Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN VỐN TẠI NGÂN HÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO HÀ TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.69 KB, 28 trang )

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG VỐN VỐN TẠI NGÂN HÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO HÀ TÂY
I/ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI .
1. Quan điểm xoá đói giảm nghèo của tỉnh.
Để có thể thực hiện tốt các mục tiêu và phương hướng đề ra chúng ta cần có
những quan điểm chỉ đạo sát sao. Tập hợp những quan điểm đó sẽ tạo thành một hệ
quan điểm thống nhất cho các hoạt động xoá đói giảm nghèo của các đoàn thể.
Những quan điểm đó là:
1.1. Xoá đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài vừa là mục tiêu
trước mắt.
Xoá đói giảm nghèo là vấn đề cơ bản vừa có tính chiến lược cơ bản lâu dài
vừa là vấn đề cấp bách trước mắt, trong những năm tới phải tập trung ưu tiên cho
các đối tượng ở nông thôn: Những người nghèo đói nhất là những người thuộc diện
chính sách ưu đãi; những người ở vùng núi cao; đồng bào dân tộc ít người.
Nhà nước cần có những chương trình quốc gia về việc làm và lập quỹ quốc
gia về xoá đói giảm nghèo để hỗ trợ cho các đối tượng trên đồng thời phải tiến
hành có trọng tâm, trọng điểm, phải hình thành hệ thống tổ chức từ trung ương đến
cơ sở. Để thực hiện công tác này mỗi giai đoạn lịch sử diện nghèo đói có giảm
nhưng luôn tồn tại một số người sống dưới mức trung bình của cộng đồng. Bởi vậy
nhà nước phải có chiến lược, kế hoạch lâu dài để giải quyết vấn đề này trên phạm
vi toàn quốc.
1.2. Xoá đói giảm nghèo gắn liền với phát triển kinh tế đi đôi với giữ vững
ổn định kinh tế chính trị.
Như đã nói ở trên đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không đáp ứng
nổi những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hay dưới mức trung bình. Rõ ràng đói nghèo
không chỉ là một hiện tượng kinh tế mà còn là một hiện tượng xã hội. Nó tồn tại
như là một cản trở đối với sự phát triển kinh tế của mỗi vùng, mỗi quốc gia. Đói
nghèo ảnh hưởng tới toàn bộ xã hội, ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội đặc biệt là
quan hệ của các tầng lớp dân cư sống dưới mức nghèo khổ. Đói nghèo dẫn tới các
tệ nạn xã hội có tính chất lây lan. Nó làm cho xã hội mất ổn định, chính điều này
ảnh hưởng tới chính trị, gây ra các hoạt động và các hậu quả tiêu cực đặc biệt là


hiện tượng phân hoá giàu nghèo.
1.3. Xoá đói giảm nghèo đảm bảo sự kết hợp thống nhất kinh tế với xã hội,
giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Xuất phát từ nhận thức: Đói nghèo không chỉ là một hiện tượng kinh tế mà
còn là một hiện tượng xã hội, vì vậy để xoá đói giảm nghèo có hiệu quả đòi hỏi
phải có sự liên kết hữu cơ các tác động kinh tế với các tác động xã hội. Xoá đói
giảm nghèo không thể giải quyết được bằng quan hệ kinh tế thuần tuý hay quan
điểm duy ý chí về mặt xã hội. Muốn trợ giúp cho người nghèo phát triển thì chúng
ta không thể cứ bao cấp mãi cho họ để họ sống mà cái chính là phải giúp đỡ họ
bằng vốn, kiến thức, nghề nghiệp, phải hướng dẫn họ cách thức sản xuất.
