Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.95 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>A. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
<b>I. Lí do chọn đề tài.</b>
Ngữ văn là một trong ba môn học (Ngữ văn, Tốn và Ngoại ngữ) có số giờ
học cao nhất ở nhà trường Phổ thơng. Nó vừa là mơn học về khoa học xã hội
nhân văn (cung cấp cho học sinh những kiến thức về Tiếng Việt, Văn học và
Làm văn, đồng thời hình thành ở học sinh những năng lực sử dụng Tiếng Việt,
năng lực tiếp nhận các tác phẩm văn học...), vừa là môn học công cụ (trang bị
cho học sinh công cụ để học tập, sinh hoạt và nhận thức xã hội…). Nhiệm vụ
<i>của môn Ngữ văn là hình thành và phát triển ở học sinh những năng lực: nghe,</i>
<i><b>nói, đọc, viết tiếng Việt. Những năng lực này ở học sinh được hình thành và phát</b></i>
triển theo 3 bậc học: Tiểu học, THCS và THPT. Ở bậc học THSC, môn Ngữ văn
bao gồm 3 phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Mỗi phân mơn có
một nhiệm vụ chức năng riêng và cùng hướng tới thực hiện nhiệm vụ chung của
môn Ngữ văn. Đối với phân môn Tập làm văn nhiệm vụ cơ bản bước đầu cung
<i>cấp những kiến thức cơ bản về đặc điểm và kĩ năng tạo lập các loại văn bản. Để</i>
thực hiện được cả hai hoạt động này, quá trình dạy học cần tích hợp tri thức và
<i>kĩ năng của cả ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Đồng thời còn</i>
cần huy động kiến thức của nhiều môn học khác nữa.
<i>Phân môn Làm văn cấp THCS có bản chất là dạy học sinh nói, viết một</i>
văn bản hồn chỉnh. Tức là dùng hoạt động nói, viết để tạo ra văn bản. Hoạt
động này giữ vai trị là trung tâm, là trục chính của mơn Ngữ văn. Chương trình
Tập làm văn cấp THCS nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về đặc điểm và cách
tạo lập các kiểu văn bản: Tự sự; miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và
một số văn bản hành chính thông dụng.
Nắm chắc kiến thức cơ bản về đặc điểm và có kĩ năng xây dựng các kiểu
văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh là cả một q trình địi hỏi sự nỗ
lực của học sinh. Nhưng tạo lập một văn bản nghị luận cịn khó khăn hơn đối
<i>với học sinh.Văn bản nghị luận sử dụng phương thức biểu đạt chính là nghị</i>
<b>II. Mục đích nghiên cứu.</b>
Nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học kiểu bài tập làm văn nghị luận lớp 7.
<b>III. Đối tượng nghiện cứu.</b>
Kiểu bài tập làm văn nghị luận lớp 7.
<b>IV. Phương pháp nghiên cứu.</b>
- Khảo sát thực tế.
- Nghiên cứu tài liệu.
- So sánh.
- Phân tích.
<b>V. Phạm vi nghiên cứu.</b>
- Học sinh lớp 7 trường THCS.
- Năm học: 2018 - 2019
2019 - 2020.
<b>B. NỘI DUNG</b>
<b>I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ.</b>
<b>1. Cơ sở lí luận.</b>
Văn nghị luận chiếm một tỉ lệ rất lớn thời lượng học tập của học sinh ở
trường THCS. Bắt đầu từ học kỳ II lớp 7 học sinh đã học kiểu bài tập làm văn
này. Rồi đến học kỳ II lớp 8 và học kỳ II lớp 9 học sinh lại tíêp tục học về cách
tạo lập văn bản nghị luận. Chưa nói đến ở phần văn bản, ngay từ học kỳ II lớp 7
học sinh cũng đã được học một số văn bản nghị luận. Vì vậy, việc hiểu đặc điểm
của văn nghị luận sẽ giúp ích rất nhiều cho học sinh trong việc học văn bản. Có
thể nói kiểu bài tập làm văn nghị luận có một vị trí rất quan trọng trong bộ môn
Ngữ văn.
Lớp 7 là lớp đầu tiên của bậc THCS học sinh được học kiểu bài tập làm
văn nghị luận. Do vậy học tốt kiểu bài này ngay từ năm đầu tiên sẽ tạo ra một
điều kiện rất thuận lợi cho học sinh những năm sau đó.
Việc học tốt văn nghị luận có vai trị, ý nghĩa rất tích cực. Học tốt văn
nghị luận, học sinh được rèn khả năng tư duy lơ gic, biết cách nói chuyện để
thuyết phục người khác đồng tình với quan điểm của mình. Học tốt văn nghị
luận khi đang ngồi trên ghế nhà trường có vai trị vơ cùng quan trọng.
<b>2. Cơ sở thực tiễn.</b>
Nghị luận là một kiểu văn bản mà học sinh sau này rất cần sử dụng trong
đời sống hàng ngày. Có lẽ vì thế mà trong chương trình Ngữ văn ở trưòng
THCS, kiểu bài này chiếm tỉ lệ thời gian khá lớn .
