì ngày
nộp đợc chuyển vào ngày tiếp theo sau ngày nghỉ.
Séc đợc dùng chung cho pháp nhân (các đơn vị, tổ chức doanh nghiệp và
thể nhân, (cá nhân) và đợc dùng để lĩnh tiền mặt, thanh toán chuyển khoản là bảo
chi séc.
Trong đó séc chuyển khoản và xéc bảo chi là séc thanh toán không dùng
tiền mặt.
+ Nếu séc dùng để thanh toán chuyển khoản (séc chuyển khoản) thì ở mặt
trớc tờ séc (góc phía bên trái tờ séc) phải gạch 2 đờng thẳng song song bằng thớc,
hoặc ghi dòng chữ chuyển khoản.
+ Nếu bảo chi séc (séc bảo chi) thì ngời phát hành séc phải đến đơn vị
thanh toán séc làm thủ tục bảo chi trên tờ séc bằng cách trích tiền từ tài khoản tiền
gửi thanh toán chuyển sang tài khoản Đảm bảo thanh toán séc bảo chi sau đó

mới trao séc cho ngời thụ hởg.

×