Thực tế cho thấy nhiều hộ gia đình đã vay được vốn nhưng không biết cách
sản xuất, sử dụng đồng vốn vay chỉ nhằm mục đích tiêu ding do đó mất hết khả
năng chi trả và kết cục đói nghèo vẫn hoàn đói nghèo. Vì vậy đi đôi với đầu tư phát
triển kinh tế chúng ta vẫn đặc biệt quan tâm tới vấn đề xã hội có như vậy mới xoá
đói giảm nghèo một cách bền vững.
1.4. Xoá đói giảm nghèo dựa trên cơ sở khai thác mọi tiềm năng kinh tế
trong nước và hợp tác kinh tế quốc tế.
Để xoá đói giảm nghèo cần khai thác mọi tiềm năng trong nước trên cơ sở
phát triển mạnh mẽ nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, với những nền sản
xuất kinh doanh dịch vụ đa dạng đan xen và hỗ trợ nhau, vừa hợp tác vừa cạnh
tranh, hình thành trên một thị trường thống nhất và linh hoạt, không bị chia cắt bởi
các yếu tố địa lý và hành chính.
Ngoài việc phát huy mọi tiềm năng trong nước, trong dân, còn phải tranh thủ
và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào các chương trình
và dự án xoá đói giảm nghèo. Song phải phân định rõ trách nhiệm của Nhà nước
và các cấp. Về cơ bản Nhà nước phải có chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế
đúng đắn, phù hợp hướng vào mục tiêu: Tạo thêm công ăn việc làm; xoá đói giảm
nghèo; đồng thời tạo ra các điều kiện cần thiết thông qua cơ chế chính sách, pháp
luật để tạo hành lang pháp lý, môi trường cho dân, tạo nhiều việc làm đúng pháp
luật và hỗ trợ một phần về tài chính, kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế. Từ đó tạo

ra vốn ban đầu để người lao động tự nâng cao hiệu quả sử dụng lao đông, xoá đói
giảm nghèo, làm giàu chính đáng.
1.5. Xoá đói giảm nghèo phải phát huy cao độ tính tự lập tự chủ tự vươn lên
vượt qua đói nghèo của người nghèo.
Làm cho người nghèo, hộ nghèo có niềm tin vào triển vọng cuộc sống, có
điều kiện và môi trường xã hội thuận tiện để phát triển, khả năng sẵn có bằng lao
động hoặc được đào tạo bồi dưỡng để hình thành khả năng. Đó là cách tốt nhất để
xoá đói giảm nghèo. Chỉ khi nào chuyển hoá được mọi nỗ lực của xã hội thành nỗ
lực, cố gắng của bản thân người nghèo, hộ nghèo thì nền tảng xoá đói giảm nghèo
mới được vững chắc. Phải giúp đỡ hộ nghèo vượt qua được những mặc cảm tự ti,
thụ động, ỷ nại và trông chờ vào nhà nước, tự vươn lên giải quyết cuộc sống của
mình.
1.6. Xoá đói giảm nghèo phải được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các
ngành, các cấp
Nhanh chóng xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của Nhà nước, của các
ngành, các cấp, các tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân. Nhà nước có chính sách
để hỗ trợ các tổ chức kinh tế, các đơn vị, các chủ doanh nghiệp, các hộ gia đình và
mọi người ở mọi thành phần kinh tế chủ động tạo ra việc làm để xoá đói giảm
nghèo, làm giàu chính đáng, đồng thời phải có các biện pháp cụ thể để kiểm soát
thị trường lao động, giảm tỷ lệ người thiếu viếc làm ở nông thôn trong pham vi cho
phép, không vượt quá điểm giới hạn thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà
nước.
2. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo của tỉnh:
Việt Nam là một nước có dân số khá đông và có trên 70% làm việc trong lĩnh
vực nông nghiệp, hơn nữa phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh đặc biệt là chiến
tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nó đã tàn phá về kinh tế, con người
ngay lúc đó và cả vế sau này. Chính vì thế Việt Nam hiện nay khá lạc hậu so với
nhiều nước trên thế giới. Tỷ lệ nghèo đói cao, năm 1986 Việt Nam thực hiện cuộc
cải cách kinh tế, cho đến nay chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên mức sống trung bình của người dân vẫn ở mức thấp. Số hộ nghèo đói

vẫn ở mức cao, đặc biệt ở nông thôn. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước rất chú
trọng tới việc xoá đói giảm nghèo. Chính phủ đã thành lập riêng một uỷ ban xoá
đói giảm nghèo từ trung ương đến địa phương. Ban này có nhiệm vụ giải quyết
những vấn đề có liên quan đến nghèo đói như hỗ trợ giúp đỡ đối tượng thuộc diện
này về vốn, kỹ thuật để họ có thể tự tạo ra của cải vật chất đáp ứng được những
nhu cầu cơ bản của họ.
Xuất phát từ quan điểm trên trong những năm qua vẫn đề đói nghèo luôn là
mục tiêu hàng đầu được chú ý. Trong giai đoạn 2001-2005 Đảng và Nhà nước ta
đề ra mục tiêu là:
+ Không để tái đói kinh niên: Hiện nay ở một số vùng trong cả nước vẫn tồn
tại tình trạng người dân sau khi thu hoạch mùa được chừng một đến hai tháng là
hết lương thực, những tháng còn lại họ phải kiếm cái ăn bằng mọi cách. Điều này
là một sự thật đáng buồn bởi vì Việt Nam là một nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới. Chính vì thế mục tiêu của Chính phủ là làm thế nào tạo ra một cơ cấu phát
triển đồng đều trên cả nước để mọi người có thể hỗ trợ khi gặp những khó khăn về
làm ăn.
+ Giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước xuống dưới 10% theo chuẩn mực mới; Bình
quân giảm từ 1,5-2% một năm (tương ứng với 25-28 vạn hộ). Hiện nay theo chuẩn
mực mới của Chính phủ thì tỷ lệ nghèo của Việt Nam là khoảng 17%. Đây là một
con số khá lớn mà chúng ta không thể giải quyết trong một sớm một chiều được,
nó đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các tổ chức một cách
động bộ và có tổ chức.
+ Bảo đảm các xã nghèo có đủ các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu (thuỷ lợi
nhỏ, trường học, chạm y tế, đường dân sinh, nước sinh hoạt, điện, chợ). Đây là
điều kiện cơ bản để đánh giá một xã là nghèo hay không nghèo. Nếu một xã có các
công trình hạ tầng cơ sở phát triển cũng có nghĩa là kinh tế ở vùng đó phát triển và
ngược lại. Cho nên để giúp các xã nghèo có điều kiện phát triển đi lên thì việc đầu
tiên là phải giúp họ xây dựng những công trình hạ tầng cơ sở.
+ Mỗi năm giải quyết việc làm cho 1.4-1.5 triệu lao động.Việc làm luôn là
vẫn đề bức xúc với người nghèo, có việc làm ổn định có nghĩa là họ đã thoát ra

khỏi tình trạng nghèo đói. Chính vì thế để mục tiêu xoá đói giảm nghèo được thực
hiện nhanh chóng thì cũng cần phải tạo ra nhiều việc làm hơn nữa.
+ Đạt cơ cấu lao động nông nghiệp: 56%; công nghiệp và xây dựng: 21%,
dịch vụ 23%. Theo truyền thống Việt Nam chủ yếu là lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nhưng trên thực tế giá trị tạo ra trong lĩnh vực này thấp hơn nhiều so
với các ngành khác, hơn nữa trong kinh doanh thường gặp phải rủi ro. Cho nên để
phát triển nhanh được chúng ta phải cân đối lại cơ cấu giữa các nghành sao cho
hợp lý.
+ Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 6% và nâng tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động ở nông thôn lên 80%: Lao động ở nông thôn có đặc điểm là
mang tính mùa vụ. Trung bình một năm họ chỉ tham gia vào sản xuất khoảng 4-5
tháng là chủ yếu, những tháng còn lại là thời gian rỗi. Vì thế thu nhập bình quân
của họ trong cả năm thường thấp nên khó có thể vươn lên được. Để giảm bớt tỷ lệ
nghèo thì cần phải tạo ra nhiều việc làm cho đối tượng này để họ sử dụng những
thời gian nhàn dỗi một cách có hiệu quả.
+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 30% (trong đó đào tạo nghề là 22%). Lao
động của chúng ta hiện nay phần lớn không được qua đào tạo chuyên môn, vì thế
năng suất cũng như giá trị tạo ra là rất thấp. Mục tiêu của Đáng và Nhà nước trong
những năm tới là tăng dần đào tạo nghề, tránh tình trạng đào tạo quá nhiều thầy
như hiện nay, trong khi đó thợ lành nghề lại thiếu.
3. Mục tiêu của ngân hàng ngân hàng phục vụ người nghèo Hà Tây.
Ngân hàng phục vụ người nghèo phấn đấu tổng nguồn vốn huy động đến
ngày 31/12/2001 là 209 triệu đồng trong đó:
- Vốn từ trung ương chuyển về là 183500 triệu đồng tăng 33500 triệu đồng
so với năm 2001.
- Vốn địa phương 25500 triệu đồng tăng 1000 triệu đồng so với năm 2001.
- Dư nợ đến 31/12/2002 là 206 triệu đồng tăng 34500 triệu đồng so với năm
2001.
- Nợ quá hạn chiếm 0,6% tổng dư nợ.
- Bình quân một hộ dư nợ 2900 ngàn đồng .

- Doanh thu lãi đạt 98% trở lên.
- Số hộ thoát nghèo là 1500 hộ.
So sánh thực hiện năm 2001 và kế hoạch trong năm 2002
Chỉ tiêu năm 2001 năm 2002 chênh lệch
Tổng nguồn vốn ( triệu đồng ) 174724 209000
Vốn từ trung ương ( triệu đồng ) 150000 183500 33500
Vốn từ địa phương (triệu đồng) 24724 25500 1000
Nợ quá hạn (%) 0.7 0.6 34500
Dư nợ cuối năm (triệu đồng) 171307 206000 123
Dư nợ bình quân một hộ (ngàn đồng) 2777 2900 0.1
Hiệu quả hoạt động (%) 98 98 -
Số hộ thoát nghèo (hộ) 1271 1500 229
Nguồn: ngân hàng phục vụ người nghèo hà Tây
II/ NHỮNG KINH NGHIỆM TRONG VIỆC QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ
NGHÈO
1. Kinh nghiệm quản lý của ngân hàng
1.1. Xoá đói giảm nghèo là công việc của cả cộng đồng và của toàn xã hội .
Ở đâu làm tốt công tác xã hội hoá xoá đói giảm nghèo, ở đâu có sự quan tâm
chỉ đạo của các cấp uỷ đảng chính quyền, sự phối hợp giúp đỡ của các ngành, các
tổ chức quần chúng và sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp dân cư thì ở đó hoạt
động của ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động có hiệu quả.
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta bằng các phong trào ta
đã thu hút được đông đảo tầng lớp nhân dân như: Hội phụ nữ; hội cựu chiến binh;
hội nông dân; hội thanh niên vào tham gia xoá đói giảm nghèo bài trừ tệ nạn xã
hội...Được sự quan tâm chỉ đạo của các ban ngành và ngân hàng phục vụ người
nghèo các chương trình dự án lồng ghép được mở rộng cho vay hộ nghèo; chương
trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh... được thực hiện. Do đó công tác cho vay
ngày càng được mở rộng đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ người nghèo khắp các thôn
xóm trong toàn tỉnh. Nguồn vốn ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay càng
phát huy được hiệu quả kinh tế và thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế cho các hộ

nghèo hoạt động có khả năng sản xuất nhưng thiếu vốn được vay vốn của ngân
hàng phục vụ người nghèo.