Với riêng học sinh lớp 7 thì tình hình lại càng tồi tệ hơn nữa. Có nhiều em chẳng
hiểu văn nghị luận là gì. Thực tế đó địi hỏi những người cầm phấn như chúng ta
cần phải suy nghĩ.
Là một giáo viên đứng lớp được 23 năm, lại làm quản lý về chuyên môn,
tôi được đi dự giờ của nhiều đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường. Trước thực
<b>a. Tình trạng khi chưa thực hiện.</b>
Một thực tế chúng ta nhận thấy hiện nay ở các trường THCS là việc dạy
-học kiểu bài tập làm văn nghị luận ở lơp 7 cịn nhiều hạn chế. Ngay ở trường
THCS tơi đang công tác, hiệu quả của các giờ dạy tập làm văn nghị luận cũng
còn nhiều điều phải xem xét. Thực trạng đó được thể hiện cụ thể như sau:
<b>- Về phía giáo viên: nhiều giáo viên chưa giúp học sinh hiểu được đặc</b>
điểm của kiểu văn bản nghị luận, chưa giúp học sinh biết cách tìm hiểu đề, tìm ý
và viết được các đoạn văn nghị luận.
<b>- Về phía học sinh: </b>
+ Còn nhiều học sinh chưa hiểu và nhớ được đặc điểm của văn nghị luận.
Vì vậy, học sinh không nhận biết được văn bản nghị luận, không nhận biết được
luận điểm, luận cứ và cách lập luận.
+ Cịn có học sinh khơng biết cách tìm hiểu đề, khi làm bài thì bị lạc đề.
+ Nhiều học sinh khơng biết cách tìm ý, sắp xếp ý, xây dựng đoạn văn
nghị luận. Trong bài làm, ý bị thiếu, bị sắp xếp lộn xộn, lập luận thiếu chặt chẽ,
diễn đạt lủng củng, tối nghĩa.
Có thực trạng trên là do các nguyên nhân sau:
- Trước hết, tôi nhận thấy, nghị luận là một kiểu bài khó.
- Nguyên nhân thứ hai, đó là nhiều giáo viên chưa trang bị cho mình một
- Một nguyên nhân nữa khiến việc dạy học kiểu bài tập làm văn Nghị luận
chưa đạt kết quả cao còn là do giáo viên chưa chú ý rèn kỹ năng cho học sinh.
Chính vì vậy, học sinh thiếu đi các kỹ năng cần thiết khi tạo lập một văn bản.
- Nguyên nhân thứ tư đó là cịn nhiều học sinh lười học, mải chơi. Chính
vì thế nên kết quả học tập khơng cao.
<b>b. Số liệu điều tra trước khi thực hiện.</b>
<i><b>Với đề bài: Giải thích câu nói của Lê-nin: “Học, học nữa, học mãi”.</b></i>
Năm học 2018 - 2019 tôi thu được kết quả như sau:
SL % SL % SL % SL % SL %
7B 36 1 2,7 7 19,4 20 55,6 8 22,3 0 0
Trong các bài làm của học sinh, tôi nhận thấy, tỉ lệ học sinh không sử
dụng đúng phương pháp lập luận chiếm tỉ lệ khá lớn (những bài được dưới điểm
trung bình). Cá biệt có bài lạc đề, sai cả phương thức biểu đạt (nhầm sang tự sự
hoặc không rõ một phương thức biểu đạt nào (bài bị điểm dươí 2,5). Nhiều em
thiếu ý hoặc sắp xếp ý lộn xộn. (Những bài đạt điểm trung bình và yếu). Nhiều
bài lập luận chưa chặt chẽ, bài văn chưa có tính mạch lạc, diễn đạt chưa lưu lốt,
chưa có tính hình ảnh. Số lượng bài được điểm khá giỏi chiếm tỉ lệ thấp.
<b>II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.</b>
<b> 1.Giải pháp 1: Giáo viên giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm của kiểu bài,</b>
<b>đề bài và cách làm bài.</b>
<i><b> 1.1.Giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu các tài liệu để nắm chắc kiến</b></i>
<i><b>thức về kiểu bài.</b></i>
<i><b> 1.1.1. Hiểu được đặc điểm của văn nghị luận.</b></i>
Giáo viên cần cho học sinh hiểu và nhớ được đặc điểm của kiểu văn bản.
Về đề văn nghị luận, cách làm bài văn nghị luận, tôi nhận thấy sách giáo
khoa đã đưa ra vấn đề rất rõ ràng, sách giáo viên cũng định hướng các nội dung
này rất cụ thể. Song phần đặc điểm của văn nghị luận thì sách giáo viên lại chưa
định hướng được một cách rõ ràng cho người dạy. Và đây cũng là nội dung mà
giáo viên mơ hồ nhất.
