Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ NGHÈO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.99 KB, 34 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO VAY HỘ
NGHÈO.
I/ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ SỰ CẤN THIẾT PHẢI XOÁ ĐÓI GIẢM
NGHÈO
1/ Những vấn đề cơ bản về đói nghèo
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về xoá đói giảm nghèo trên thế giới.
Nhưng đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu cơ
bản, tối thiểu của cuộc sống như: ăn, ở, mặc, đi lại, vệ sinh, y tế, giáo dục....Tình
trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về số lượhog và mức độ, thay
đổi theo không gian và thời gian. Người nghèo ở quốc gia này có thể có mức sống
cao hơn mức sống trung bình của các quốc gia khác. Vì vậy việc nhìn nhận và tổ
chức thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả cần phải tham khảo khái niệm và
kinh nghiệm, chuẩn mực đánh giá, chỉ tiêu và các giải pháp thực hiện của các nước
trên thế giới từ đó nắm rõ tình hình của ta để có biện pháp thích hợp mang lại hiệu
quả cao.
1.1 Khái niệm của nghèo đói trên thế giới.
Trên thế giới sự phân định giàu nghèo dựa trên 4 khía cạnh: Về thời gian, về
không gian, về giới và về môi trường.
Về thời gian: Nghèo đói là những người có mức sống dưới mức chuẩn trong
một thời gian dài.
Về không gian: Nghèo đói chủ yếu diễn ra ở khu vực nông thôn nơi có đông
dân, phương thức sản xuất lạc hậu, các công cụ sản xuất thô sơ lạc hậu.
Về giới: Người nghèo là nữ giới thường đông hơn nam giơí.
Về môi trường: Đói nghèo thường xảy ra ở trong những vùng sinh thái khắc
nghiệt.
1.2 Khái niệm về đói nghèo ở Việt Nam.
Nghèo: Là một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối
thiểu nhằm duy trì cuộc sống.
Đói: Là bộ phận dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập
không đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
2/ Các tiêu chí để xác định hộ nghèo


2.1. Tiêu chí để đánh giá hộ nghèo trên thế giới.
Trên thế giới việc phân định mức giàu nghèo của người dân phụ thuộc vào
mức thu nhập bình quân đầu người (GDP/người). Ngoài ra còn căn cứ vào các chỉ
tiêu: tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá mù chữ. Và gần đây còn
dựa vào chỉ số phát triển con người (HDI) và bao gồm ba chỉ tiêu: tuổi thọ, tình
trạng biết chữ của người lớn, thu nhập. Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này, UNDP đánh giá
Việt nam đứng thứ 121/175 nước trên thế giới (tài liệu công bố năm 1997 và lấy cơ
sở số liệu năm 1995).
Như vậy, chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vấn căn
cứ vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với
các chỉ số PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu, nghèo
chính xác hơn, khách quan hơn.
-Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới dạng chỉ tiêu thu nhập
quốc dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo được coi là hộ
nghèo. Quy mô nghèo của từng vùng, của một quốc gia được xác định bằng tỷ lệ
số hộ nghèo đói trên tổng số hộ dân cư thuộc vùng hoặc quốc gia đó.
Quy mô nghèo ΣSố hộ nghèo đói của vùng hoặc quốc gia
của vùng hoặc =
quốc gia Σ Số hộ dân cư của vùng hoặc quốc gia
Công thức tính quy mô nghèo của vùng hoặc quốc gia
2.2. Tình trạng nghèo đói trên thế giới.
Nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu nhập dưới 1/3 mức thu nhập bình
quân đầu người của toàn xã hội. Ngân hàng thế giới (WB) ấn định mức
35USD/người/tháng là mức để phân định tỷ lệ nhgèo. Với quan niệm này thế giới
có 1,2 tỷ người chiếm 20% đang sống trong tình trạng nghèo khổ. Tuy nhiên tuỳ
theo từng nước khác nhau mà tỷ lệ này cũng khác nhau.
2.3. Chuẩn mực đánh giá hộ nghèo của Việt Nam hiện nay.
Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân đầu người trong một tháng hay một năm
được đo bằng giá trị hiện vật (thường quy ra gạo) tương ứng với một giá trị nhất
định để quy đổi.