1.2. Về ban đại diện hội đồng quản trị.
Việc thành lập ban đại diện hội đồng quản trị là một sáng kiến hay. Nó tạo ra
một sức mạnh tổng hợp giữa chính quyền, đoàn thể và nhân dân, tiến công vào
nghèo nàn, xoá bỏ đói nghèo, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh. Hoạt động của ban đại diện hội đồng quản trị có tác động rất sâu rộng ảnh
hưởng rất nhiều đến kết quả của công tác xoá đói giảm nghèo, nó vừa là chỗ dựa,
vừa là điều kiện là động lực thúc đẩy ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động.
Vì vậy nơi nào thực hiện tốt công tác công tác kiện toàn ban đại diện hội đồng
quản trị thì công tác cho vay hộ nghèo sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.
1.3.Về các nguyên nhân gây ra đói nghèo
Thực tế cho thấy tình trạng đói nghèo bắt đầu từ nhiều nguyên nhân, cơ bản
là các nguyên nhân như thiếu vốn, thiếu kinh nghiêm, thiếu kiến thức, đông con,
bệnh tật... Vì vậy việc cấp tín dụng cho hộ nghèo chỉ có thể mang lại hiệu quả khi
tạo ra sự gắn bó đồng bộ trong các căn nguyên đó. Ngân hàng phục vụ người
nghèo là đơn vị cấp vốn cho hộ nghèo vay nhưng nếu ngân hàng không phối hợp
với các tổ chức, cơ quan như: bệnh viện, trường học, trung tâm giáo dục và dạy
nghề ... thì hoạt động cho vay xoá đói giảm nghèo sẽ không thể mang lại hiệu quả.
Người nghèo cần phải có các kiến thức cơ bản về sức khoẻ, ytế, kế hoạch hoá gia
đình và các kiến thức cần có trong kinh doanh. Vì vậy ngân hàng phục vụ người
nghèo phải phối hợp với các đơn vị hữu quan để tổ chức các lớp tập huấn phổ biến
kinh nghiệm trong chăn nuôi trồng trọt, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, hướng dẫn người nghèo sử dụng
vốn đúng mục đích. Không để trường hợp trùng lắp các chương trình, lấy vốn của
chương trình này để trả nợ cho chương trình kia.
1.4. Về con người :
Đây là nhân tố vô cùng quan trọng và là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng tới kết
quả của mọi hoạt động. Con người được nói đến ở đây bao gồm bộ máy quản lý tổ
chức, lực lượng lao động ngân hàng và những người được vay vốn. Nếu các quyết

định, định hướng phát triển mà bộ máy tổ chức đưa ra là đúng đắn, khả thi thì vốn
sẽ được sử dụng một cách triệt để và tiết kiệm. Còn nế kế hoạch đưa ra mà không
phù hợp thì sé dẫn đến thua lỗ thậm trí còn bị mất vốn. Bên cạnh những cán bộ làm
công tác quản lý thì những các bộ công nhân viên làm việc trong ngành ngân hàng
cũng không kém phần quan trọng. Họ là cầu nối giữa ngân hàng và những người
vay vốn. Họ chịu trách nhiệm trực tiếp về phần vốn và các hộ vay vốn mà mình
phụ trách. Đồng thời họ còn phải thường xuyên đi xuông tận các hội để có thể giúp
ngân hàng trong việc lựa chọn các tổ trưởng tổ vay vốn có tinh thần trách nhiệm
cũng như uy tín đối với nhân dân.