Trong thực tế có khơng ít giáo viên chưa nắm chắc các đặc điểm của văn
nghị luận chính vì thế khơng thể giúp học sinh hiểu được đặc điểm của kiểu văn
<i><b>bản. Qua nghiên cứu, tìm hiểu và suy luận, tơi nhận thấy văn nghị luận có</b></i>
<i><b>những đặc điểm sau đây:</b></i>
<i><b> - Có vấn đề nghị luận. Đó là đề tài mà bài văn đề cập đến. Vấn đề nghị</b></i>
<i>luận nằm ở nhan đề bài văn và ở đề bài tập làm văn. Ví dụ bài văn “Chống nạn</i>
<i><b>thất học” thì vấn đề nghị luận là nạn thất học; cịn nếu đề bài là “Giải thích</b></i>
<i>câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” thì vấn đề nghị luận là câu tục</i>
<i>ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Vấn đề nghị luận trả lời cho câu hỏi</i>
“Bài văn bàn về vấn đề gì?”. Khi tìm hiểu một văn bản nghị luận nào cũng phải
bắt đầu từ vấn đề nghị luận, từ đó mới tìm hiểu về luận điểm, luận cứ và lập
luận. Chỉ khi nào đã xác định được vấn đề nghị luận thì mới có thể tìm hoặc xây
<i><b> - Luận điểm: Là ý kiến thể hiện quan điểm, tư tưởng của người viết về vấn</b></i>
đề nghị luận.
ý chính trong bài văn nghị luận. Nói một cách hình ảnh thì nó là xương sống, là
linh hồn của bài văn nghị luận. Bài văn nghị luận thưịng có nhiều luận điểm.
<i>Có luận điểm chính và luận điểm phụ. Luận điểm chính là luận điểm thể hiện</i>
một cách bao quát nhất, trực tiếp nhất quan điểm của người viết về vấn đề nghị
<i>luận. Luận điểm phụ là luận điểm triển khai luận điểm chính hoặc là luận điểm</i>
xuất phát làm cơ sở cho luận điểm chính.
+ Về hình thức: luận điểm thường được diễn đạt rõ ràng cụ thể, trình bày
trong một câu (là câu khẳng định hoặc câu phủ định), có cấu tạo ngữ pháp đầy
đủ. Tuy nhiên, cũng có truờng hợp luận điểm được trình bày ở nhiều câu.
+ Về vị trí, luận điểm thường đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn.
<i><b> - Luận cứ: Là lý lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Lí lẽ là</b></i>
những đạo lí, lẽ phải đã được thừa nhận, nêu ra là được đồng tình. Dẫn chứng là
sự việc, số liệu, bằng chứng để xác nhận cho luận điểm. Lý lẽ và dẫn chứng phải
đúng đắn, phù hợp với luận điểm, ngoài ra dẫn chứng cịn cần phải tiêu biểu,
tồn diện mới tạo nên sức thuyết phục cho luận điểm.
<i><b> - Lập luận: Là cách nêu luận điểm và vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho</b></i>
luận điểm được nổi bật và có sức thuyết phục. Lập luận bao gồm các cách suy lí,
quy nạp, diễn dịch, phân tích, so sánh, tổng hợp sao cho luận điểm đưa ra là hợp
lí, khơng thể bác bỏ. Có thể nói lập luận có mặt ở khắp bài văn nghị luận. Có lập
luận mới đưa ra được kết luận của nó.
Để lập luận có tính chặt chẽ, thì từ việc lựa chọn luận cứ cho tới việc sắp
xếp luận cứ và trình bày luận cứ (Diễn đạt ý thành lời) đều phải tập trung hướng
vào luận điểm và vấn đề nghị luận.
<i><b>Ví dụ, trong văn bản “Chống nạn thất học”, để đi đến luận điểm một Cần</b></i>
<i><b>phải chống nạn thất học tác giả chọn các luận cứ sau: </b></i>
- Khi xưa, Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sách ngu dân, chúng
mở nhà tù nhiều hơn trường học, 95% dân số nước ta mù chữ.
- Nay, ta giành được độc lập rồi, phải xây dựng đất nước.
- Muốn xây dựng đât nước phải có kiến thức.
<i>Các luận cứ này được sắp xếp theo trình tự suy luận theo thời gian </i>
<i>(xưa-nay) và theo phép suy luận nhân - quả. Trong mỗi luận cứ đều thể hiện sự lập</i>
luận: Khi xưa, Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sách ngu dân, chúng
mở nhà tù nhiều hơn trường học (nhân) -> 95% dân số nước ta mù chữ.(quả).
<i>Luận cứ hai cũng được lập luận theo quan hệ ấy. Từ hai luận cứ, tác giả đưa ra</i>
<i>kết luận (luận điểm): Vì vậy, một trong những cơng việc cấp tốc lúc này là phải</i>
nâng cao dân trí. Mọi người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, bổn phận
của mình …là biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Lập luận như thế là chặt chẽ và
thuyết phục.
Ngoài việc nắm chắc đặc điểm của văn nghị luận, giáo viên cũng cần hiểu
đặc điểm của đề văn nghị luận và cách làm bài văn nghị luận. Sách giáo khoa
<i>Ngữ văn 7, Tập hai, trong tiết học về “Đề văn nghị luận và cách làm bài văn</i>
<i>nghị luận” đã chỉ rõ về đặc điểm của đề văn nghị luận: Nêu vấn đề nghị luận và</i>
<i>đòi hỏi người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề đó (SGK Ngữ văn 7 Tập hai</i>
<i>trang 23). Tuy nhiên, giáo viên cần lưu ý thêm: ngoài việc nêu vấn đề nghị luận</i>
và địi hỏi người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề đó, thì đề văn nghị luận
<i><b>1.1.3. Hiểu được cách làm văn nghị luận.</b></i>
Các bước làm một bài văn nghị luận cũng được thực hiện như các bước
làm các kiểu văn bản khác đó là tìm hiểu đề, tìm ý; lập dàn bài; viết bài và cuối
cùng là kiểm tra văn bản.