Chỉ tiêu phụ: Là các chỉ tiêu về dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều
kiện cho học tập chữa bệnh đi lại...
Tuy nhiên việc đánh giá cũng chủ yếu dựa vào mức thu nhập bình quân quy
ra gạo. Việc quy ra hiện vật dễ dàng nhằm so sánh với mức thu nhập của người dân
theo thời gian và không gian. Và nó có ý nghĩa đối với người nghèo nói chung và
người nghèo đói ở nông thôn nói riêng.
Để đo lường tình trạng nghèo đói hiện nay nhiều địa phương lấy tiêu chuẩn
thu nhập bình quân một khẩu trong một năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức
lương thực bình quân nhân khẩu. Gia đình nào có thu nhập 30kg gạo/khẩu/tháng
được coi là nghèo. Theo tổng cục thống kê lấy đơn vị kalory/ngày/người là 2100,
dưới đó sẽ là nghèo. Một khuynh hướng khác lấy mức lương thực tối thiểu do nhà
nước quy định làm chuẩn.
Theo quy định tại thông báo 1751 ngày 20/5/1997 của bộ lao động thương
binh xã hội hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gao ở các vùng khác
nhau như sau:
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo:15 kg gạo/người/tháng ~ 55 ngàn
- Vùng nông thôn đồng bằng trung du: 20 kg gạo/người/tháng ~70 ngàn
- Vùng thành thị dưới 25 kg gạo/người/tháng ~ 90 ngàn
Còn hộ đố là những có thu nhập bình quân đạt 13 kg gạo /người/tháng.
Theo chuẩn mực này thì đến cuối năm 2000 cả nước còn 10% hộ đói nghèo .
Theo quy định mới của bộ lao động thương binh xã hội thì chuẩn mực áp dụng cho
giai đoạn 2001 - 2005 sẽ là:
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo dưới 80 ngàn
- Vùng nông thôn đồng bằng trung du dưới 100 ngàn
- Vùng thành thị dưới 150 ngàn
Theo chuẩn mới này đến đầu năm 2001 cả nước có khoảng 27 triệu hộ
nghèo chiếm tỷ lệ 17% tổng số hộ trong cả nước trong đó có 4 vùng tỷ lệ nghèo đói
chiếm trên 30% .
Tuy nhiên nếu tính theo định mức mà ngân hàng thế giới nêu ra thì Việt
Nam đã giảm được tỷ lệ đói nghèo từ 53% năm 1993 xuống còn 37% năm 1998.

Có sự sai lệch về tỷ lệ nghèo đói theo sự đánh giá ở Việt Nam và trên thế giới là rất
khác nhau, tiêu chí để phân loại hộ nghèo này cũng rất khác nhau. Song một thực
tế là tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đang ngày một giảm là một điều mà không ai
không thừa nhận.
3. Sự cần thiết phải cho vay xoá đói giảm nghèo
3.1 Các quan điểm về xoá đói giảm nghèo .
Coi xoá đói giảm nghèo là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, là một chính
sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên trong toàn bộ các chính sách kinh tế xã hội.
- Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững. Gắn
xoá đói giảm nghèo với công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, với
phát triển kinh tế hộ, ngành, nghề. Thực hiện lồng ghép xoá đói giảm nghèo với
các chương trình quốc gia và an ninh xã hội.
a) Coi xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị - xã hội trọng tâm của toàn
đảng toàn dân: Xoá đói giảm nghèo là một sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
cao quý là một chính sách kinh tế xã hội cơ bản của nước ta, mang ý nghĩa chính
trị - xã hội - kinh tế to lớn, mang tính nhân văn sâu sắc và phát huy bản chất tốt đẹp
của dân tộc.
Xoá đói giảm nghèo mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, là một đóng góp quan
trọng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi xoá đói giảm nghèo là một
cuộc cách mạng gian khổ cần phải thực hiện trong một khoảng thời gian dài và đòi
hỏi sự đóng góp sức người sức của rất lớn. Việc thực hiện thành công cuộc cách
mạng này sẽ góp phần xoá bỏ sự chênh lệch về đời sống dân cư, sự bất bình đẳng,
bất công trong xã hội, tạo nên sự đoàn kết, tương thân tương ái với tinh thần "lá
lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều". Giúp nhân dân củng cố lòng tin vào
chủ nghĩa xã hội...
b) Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước mà trước hết là công nghiệp hoá hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn, tăng trưởng kinh tế phải đi đối với xoá đói giảm
nghèo và tạo tiền để để xoá đói giảm nghèo một cách bền vững.
Đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với sự đòi hỏi
khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã

hội, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Muốn thực hiện xoá đói giảm nghèo
thành công thì cần phải kết hợp xoá đói giảm nghèo với các chương trình kinh tế
xã hội, khuyến khích nhân dân đem tài năng sức lực ra xây dựng tổ quốc, giảm dần
khoảng cách giầu nghèo giữa các vùng các tầng lớp dân cư, nâng cao chất lượng
cuộc sống.
c) Quan điểm xoá đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy nội lực của người nghèo, xã
nghèo tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng
đồng, đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hợp tác quốc tế,
đẩy nhanh xoá đói giảm nghèo vững chắc.
d) Quan điểm xoá đói giảm nghèo tập trung vào địa bàn nông thôn nơi chiếm 90%
số hộ đói nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, khu căn cứ cách mạng, biên giới, đồng
bào dân tộc, phụ nữ nghèo.
3.2. Sự cần thiết phải thực hiện xoá đói giảm nghèo
Việt Nam là một trong những nước chậm phát triển đồng thời phải đương
đầu với 4 nguy cơ lớn: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
tham nhũng và tệ nạn quan liêu, và diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây
ra. Các nguy cơ là đan xen vào nhau, tác động qua lại với nhau. Vì vậy muốn đi lên
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì Việt Nam phải thực hiện đồng thời cả 4
nhiệm vụ, không được quá coi nhẹ hay quá coi trọng một nguy cơ nào. Nước ta
vẫn còn là một nước kém phát triển đời sống nhân dân còn quá thấp trong khi cuộc
cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Nếu chúng ta không cố gắng vươn lên thì
chúng ta sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế.
Thực hiện xoá đói giảm nghèo còn giúp củng cố lòng tin của nhân dân đối
với về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước .
4. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác xoá đói giảm nghèo .
4.1. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Đây là nhân tố cơ bản, xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
mà bất kỳ giai cấp tầng lớp nào nắm quyền hành Nhà nước đều phải đưa ra. Đó là
kim chỉ nam định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nước ta là một nước của
dân do dân và vì dân vì vậy việc chăm lo đến các mặt của đời sống nhân dân là