1.5. Công tác kiểm tra kiển soát của ban đại diện hội đồng quản trị.
Công tác kiểm tra kiểm soát được các ngành cũng như được ngân hàng phục
vụ người nghèo tổ chức một cách thường xuyên toàn diện và triệt để thì các vướng
mắc, tồn tại sẽ được giải đáp, uốn nắm kịp thời. Công tác tuyên truyền trong nhân
dân phải được làm thường xuyên, liên tục sâu rộng để tất cả các ngành, các cấp và
mọi người đều phải hiểu rõ tạo sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ có như vậy hoạt động
của ngân hàng phục vụ người nghèo mới mang lại hiệu quả cao.
Bộ máy quản lý chưa được hợp lý, sự phối hợp chưa ăn khớp, cán bộ thường
trực tác nghiệp ít, lại kiêm nhiệm công việc của Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn trong khi số lượng khách hàng là lớn nên việc chỉ đạo và trực tiếp
kiểm tra không đáp ứng hết và có biểu hiện quá tải.
1.6. Về thủ tục vay vốn.
Ngân hàng nông nghiệp đã tiến hành vay trực tiếp từ các tổ vay vốn và tiết
kiệm. Từ đó người nghèo vay vốn không cần phải tín chấp nhưng phải là hộ nằm
trong tổ vay vốn và tiết kiệm có tên trong danh sách hộ nghèo của uỷ ban nhân dân
xã. Việc cho vay vốn xoá đói giảm nghèo phát triển nông nghiệp nông thôn đã làm
chuyển biến tích cực về đời sống, đời sống tinh thần vật chất.... Nhưng mô hình
cho vay hộ nông dân đặc biệt là mô hình cho vay hộ nghèo, từ khâu xét duyệt,
kiểm tra phát tiền vay, thu nợ còn nhiều thủ tục không phù hợp với trình độ dân trí
vùng cao, cần được cải tiến vận dụng linh hoạt hơn. Cần tăng cường đào tạo và bổ
sung đội ngũ cán bộ, phương tiện đi lại làm việc đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu họat

động ngân hàng trên địa bàn.
2. Kinh nghiệm tạo dựng vốn của các nước trên thế giới.
Nhìn vào lịch sử phát triển của các nước trên thế giới , hầu hết tất cả các
nước trước khi bước vào công nghiệp hoá- hiện đại hoá, phát triển kinh tế đều phải
trải qua một giai đoạn chuẩn bị các điều kiện cần thiết trong đó trước hết là vốn
cho quả trình đó. Tuy nhiên tuỳ theo đặc điểm của mỗi nước và giai đoạn nào mà
các nước có thể chọn các cách đi khác nhau để đạt được mục tiêu của mình.
2.1. C ác nước tạo dựng vốn theo cách hướng nội:
Nước Anh và Pháp
Nước Anh là một quốc gia thực hiện việc tích luỹ vốn của mình bằng cách bóc lột
thuộc địa, cướp bóc, và các biện pháp khác. đến cuối thể kỷ 18 nguồn vốn của cải
của nước này được biến thành tư bản và được đầu tư vào công nghiệp. Như vậy đối
với nước Anh con đường và giải pháp cơ bản để tạo dựng vốn đầu tư vào phát triển
công nghiệp là phát triển mạnh tự do hoá thương mại, nhằm tạo ra tích luỹ nền
kinh tế từ nội địa nền kinh tế và bóc lột thuộc địa.
Nước Đức: Khi bước vào thời kỳ tích luỹ vốn cho đã có một lượng vốn
nhất định. Ngoài ra Đức còn có một hệ thống ngân hàng mạnh, đủ khả năng tạo ra
nguồn vốn cho các nhà tư bản vay. Các ngân hàng này có thể mở ra các tài khoản
cho các nhà đầu tư hoạt động vay, trả và việc mở ra các tài khoản này không phụ
thuộc nhiều vào số tiền tiết kiệm và tích luỹ trong nhiều năm của các cá nhân trong
xã hội.