Khi tìm hiểu đề, cần tìm hiểu vấn đề nghị luận, mệnh lệnh đề và phạm vi
dẫn chứng được sử dụng để không bị lạc đề, không bị sai phương pháp lập luận.
Sau khi có luận điểm rồi thì tìm luận cứ. Đây cũng là cơng việc rất quan
trọng, vì nếu khơng có luận cứ thì luận điểm cũng khơng có sức thuyết phục.
Luận cứ phải phù hợp với luận điểm, phải đúng đắn, nếu là dẫn chứng thì phải
Về cách lập dàn bài, viết bài thì sách giáo khoa và sách giáo viên đã trình
bày rất rõ ràng vì thế tơi xin khơng được trình bày ở đây.
Nói tóm lại, hiểu rõ đặc điểm của văn nghị luận, nắm chắc đặc điểm của
đề văn và cách làm bài văn là yêu cầu cần thiết đối với giáo viên dạy Ngữ văn.
Do vậy, nếu chúng ta còn chưa rõ ở nội dung nào thì cần tự học hỏi để nắm chắc
vấn đề, có như vậy chúng ta mới có thể chủ động về kiến thức, mới có thể định
hướng cho học sinh khi các em không biết là hoặc làm chưa đúng.
<i><b>1.2. Dự kiến phương pháp dạy học để giúp học sinh hiểu được nội</b></i>
<i><b>dung kiến thức về kiểu bài.</b></i>
Khi giáo viên đã làm chủ kiến thức thì việc tiếp theo sẽ là dự kiến được
phương pháp dạy học. Nếu biết sử dụng phương pháp dạy học phù hợp thì mang
lại hiệu quả.
Trong dạy - học tập làm văn, chúng ta có các phương pháp quy nạp, phân
tích mẫu, diễn dịch, so sánh, thực hành…Tuy nhiên sử dụng phương pháp nào
trong giờ dạy phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhât là kiểu bài và
đối tượng học sinh. Với các bài dạy hình thành lý thuyết chúng ta thường sử
dụng phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích mẫu, phương pháp so sánh.
Với các bài luyện tập thưòng sử dụng phương pháp thực hành.
Phương pháp quy nạp và Phương pháp phân tích mẫu luôn kết hợp với
nhau trong một tiết dạy lý thuyết kiểu bài tập làm văn. Phương pháp so sánh có
thể dùng khi dạy các kiến thức lý thuyết cũng có thể là dạy thực hành. Ví dụ so
sánh khi tìm luận điểm, khi tìm hiểu đề.
<i>Chẳng hạn, khi dạy bài “Đặc điểm của văn nghị luận”, có thể cho học</i>
<i>sinh so sánh vị trí của luận điểm chính trong văn bản “Chống nạn thất học” và</i>
<i>văn bản “Cần tạo thói quen tốt trong đời sống xã hội” để rút ra kết luận là: Luận</i>
điểm chính có thể đứng ở đầu bài văn với tư cách là luận điểm xuất phát hoặc
đứng ở cuối văn bản với tư cách là luận điểm kết luận. Khi tìm hiểu đề văn nghị
luận có thể cho học sinh so sánh hai hoặc ba đề bài để tìm ra điểm giống và
điểm khác của mỗi đề từ đó rút ra kết luận.
Để làm được điều này, giáo viên cần hiểu rõ đối tượng học sinh của mình,
đọc kỹ mục tiêu cần đạt trong chuẩn kiến thức, kỹ năng từ đó biết được trong bài
dạy cần giúp học sinh hiểu và nhớ được kiến thức nào, rèn được kỹ năng nào,
phát huy năng lực nào, bồi dưỡng thái độ nào để dự kiến các phương pháp cho
phù hợp.
<b>Mục tiêu cần đạt</b> <b>Phương pháp, phương tiện</b> <b>Nội dung ghi bảng.</b>
Học sinh hiểu được
đặc điểm của văn nghị
luận: + Luận điểm.
+ Luận cứ
+ Lập luận.
Hiểu được từng đặc
điểm đó về nội dung,
tính chất, vai trị.
- Phát triển năng lực
tư duy, làm việc độc
lập.
<i>Chiếu toàn văn bản “Chống</i>
<i>nạn thất học”.</i>
? Vấn đề nghị luận của văn
bản là gì? (Nạn thất học)
? Ý kiến thể hiện quan điểm
của tác giả về vấn đề đó như
thế nào?
? Ý kiến ấy được gọi là luận
điểm. Vậy luận điểm là gì?
? Nếu bài văn chỉ có một
luận điểm này thì đã thuyết
phục chưa? Tại sao?