không thể thiếu. Nên các vấn đề con người như: tạo thêm việc làm, xoá đói giảm
nghèo đẩy lùi các tệ nạn xã hội, ổn định, cải thiện đời sống nhân dân là vấn đề
không thể thiếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Một chiến lược phát triển
phù hợp sẽ thu hút được đầy đủ sự quan tâm của cả dân tộc và cộng đồng quốc tế
một cách thường xuyên.
4.2. Những chính sách và những phương thức tác động.
Những chính sách và những phương thức tác động tích cực của Nhà nước
trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa thực tiễn to lớn: người nghèo giảm
bớt được đói nghèo, xã hội bớt được những sự chênh lệch giàu nghèo, giúp Việt
Nam rút ngắn được khoảng cách giàu nghèo với các nước trên thế giới. Vì vậy Việt
nam cần phải có các chính sách tài chính, tiền tệ, lãi suất, tạo thêm việc làm cho
người nghèo, ưu tiên đầu tư cho hỗ trợ tài chính lãi suất, đảm bảo đời sống xã hội
cho vùng nghèo, cho các đối tượng nghèo có cơ hội tự thoát khỏi đói nghèo và góp
thêm vào công cuộc cải thiện xã hội.
Tuy vậy nếu chỉ có chính sách đúng thôi chưa đủ mà phải có thêm phương
thức tác động thích hợp như việc phải thông qua một số công cụ như: thuế, giá cả,
cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ...Việc sử dụng các phương thức tác động
thích hợp giúp cho người nghèo có cơ hội để tiếp cận với các nguồn lực để tạo ra
động và các hiệu quả cho các hoạt động của mình.
4.3. Vai trò của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ.
Nước ta là một nước kém phát triển nên công cuộc xoá đói giảm nghèo phải
dựa trên nội lực là chính nhưng cũng tìm thêm nhiều biện pháp để kêu gọi sự đồng
tình ủng hộ của các tổ chức quốc tế. Nhà nước ta tạo mọi cơ hội thuận lợi để thu
hút vốn đầu tư từ các tổ chức quốc tế tham gia vào đầu tư cho phát triển kinh tế nói
chung và cho chương trình xoá đói giảm nghèo nói riêng.
4.4. Sự nhận thức của người dân.
Những người nghèo phần đông là những người không có trình độ chuyên
môn, sự nhận thức của họ là rất chậm, bảo thủ, trì trệ và rất bi quan. Bởi vậy phải
thay đổi những nhận thức sai lệch của họ, giúp họ có vốn để sản xuất, hướng dẫn
họ cách làm ăn sao cho có hiệu quả, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao

động, giúp họ có thêm thu nhập cải thiện đời sống để từ đó thoát khỏi đói nghèo,
giúp họ cởi trói tâm lý mặc cảm an phận, bi quan để vươn lên làm giàu cho bản
thân và xã hội
II/ NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC XOÁ ĐÓI GIẢM
NGHÈO .
1. Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian qua.
Đối với đất nước ta thế kỷ 20 là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ đấu
tranh oanh liết giành lại độc lập dân tộc tự do thống nhất đất nước và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời
đại. Nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đã bước vào thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Năm 1975 nước ta đã hoàn toàn giải phóng, thoát khỏi ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân phong kiến, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam đã gặp không ít những khó khăn là:
-Sự bao vây về kinh tế: Việt Nam tuy đã hoàn toàn được giải phóng có độc
lập chủ quyền nhưng vẫn bị bao vây, cấm vận về kinh tế. Nên Việt Nam chưa thể
mở rộng hợp tác làm ăn với nhiều nước trên thế giới.
- Việt Nam đi lên xã hội chủ nghĩa từ một nền kinh tế thuần nông với hơn
85% dân số sống bằng nghề nông, trình độ dân trí thấp, công cụ lao động thô sơ, cơ
sở hạ tầng yếu kém với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chỉ có hai thành phần là
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được phép hoạt động.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra vào cuối thập kỷ 70 và kéo dài suốt thập
kỷ 80 gây ra tình trạng:
+ Tốc độ tăng trưởng trì trệ kéo dài, có năm tốc độ tăng trưởng âm.
+ Lạm phát cao kéo dài, đặc biệt năm 1988 đã lên tới 774,7%.
+ Nhập siêu nghiêm trọng, tổng giá trị xuất khẩu thường chỉ bằng 1/3 tổng
giá trị nhập khẩu.
+Tình trạng khan hiếm hàng hoá, cung không đủ cầu diễn ra khá phổ biến và
kéo dài.
Cuộc khủng hoảng này đã góp phần giúp Việt Nam trong việc lựa chọn