Nước Nga: vào thế kỷ 19 chẳng những không có tích luỹ của cải nguyên
thuỷ mà cũng không có một hệ thống ngân hàng đủ mạnh để tạo ra một lượng vốn
đủ lớn. nhưng thay vào đó nước Nga đã sử dụng quyền lực đánh thuế của Nhà
nước. và sử dụng lượng tiền này để đầu tư vào công nghiệp. Nước Nga cũng sử
dụng biện pháp kêu gọi đầu tư nước ngoài nhưng thực tế không thu được nhiều.
Nước Nhật: Là một cường quốc của châu Á nhưng cách tạo dựng vốn của
nó hoàn toàn khác so với các nước khác. Để có lượng vốn lớn đầu tư vào phát triển
kinh tế Nhật Bản đã dựa vào cơ cấu chính quyền rất mạnh cộng với thu thuế rất lớn
từ nhân dân. Từ kinh nghệm từ Nhật bản cho thấy sự nghèo khổ ban đầu không

phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tích luỹ thấp
2.2. Các nước tạo dựng vốn thông qua con đường hướng ngoại:
Thông qua con đường thu hút vốn đầu tư và vay vốn của nước ngoài với
mục đích là đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Giúp cho rút ngắn khoảng cách
giàu nghèo với các nước phát triển.
Đài Loan: Là một trong bốn con rồng châu Á có mức thu nhập bình quân
đầu người và nhịp độ phát triển kinh tế cao hiện nay. Vào cuối những năm 60 của
thế kỷ này Đài Loan bước vào thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Sở dĩ Đài
Loan đạt được những thành quả như vậy trong một thời gian ngắn như vậy là do
Đài Loan đã có những quan điểm tạo dựng vốn đúng đắn phù hợp với thời đại mới
và điều kiện cụ thể của mình. Đài Loan đã nhận được các khoản viện trợ với lãi
suất ưu đãi của Mỹ, đông thời Đài Loan còn ban hành các luật đặc biệt về khu
công nghiệp khai thác chế biến nên được đầu tư rất nhiều vốn. Mặt khác Đài Loan
bắt đầu chú trọng phát triển nông nghiệp rồi chế biến xuất khẩu sau đó mới đi vào
cộng nghiệp nặng và công nghiệp điện tử , có chú trọng quy mô vừa và nhỏ, coi
trọng quy mô lớn nên đã tạo khả năng có cạnh tranh trên thị trường thế giới làm
tiền đề vững chắc cho công nghệ hướng ngoại.
Nam Triều Tiên: Cũng có chiến lược tạo dựng vốn giống như Đài Loan đó
là tìm kiếm nguồn viện trợ, cho vay từ nước ngoài nhưng khác ở chỗ Đài Loan tím
kiếm vốn đầu tư thuần về trực tiếp (liên doanh, liên kết) thì Nam Triều Tiên lại
thuần về gián tiếp (vay nợ). Sở dĩ như vậy là do Nam Triều Tiên có quan niệm đi
vay thì sẽ có sự chủ động về kinh tế chứ không để cho người nước ngoài nắm
quyền quyết định cơ cấu kinh tế của mình.
Thái Lan: Là nước có mức khởi điểm kinh tế hơi muộn nhưng Thái Lan có
chính sách kinh tế mở hơn một trăm năm nay và có chính sách ngoại giao mềm dẻo
nên trong khoảng 20 năm trở lại đây nhờ tìm kiếm cú hích từ bên ngoài kết hợp với
cải cách nền kinh tế để thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và tạo tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế. Với nhiều chiến lược tạo dựng vốn hướng ngoại Thái Lan đã
thu hút hàng tỷ USD mỗi năm.
Qua kinh nghiệm tạo dựng vốn của các nước trên thế giới cho chúng ta

những gợi ý tham khảo về chiến lược tạo dựng vốn của Việt Nam trong sự kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, kết hợp giữa chính sách tạo dựng vốn
hướng ngoại với chính sách tạo dựng vốn hướng nội. Đó là con đường rút ngắn
thời gian phát triển kinh tế và phù hợp với thời đại mới.

×