- Bài văn còn một luận điểm
nữa (Mọi người đều phải
tham gia vào việc chống nạn
thất học). Hai luận điểm này
tập trung làm rõ cho vấn đề
nghị luận, đáp ứng được yêu
cầu của người đọc.Từ hai câu
hỏi này học sinh đã hiểu
được luận điểm là gì, luận
điểm có đặc điểm nào. Tiếp
đó giáo viên đưa câu hỏi đi
đến kết luận về luận điểm
chính, luận điểm phụ.
Hãy chỉ ra vai trò của luận
? Chỉ ra những câu văn chứa
luận điểm. Nhận xét về cấu
tạo, cách diễn đạt và vị trí
của các câu văn đó.
- LĐ 1 được thể hiện ở nhan
<i>đề, ở câu “Một trong những</i>
<i>…là nâng cao dân trí. Mọi</i>
<i>người Việt Nam…biết đọc</i>
<i>biết viết chữ Quốc ngữ.”</i>
- Luận điểm hai không được
diễn đạt thành câu.(Được thể
hiện trong nhiều câu ở nhiều
<b>I. Đặc điêm của văn</b>
<b>nghị luận.</b>
<b>1.VD: Văn bản “Chống</b>
nạn thất học”.
<b>2. Nhận xét:</b>
- Vấn đề nghị luận: nạn
thất học.
- Quan điểm của người
viết về vấn đề nghị luận:
cần chống nạn thất học.
+ Luận điểm phải tập
trung để làm rõ vấn đề
nghị luận.
+ Có luận điểm chính và
luận điêm phụ.
+ Luận điểm có tính đúng
đắn, chính xác.
+ Luận điểm là xương
sống, là linh hồn của bài
văn nghị luận.
đoạn văn)
<i> Với kiến thức về luận cứ và lập luận chúng ta cũng làm tương tự theo cách</i>
như vậy. Điều lưu ý là giáo viên cần dự kiến các tình huống xảy ra trong giờ học
để có biện pháp xử lý cho phù hợp.
<i> Ví dụ hai, khi dạy bài “Đề văn nghị luận và cách làm bài văn nghị luận”, ở</i>
<i>mục “Đề văn nghị luận”, giáo viên có thể thiết kế như sau:</i>
<b>Mục tiêu cần đạt</b> <b>Phương pháp, phương tiện.</b> <b>Nội dung ghi bảng.</b>
Học sinh hiểu được đặc
điểm của đề văn nghị
luận: có vấn đề nghị
luận, mệnh lệnh, phạm
vi, tính chất.
- Ra được một đề văn
nghị luận.
- Phát triển năng lực tư
duy, giao tiếp, sử dụng
ngôn ngữ.
Chiếu các ví dụ lên máy
chiếu.(Là các ví dụ trong
sách giáo khoa ở bài học này
có bổ sung thêm một đề
<i>“Bằng các bài ca dao được</i>
<i>học trong chương trình Ngữ</i>
<i>văn 7 hãy chứng minh ca</i>
<i>dao là tiếng hát yêu thương</i>
<i>tình nghĩa”.) Học sinh quan</i>
sát.
? Xác định yêu cầu của các
đề bài trên.
- HS xác định yêu cầu của
từng đề, giáo viên nhận xét,
chữa bài.
? Các đề bài trên có gì giống
và khác nhau?
- Học sinh thảo luận để rút ra
nhận xét, giáo viện kết luận.
<b>I.Đề văn nghị luận.</b>
<b> 1.Ví dụ.</b>
SGK
<b> 2. Nhận xét:</b>
- Mỗi đề đều nêu vấn đề
nghị luận. Vấn đề nghị
luận có thể là một vấn
đề thuộc về hiện tượng
đời sống xã hội (đề 1,
2), có thể thuộc một tư
tưỏng đạo lý (đề 3, 4, …
11), có thể là một vấn
đề văn học.( đề bổ
sung).
- Có đề có mệnh lệnh.
(Chứng minh, nên
chăng, có mâu thuẫn
nhau khơng,…), có đề
khơng có mệnh lệnh.
- Có đề có phạm vi dẫn
? Hãy ra một đề văn nghị
luận.
- HS ra đề.
- GV nhận xét và chỉnh sửa
nếu hs làm chưa đúng.
tính chất ngợi ca, có đề
có tính khun nhủ, có
đề có tính bàn luận.
KL: Đề văn nghị luận
nêu vấn đề nghị luận,
thường có mệnh lệnh
đề, phạm vi và tính chất
đề.
Trên đây là hai ví dụ minh hoạ thể hiện việc lựa chọn phương pháp,
phương tiện dạy học trong các tiết dạy lý thuyết kiểu bài tập làm văn nghị luận ở
lớp 7. Với các nội dung cịn lại mà tơi chưa lấy ví dụ, giáo viên có thể áp dụng
cách làm này.
<b>2. Giải pháp 2: Rèn kỹ năng cho học sinh.</b>
<i><b>2.1.Rèn kỹ năng tìm hiểu đề.</b></i>
Yêu cầu với việc tìm hiểu đề là học sinh phải xác định được vấn đề nghị
luận, mệnh lệnh đề, phạm vi đề, từ đó để định hướng được phương pháp làm
bài. Muốn vậy, khi ra bài tập, giáo viên phải có sự lựa chọn các đề sao cho đạt
hiệu quả rèn kỹ năng cao nhất.