hướng phát triển kinh tế của mình là phù hợp hay chưa để từ đó ra quyết định đổi
mới mô hình kinh tế mong sớm thoát khỏi tình trạnh khủng hoảng.
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Việt Nam mất
hẳn chỗ dựa và sự viện trợ của Liên Xô đồng thời nó cũng có tác động tích cực đến
Việt Nam, cho phép Việt Nam ưu tiên phát triển kinh tế và giúp Việt Nam lựa chọn
mô hình phát triển phù hợp - Mô hình phát triển kinh tế thị trường ưu tiên hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện theo hướng phát triển
kinh tế thị trường hôi nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện kinh tế xã hội còn thấp,
cơ sở hạ tầng yếu kém.
* Tuy nhiên từ những khó khăn trên Việt Nam đã đi lên và đạt được rất nhiều
thành tựu đáng kể như :
- Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân
7%/năm. Nông nghiệp phát triển liên tục đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc nuôi
trồng khai thác thuỷ hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất bình quân tăng13.5%/
năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường, các ngành dịch vụ, xuất nhập
khẩu đều phát triển, đặc biệt năm 2001 Việt Nam là nước đứng thứ 2 về xuất khẩu
gạo với giá trị hơn 4 triệu tấn và chỉ đứng sau Thái Lan.
- Văn hoá xã hội có những tiến bộ rõ rệt, đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện.
- Tình hình chính trị xã hội cơ bản là ổn định, quốc phòng an ninh được tăng
cường.
- Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được coi trọng, hệ thống chính trị được
củng cố.
- Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế
được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
- Sức mạnh tổng hợp được tăng cường làm thay đổi bộ mặt của đất nước và
cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ
nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của ta trên trường quốc tế.
2. Thực trạng đói nghèo của Việt nam hiện nay.

Theo báo cáo của tỉnh Hà tây năm 1998, cả nước có 1498 xã có tỷ lệ nghèo
trên 40% trở lên và 1168 xã thiếu cơ sở hạ tầng. Trong đó 2/3 số xã có tỷ lệ hộ
nghèo đói trên 40% trở lên vừa thiếu cơ sở hạ tầng là các xã miền núi. Ngày 24
tháng 12 năm 1999, thủ tướng chính phủ đã phê duyệt danh sách 1870 xã đặc biệt
khó khăn và xã biên giới, trong đó có 1726 xã đặc biệt khó khăn và 144 xã biên
giới. Ngân sách trung ương sẽ đầu tư cho 1602 xã đặc biệt khó khăn và 144 xã
biên giới, ngân sách địa phương sẽ đầu tư cho 124 xã đặc biệt khó khăn.
Do có sự phân chia lại về đơn vị hành chính, một số xã được tách ra nên
hiện nay tổng số xã đặc biệt khó khăn và biên giới được đầu tư thông qua các dự án
xoá đói giảm nghèo thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm là
1878 xã. Ngoài danh sách 1878 xã này, còn có khoảng 500 xã cũng thuộc loại
nghèo và có nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng nên tổng số xã cần được đầu tư hiện nay
là 2200 xã.
- Theo chuẩn mực cũ thì cuối năm 2000 còn 10% tỷ lệ hộ đói nghèo. Trong
đó:
+ Có 13 tỉnh thành phố tỷ lệ đói nghèo dưới 5%.
+ 18 tỉnh có tỷ lệ đói nghèo từ 5 % đến 10%.
+ 27 tỉnh có tỷ lệ đói nghèo từ 10% đến 20%.
+ 2 tỉnh có tỷ lệ hộ đói trên 20% là Bắc Kạn và Quảng Bình.
+ Đặc biệt Riêng Lai Châu có tỷ lệ đói nghèo 31%.
- Theo chuẩn mực mới đầu năm 2001, cả nước có 2,7 triệu hộ nghèo Khoảng
13,5 triệu người chiếm tỷ lệ 17%, trong đó số hộ thường xuyên thiếu đói chiếm
gần 1% tổng số hộ trong cả nước
- Về cơ sở hạ tầng xã nghèo đến đầu năm 2001đã có trên 90% xã có đường ô
tô đến trung tâm xã, 80% xã có đủ trường học, lớp học bậc tiểu học, 98% số xã có
trạm y tế, 80% xã có công trình thuỷ lợi nhỏ, 70% xã có trên 50% số hộ được sử
dụng nước sạch, 85% xã có điện sinh hoạt tới trung tâm xã, 70% xã có chợ hoặc
chợ trung tâm được xây dựng.
Nhìn chung về thu nhập bình quân đầu người hiện nay vẫn ở mức thấp,
khoảng 350 USD, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, đặc biệt giữa thành thị