<i>Tôi lấy vi dụ, để rèn kỹ năng phân biệt đề nghị luận với đề tự sự, miêu tả</i>
<i>hoặc biểu cảm giáo viên có thể ra câu hỏi sau:</i>
<i>Chỉ ra yêu cầu của mỗi đề sau đây rồi cho biết đề nào là đề nghị luận?</i>
<i>Đề 1: Hãy kể một câu chuyện về lối sống giản dị của Bác.</i>
<i>Đề 2: Chứng minh Bác Hồ là người vô cùng giản dị.</i>
<i>Đề 3: Giản dị là một đức tính quý của con người. Em hiểu thế nào là giản dị?</i>
Từ bài tập này, học sinh phân biệt được đề văn nghị luận với đề văn tự sự.
Sau khi học sinh chỉ ra được đề hai và đề ba là đề nghị luận, giáo viên có
<i>thể hỏi tiếp câu hỏi sau đây để rèn kỹ năng tìm hiểu yêu cầu của đề văn nghị</i>
<i>luận: Vấn đề nghị luận và mệnh lệnh đề của hai đề nghị luận có gì khác nhau?</i>
<i>Chỉ ra được sự khác nhau đó (Đề hai nêu vấn đề và luận điểm của bài văn: “Bác</i>
<i>Hồ là người vơ cùng giản dị”, cịn đề ba vấn đề nghị luận là tính giản dị, đề ba</i>
<i>chưa có luận điểm. Mệnh lệnh của đề hai là chứng minh, còn ở đề ba là em hiểu</i>
<i>như thế nào tức là yêu cầu giải thích) nghĩa là học sinh đã hiểu được yêu cầu của</i>
từng đề.
<i>Còn muốn học sinh nhận diện về phạm vi dẫn chứng mà đề bài cho phép</i>
sử dụng thì giáo viên có thể cho học sinh làm bài tập so sánh hai đề, chẳng hạn
như ví dụ sau đây:
<i>Đề 1: Qua những bài ca dao được học trong chương trình Ngữ văn 7,</i>
<i>chứng minh rằng: ca dao là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa.</i>
<i>Đề 2: Chứng minh rằng: ca dao là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa. </i>
Sau khi cho học sinh quan sát đề, giáo viên cho học sinh chỉ ra điểm
giống của hai đề trên về vấn đề nghị luận, mệnh lệnh đề, giúp học sinh chỉ ra
được phạm vi dẫn chứng người viết được sử dụng khi làm mỗi đề bài có khác
nhau: đề một, học sinh chỉ được lấy những bài ca dao được học trong chương
trình Ngữ văn 7, cịn đề hai thì được lấy cả những bài ca dao khơng được học
trong chương trình.
Cơng việc rèn kỹ năng tìm hiểu đề cần phải thực hiện thường xuyên. Cần
tìm hiểu đề trong các tiết luyện tập, tiết luyện nói, tiết làm bài và cả tiết trả bài.
<i><b>2.2.Rèn kỹ năng tìm ý và sắp xếp ý.</b></i>
<i>Sau khi học sinh tìm hiểu đề, giáo viên cũng hỏi: với mệnh lệnh đề như</i>
<i>vậy, hướng làm bài của em như thế nào? Khi học sinh nêu được hưóng làm bài</i>
<i>rồi thì giáo viên hỏi tiếp: Vậy bài làm của em gồm những ý nào? Em sẽ sắp xếp</i>
<i>ý nào trước, ý nào sau? Để làm rõ cho từng ý chính, em đưa ra những lí lẽ nào</i>
<i>hoặc những dẫn chứng nào? Hoặc là Thử tưởng tượng xem nếu là người đọc ,</i>
<i>với những lí lẽ và dẫn chứng ấy, em đã thấy mình được thuyết phục chưa? Vậy</i>
<i>thì có cần bổ sung thêm lí lẽ hay dẫn chứng nào nữa không? Những câu hỏi như</i>
thế này có thể được lặp lại một vài lần cho đến khi học sinh quen với cách làm
thì giáo viên có thể linh hoạt hơn bằng cách hỏi những câu khái quát hơn. Điều
quan trọng là khi hướng dẫn học sinh thực hành tìm ý, sắp xếp ý giáo viên phải
là người định hướng, điều chỉnh cách làm sai của học sinh thành cách làm đúng
chứ không làm thay cho học sinh.
<i>khái quát lại thành những ý chung nào? Như vậy, học sinh sẽ được rèn cách tìm</i>
ý và sắp xếp ý cho đề văn nghị luận chứng minh.
Đối với đề văn nghị luận giải thích, việc tìm ý có khác, do vậy giáo viên
Nhiều học sinh đã biết tìm ý nhưng do khơng biết cách sắp xếp ý nên bài
văn nghị luận cũng khơng có sức thuyết phục. Vì vậy, giáo viên cũng lưu ý rèn
kỹ năng này cho học sinh. Một trong những câu hỏi giáo viên dùng để rèn kỹ
<i>năng sắp xếp ý cho học sinh là: Sắp xếp như thế nào để người đọc tiếp nhận vấn</i>
<i>đề tốt nhất?( Theo trình tự tư duy logic: ý trước là cơ sở, là tiền đề cho ý sau, ý</i>
sau nối tiếp hoặc phát triển hoặc làm rõ cho ý trước…) câu hỏi này có thể sẽ
được kết hợp với các câu hỏi gợi ý cho học sinh tuỳ theo từng đề bài cụ thể.
Các bài tập cần phong phú, từ dễ đến khó để tạo hứng thú học tập cho học
sinh. Thường xuyên như vậy, kỹ năng tìm ý và sắp xếp ý của học sinh sẽ được
nâng lên.
<i><b>2.3.Rèn kỹ năng dựng đoạn cho học sinh.</b></i>
Đoạn văn nghị luận đáp ứng đúng yêu cầu trước hết phải đáp ứng được yêu
cầu về nội dung: có luận điểm rõ ràng; luận cứ đúng đắn, chính xác, tiêu biểu
toàn diện và phù hợp với luận điểm, đủ để làm sáng rõ luận điểm.. Đồng thời
còn phải đáp ứng được yêu cầu về hình thức: Trình bày thành đoạn, diễn đạt rõ
ràng dễ hiểu, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, có cách lập luận chặt chẽ. Còn
đoạn văn nghị luận hay trước phải là đoạn văn đáp ứng được những yêu cầu của
một đoạn văn nghi luận đúng đồng thời phải dùng từ có tính hình ảnh, biết linh
hoạt các kiểu câu, các cách diễn đạt, kết hợp được yếu tố nghị luận với yếu tố
miêu tả, biểu cảm,…Nhìn chung là nhờ cách diễn đạt không chỉ giúp người đọc
hiểu được vấn đề mà còn gây hứng thú cho họ.
Thực tế, những đoạn văn nghị luận hay của học sinh nhất là học sinh lớp 7
thì khơng nhiều nếu khơng nói là rất ít. Phần lớn các em khơng biết suy luận. Có
em viết rất lủng củng, tối nghĩa, có em đã biết cách sắp xếp ý, dùng từ, nhưng
<i> Bước 1: Cho học sinh quan sát mẫu: mẫu là các đoạn văn nghị luận đáp</i>
ứng được yêu cầu đúng về nội dung và hay về diễn đạt.
<i> Bước 2: Cho học sinh phân tích mẫu: Chỉ ra nội dung của đoạn văn, nội</i>
dung, nhiệm vụ của từng câu trong đoạn, cách liên kết câu trong đoạn. Đặc biệt
giáo viên cần chỉ ra cho học sinh về các từ ngữ dùng để liên kết câu thể hiện sự
suy luận của người viết, tại sao là từ này mà không phải từ khác.(Do quan hệ
nghĩa giữa các câu). Từ đó, rút ra kết luận về yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi đoạn
văn nghị luận, mỗi câu văn nghị luận trong một đoạn, yêu cầu về liên kết câu.
Nhắc nhở học sinh cách suy luận để tạo tính thuyết phục cho đoạn văn, cách
dùng từ diễn đạt để đoạn văn không chỉ đúng mà còn hay.
<i>Bước 4: Chữa bài. Sau khi học sinh viết đoạn văn xong rồi, giáo viên xem</i>
bài làm của một số học sinh rồi chọn ba bài làm có ba mức độ làm bài khác nhau
(Có thể là yếu, trung bình và khá, hoặc là trung bình, khá và giỏi) cho học sinh
cùng quan sát. Rồi gọi học sinh nhận xét ưu điểm và nhược điểm trong bài làm
của bạn, nêu cách sửa lỗi, từ đó rút kinh nghiệm.
Lưu ý, để rèn kỹ năng viết đoạn cho học sinh, khi nhận xét về đoạn văn của các
em, giáo viên cần chỉ rõ ưu điểm là gì, hạn chế ở đâu, cách khắc phục như thế
nào từ đó học sinh mới tiến bộ được. Khi sửa nên tôn trọng chủ ý của học sinh.
Song song với việc rèn kỹ năng viết đoạn là rèn kỹ năng liên kết đoạn cho
học sinh. Có một số cách để liên kết đoạn trong đó phổ biến nhất là dùng từ và
dùng câu. Cần lưu ý rằng, rèn kỹ năng là công việc khơng đơn giản, địi hỏi
người giáo viên khơng chỉ có kiến thức, phương pháp mà cịn có cả sự say mê,
kiên trì, lịng u nghề, u trị mới có thể làm được.
<b>3.Giải pháp 3: Tạo hứng thú học tập cho học sinh.</b>
<i>Cách thứ nhất là giúp học sinh tiến dần đến thành công. </i>
Bắt đầu từ những bài tập đơn giản. Khi học sinh đã biết làm các bài tập đơn giản
rồi thì tăng dần độ khó. Cần kiên nhẫn, khơng địi hỏi q cao với những em học
sinh yếu và trung bình. Đồng thời khơng nên tiết kiệm những lời động viên
khích lệ khi các em có sự tiến bộ. Hãy ghi nhận sự cố gắng của học sinh, dù có
thể sự cố gắng ấy lúc đầu chưa mang lại kết quả.