và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi (theo các đánh giá về tình trạng nghèo
đói trong bản báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000 thì trong suốt thời kỳ
1993-1998, trong khi thu nhập nông thôn tăng 30%, thì thu nhập thành thị tăng lên
với tốc độ gấp đôi. Có gần 70% số dân nghèo của cả nước tập trung tại 3 vùng:
Miền núi phái Bắc 28%, Đồng bằng sông Cửu Long 21%, vùng Bắc trung bộ
18%).
Như vậy có thể nói, nghèo đói đang là một hiện tượng khá phổ biến ở nông
thôn Việt Nam và những kết quả nổi bật của công cuộc xoá đói giảm nghèo trong
hơn 10 năm qua dù rất ấn tượng song vẫn còn khá khiêm tốn so với thực trạng
nghèo đói hiện đang diễn ra trên khắp đất nước, đặc biệt là những vùng nông thôn,
miền núi, vùng đồng bào dân tộc và hải đảo.
Số hộ nghèo đói ở khu vực nông thôn phân theo vùng
Tên các vùng
Số Hộ TỷLệ)
1
2
3
4
5
6
7
Miền Núi Phía Bắc
Đồng Bằng Sông Hồng
Khu Bốn Cũ
Duyên Hải Miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng Bằng Sông Cửu
Long
Tổng Số

349.139
298.386
433.257
271.593
107.914
166.758
442.736
2.069.7
83
16.87
14.42
20.93
13.12
5.21
8.06
21.39

100
Nguồn: Ngân hàng phục vụ người nghèo (năm 1999)
3. Nguyên nhân của nghèo đói.
Đói nghèo là hậu quả của rất nhiều nguyên nhân, ở Việt Nam những nguyên
nhân chính gây ra đói nghèo được chia làm 3 nhóm.
-Nhóm nguyên nhân do điều kiện tự nhiên khí hậu: Khí hậu khắc nghiệt, thiên
tai, lũ lụt, hạn hán, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, kinh tế
chậm phát triển, do hậu quả của chiến tranh để lại.
- Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo: Thiếu kiến thức làm ăn,
thiếu vốn, đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc tệ nạn xã hội hoặc
lười lao động, do tập quán canh tác, cách thức sản xuất chưa được cải thiện.
- Nhóm nguyên nhân về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về các
chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng khó khăn, chính sách khuyến khích

sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư, chính sách trong giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh định cư,
kinh tế mới với nguồn lực đầu tư còn hạn chế.
Sau đây ta đi sâu vào tìm hiểu một số nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự
đói nghèo:
+ Thiếu vốn sản xuất: Đây là nguyên nhân số một. Trước đây qua điều tra có
tới 91.6% số hộ trả lời là thiếu vốn sản xuất. Nông dân nghèo, vốn sản xuất kém,
làm không đủ ăn, thường xuyên phải đi làm thuê và đi vay để bảo đảm cuộc sống
tối thiểu hàng ngày nên họ không có vốn để tái sản xuất, muốn vay ngân hàng thì
không có tài sản thế chấp. Bởi vậy, họ chỉ còn trông chờ vào sự giúp đỡ của hợp
tác xã hoặc của cộng đồng thộn ấp, bản, cho ứng trước vật tư, cho vay vốn ...
nhưng số hợp tác xã đã chuyển đổi đựơc chỉ có 11% còn một ít có thể cho hộ
nghèo vay, vì vậy buộc người nghèo phải đi vay tư nhân với lãi xuất cao. Do đó họ
đã nghèo lại càng nghèo thêm. Hiện nay Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi
với những hộ nghèo, nhưng bản chất cố hữu của họ vẫn chưa thể thay đổi ngay
được.
+ Không có kinh nghiệm làm ăn: Kinh nghiệm làm ăn, kỹ thuật sản xuất của
các hộ nghèo rất bị hạn chế. Qua điều tra các hộ nghèo, có tới 45.77% số hộ nghèo
do thiếu kinh nghiệm làm ăn. Xuất xứ của nguyên nhân này là do trước kia hợp tác
xã không tổ chức đào tạo kinh nghiệm, bà con đi làm theo truyền thống, không
được tiếp thu với tiến bộ kỹ thuật. Ngày nay, do họ sống phần lớn ở nông thôn nên
không có điều kiện để tiếp thu với các thông tin cập nhật. Hiện nay họ là người chủ
sản xuất, họ trở nên lúng túng, cộng thêm thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu
thông tin nên sản xuất càng gặp khó khăn.
+ Thiếu việc làm: Đây là một nguyên nhân phổ biến trên toàn quốc đối với
nguời nghèo. Ngoài sản xuất trồng trọt, nông dân nghèo không có vốn để phát triển
chăn nuôi và làm ngành nghề phụ. Trong cơ cấu thu nhập của hộ nghèo chỉ có
6.1% thu từ chăn nuôi; 5,4% thu từ ngành nghề. Ngay trong việc sản xuất trồng
trọt, nhiều nơi cũng không thể tiến hành sản xuất thâm canh được, nên lao động dư
thừa càng nghiêm trọng, chỉ còn trông chờ vào đi làm thuê nhưng không phải vùng

nào cũng có nhiều việc để đi làm thuê.
+ Đất đai canh tác ít: Số liệu điều tra cho thấy 61% hộ nghèo thiếu đất và ở
nhiều nơi có tình trạng các hộ nghèo không có khả năng thanh toán những khoản
nợ đối với uỷ ban nhân dân xã, cho nên địa phương đã dùng biện pháp rút bớt
ruộng đất giao cho họ, vì vậy họ thiếu ruộng. Thêm vào đó một số gia đình không
có khả năng thâm canh nên không dám nhận đủ số ruộng được giao. Do đó bình
quân một hộ nghèo chỉ có 2771 m
2
đất nông nghiệp.
+ Một nguyên nhân nữa của sự đói nghèo là do số nhân khẩu đông lao động
lại ít: Bình quân một hộ nghèo có 5,8 nhân khẩu nhưng lao động chỉ có 2,4 người,
nếu tính cả lao động quy đổi thì cũng chỉ có 2,6 người. hiện tại một người trong độ
tuổi lao động của hộ nông dân nghèo phải nuôi khoảng 2 người, như vậy rất khó
khăn.
+ Ngoài các nguyên nhân kể trên còn một số các nguyên nhân khác nữa đó
là gặp tai nạn, rủi ro, thiên tai, dịch hoạ ...
Có thể hữu ích nếu phân chia ra hai nhóm đói nghèo. Nhóm thứ nhất thường
không có khả năng hoặc hầu như không tham gia vào nền kinh tế thị trường đang
tăng trưởng. Thậm chí nếu đường xá được mở mang, chương trình tín dụng được
phát triển và khả năng cải thiện mức sống được nâng cao thì họ vẫn bị bỏ lại phía
sau. Một số người tàn tật, những người cao tuổi, độc thân và các nhóm thiểu số
sống ở những vùng bị cách biệt đều thuộc về những nhóm trên. Nhóm thứ hai là
những người hiện nay đang nghèo nhưng có tưopưng lai sáng sủa hơn khi mà bản
thân làng của họ có đường sá tốt hơn để giao lưu với thị trường lớn, hoặc khi vay
vốn tín dụng sẵn có và dễ dàng hơn. Họ có thể trồng các loại cây khác hoặc tham

×