<i>Cách thứ hai là biết khơi nguồn sáng tạo đối với những học sinh giỏi. Trong một</i>
lớp học thường có rât nhiều đối tượng học sinh khác nhau. Có những học sinh
yếu và có cả những học sinh giỏi cùng học trong một lớp. Vì vậy các bài tập
giáo viên đưa ra cho học sinh vừa tạo hứng thú cho học sinh yếu, học sinh trung
bình, lại phải tạo được hứng thú cho học sinh khá giỏi.Vậy nên bên cạnh các bài
tập đơn giản, giáo viên cũng cần đưa ra các bài tập có vấn đề để khơi nguồn
sáng tạo cho học sinh. Tơi lấy ví dụ, cùng một vấn đề nghị luận là câu tục ngữ
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", chúng ta có thể đưa ra các yêu cầu khác
nhau sau đây:
- Hãy giải thích câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”.
- Hãy chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn
thì rạng”.
- Có người nói “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” nhưng có người bảo: gần
mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. Ý kiến của em như thế nào?
Với đề thứ ba chúng ta đã khích lệ sự suy nghĩ đa chiều của học sinh. Bước
đầu cho các em thấy rằng trong một vấn đề nghị luận không phải bao giờ cũng
<i>chứa đựng một tư tưởng hồn tồn đúng đăn. Từ đó các em tập bước những</i>
<i>bước xa hơn trong học tập</i>
<b>III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.</b>
<b> Sau hai năm học áp dụng lí thuyết vào thực tế, tôi nhận thấy kết quả dạy học</b>
kiểu văn bản nghị luận cho học sinh lớp 7 được tăng lên rất nhiều. Hầu hết học
sinh đã hiểu và nhớ được đặc điểm của văn nghị luận, có kỹ năng nhận diện đặc
điểm của văn bản nghị luận cụ thể. Phần lớn học sinh thực hành đúng kỹ năng
tìm hiểu đề, tìm ý cho một đề văn nghị luận xã hội vừa sức với các em. Khơng
có học sinh nào bị lạc đề khi làm bài. Nhiều học sinh đã biết dựng đoạn văn, biết
diễn đạt có hình ảnh, biết lập luận chặt chẽ. Đặc biệt, nhiều em rất hứng thú với
việc học tập, dù văn nghị luận là một kiểu văn bản khó.
Kết quả cụ thể của tập thể lớp có so sánh đối chứng.
<i><b> Trước khi thực hiện đề tài với đề bài: Giải thích câu nói của Lê-nin: “Học,</b></i>
<i><b>học nữa, học mãi”, năm học 2018 – 2019 tôi thu được kết quả như sau:</b></i>
<b> </b>
<b>Lớp</b> <b>TS</b>
<b>Điểm</b>
<b>0->2,5</b>
<b>Điểm</b>
<b>3-> 4,5</b>
<b>Điểm</b>
<b>5->6,5</b>
<b>Điểm</b>
<b>7->8,5</b>
<b>Điểm</b>
<b>9->10</b>
SL % SL % SL % SL % SL %
7B 36 1 2,7 7 19,4 20 55,6 8 22,3 0 0
<b> </b>
Sau đó nhờ áp dụng đề tài vào thực tiễn, với đề bài: Giải thích và chứng
minh câu nói: “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”, năm học
2019 – 2020 tôi thu được kết quả như sau:
<b>Lớp</b> <b>TS</b>
<b>Điểm</b>
<b>0->2,5</b>
<b>Điểm</b>
<b>3-> 4,5</b>
<b>Điểm</b>
<b>5->6,5</b>
<b>Điểm</b>
<b>7->8,5</b>
<b>Điểm</b>
<b>9->10</b>
SL % SL % SL % SL % SL %
7C 41 0 0 0 0 14 34,1 25 61,0 2 4,9
pháp vào việc dạy kiểu bài văn nghị luận, kết quả học tập đã được nâng lên. Tỉ
lệ học sinh yếu giảm, tỉ lệ học sinh khá và giỏi tăng lên.
<b>C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ</b>
<b>I. KẾT LUẬN.</b>
“Các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy - học kiểu văn bản nghị luận trong
chương trình Ngữ văn 7” đề cập đến các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học phần tập làm văn về kiểu bài văn nghị luận trong chương trình Ngữ
văn lớp 7. Áp dụng cách làm này sẽ giúp cho thầy và trò đạt được hiệu quả cao
hơn trong quá trình dạy và học. Đây sẽ là bước đệm đầu tiên cho học sinh khi
bắt đầu làm quen với kiểu bài văn nghị luận từ đó giúp các em có những bước
phát triển cao hơn trong học tập.
<b>II. KHUYẾN NGHỊ. </b>
sau. Tơi rất mong chương trình sách giáo khoa mới sau khi điều chỉnh sẽ có
nhiều ưu điểm, tạo điều kiện tốt cho người dạy và người học.
Tôi cũng rất mong cùng với các đồng chí trong tổ chuyên môn của nhà
Tôi xin chân thành cảm ơn!
<b>D. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.</b>
<b>- Sách giáo viên Ngữ văn 7 Tập một.</b>
- Các bài viết của thạc sĩ Triệu Thị Huệ, tiến sĩ văn học Nguyễn Văn
Tùng, tiến sĩ Chu Văn Sơn trên “Văn học và tuổi trẻ”.