Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.77 KB, 55 trang )

Lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của
Ngân hàng thương mại
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm:
Tín dụng là quan hệ vay mượn, tạm thời sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn
trả và sự tin tưởng. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình quan hệ tín dụng cùng tồn
tại như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng thuê mua, tín
dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế. Song căn cứ vào chức năng và vai trò của NHTM với nền
kinh tế mà tín dụng ngân hàng có thể được coi là loại quan hệ tín dụng quan trọng nhất,
phổ biến nhất với nền kinh tế và thường xuyên được quan tâm nghiên cứu.
Tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, một
tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, một bên là các chủ thể còn lại của nền
kinh tế. Tuy nhiên, quan niệm phổ biến về tín dụng ngân hàng là: Tín dụng ngân hàng được
hiểu là việc cho vay của NHTM với các chủ thể của nền kinh tế.
Theo luật tổ chức tín dụng năm 1998 của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam thì: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác” và “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức
tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”
1.1.2.Phân loại tín dụng:
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và
mục tiêu quản lý của ngân hàng.Sau đây là một số cách phân loại:
- Phân loại theo thời gian( thời hạn tín dụng): Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan
trọng đối với vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng còng
như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
+ Tín dụng ngắn hạn : từ 12 tháng trở xuống
+ Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm
+ Tín dụng dài hạn: trên 5 năm
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể( ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp
đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng 1
khoản tín dụng.Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân


hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Ví dụ, cho vay 3
tháng từ 1/1 đến 1/4 có nghĩa ngân hàng sẽ phát tiền vat đầu tiên vào lúc 1/1 và đến 1/4
sẽ phải thu hết gốc và lãi. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân
hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng. Ví dụ, ngân hàng cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng 100 triệu trong 6 tháng, hết 6 tháng ngân hàng sẽ xem xét lại,
có thể tăng giảm hoặc chấm dứt quan hệ tín dụng với khách hàng.Tuy nhiên còng có
khoản cho vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng
thỏa thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền
gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền.Việc xác định trước thời hạn thu nợ
trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản
phẩm.
- Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
+ Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu 1
thương phiếu chưa đến hạn( hoặc 1 giấy nợ). Về mặt pháp lí thì ngân hàng không phải
đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.Tuy
nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về 1 khoản lớn hơn trong tương
lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng
tiền cho người bán, nhưng thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người
bán.
+ Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải
hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
+ Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử
dụng uy tín của mình để thu lợi.
+ Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi
cho khách hàng.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo:
+ Tín dụng không có đảm bảo: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp

không có bảo lãnh của người thứ ba.
+ Tín dụng có đảm bảo: là tín dụng có tài sản cầm cố thế chấp hay có bảo lãnh của
người thứ ba.
- Phân loại tín dụng theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này,ngân hàng cần nghiên
cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang
bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm
cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp ngân
hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng
tổn thất kịp thời.Có thể kể các loai tín dụng sau:
+Tín dụng lành mạnh: là các khoant tín dụng có khả năng thu hồi cao.
+Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên tai,
khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và
khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá ytij lớn…
+ Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ kém, tài sản thế chấp
nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì..
- Căn cứ vào mục đích của tín dụng:
+ Tín dụng bất động sản: đây là các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất động
sản, bao gồm: tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai và tín dụng dài hạn
để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ cơ sở dịch vụ, trang trại và bất động sản ở nước ngoài.
+ Tín dụng công và thương nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp để trang trải chi phí thu mua nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả lương.
+Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông
nghiệp, nhằm trợ cấp cho các hoạt động nông nghiệp, trợ giúp các hoạt động trồng
trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc.
+Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm hàng
hóa tiêu dung đắt tiền như xe hơi, nhà cửa, trang thiết bị trong nhà…
+ Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các ngân
hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.

+ Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và cho
thuê lại chúng.
+ Tín dụng khác: bao gồm các khoản tín dụng chưa được phân loại ở trên( ví dụ
như tín dụng kinh doanh chứng khoán)
1.1.3.Các nghiệp vụ tín dụng
1.1.3.1.Chiết khấu thương phiếu:
(1) Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và dịch vụ
giữa khách hàng với nhau.Người bán(hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến
hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết
khấu trước hạn. Sau đây là sơ đồ luân chuyển thương phiếu: Người bán chuyển hàng hóa
hoặc dịch vụ cho người mua
(2) Thương phiếu được lập, người mua kí, cam kết trả tiền cho người thụ hưởng khi thương
phiếu đến hạn và giao thương phiếu cho người bán đồng thời là người thụ hưởng.
(3) Trong thời hạn có hiệu lực của thương phiếu, người bán có thể mang thương phiếu đến
ngân hàng để xin chiết khấu.
(4) Sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, ngân hàng có thể phát tiền cho người bán và
nắm giữ thương phiếu( ngân hàng có thể yêu cầu người bán kí hậu thương phiếu, cam kết
trả tiền cho ngân hàng nếu người mua không trả, quyền truy đòi đối với thương phiếu).
(5) Đến hạn ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền( nếu người mua không
trả, ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên kí tên trên thương phiếu).
Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vaò lãi suất chiêt khâú, thời hạn chiết khấu và
lệ phí chiết khấu. Ví dụ, nếu lãi suất chiết khấu là 6%, giá trị của thương phiếu là 1 triệu
đồng, thời hạn còn lại của thương phiếu 6 tháng thì số tiền ngân hàng phát ra là: 1 triệu*(1-
0,06/2)=0,97 triệu
Nếu sau 6 tháng ngân hàng đòi được1triệu thì số lãi mà ngân hàng thu được trong 6
tháng là: 1-0,97= 0,03 triệu.
Vậy lã suất thực là: 0,03*2/0,97=6,185%/năm
Bên cạnh áp dụng lãi suất chiết khấu( thường chung cho các thương phiếu) ngân
hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm lệ phí chiết khấu đối với những trường hợp cụ thể
có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền.

Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và
những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách, ngân hàng thường kí với
khách hợp đồng chiết khấu( cấp cho khách hàng hạn mức chiết khấu trong kì). Khi cần
chiết khấu khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng
sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có 2 người
cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao( trừ trường
hợp ngân hàng kí miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có
thể tái chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản
với chi phí thấp( vì vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển
nhượng- có tính thanh khoản cao).
1.1.3.2. Cho vay
+ Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội
(vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến 1 giới hạn nhất định và trong khoảng
thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi khách
hàng phải làm đơn xin ngân hàng han mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả
phí cam kết thấu chi cho ngân hàng).
Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập ủy nhiệm chi…vượt quá số dư
tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản
tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà ngân hàng phải trả là: lãi suất thấu chi *
thời gian thấu chi * số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình
thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và qui
mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không
chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá
trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài
tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng… Hình thức này
nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì

thu nhập ngắn.
+ Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng
đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp
hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu
cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng
chỉ tham gia vào 1 số giai đoạn nhất định của chi kì sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.
Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời
hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được
tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình
khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có
dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. lãi
suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản.Ngân hàng có thể kiểm soát từng
món vay tách biệt.
+ Cho vay theo hạn mức:
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn
mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại
thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay
vốn của khách hàng.
Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay-trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt
quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng qui định hạn mức cuối kì. Dư nợ
trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm
dư nợ sao cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính
chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên,

vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này
ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu
nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ cho khách hàng. Tuy
nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm
soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng
nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.
Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ
thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm đơn xin vay
luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức
tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể
được thỏa thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời gian hoàn trả mà là thời
hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa
hay không tùy mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng còng như tình hình tài chính
của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp
đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời
gian tới. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu
bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền
gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và
số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị
hàng hóa mua vào (có hóa đơn, hợp pháp, hợp lệ đúng đối tượng) đều là đối tượng được
ngân hàng cho vay, thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng.Ngân hàng sẽ
cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người
vay. Các khoản phải thu và cả hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho
vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc
doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay-trả thường xuyên với
ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần

thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy,
việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong
tiêu thụ (hàng hóa tồn đọng..)thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời
hạn của khoản vay không được qui định rõ ràng.
+ Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả
gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp
dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu
hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kì của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất
định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả
góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lí
thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín
dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng
hóa.Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp.
Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc,
ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng còng bị ảnh hưởng.Chính vì
rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của
ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp:
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó ngân hàng còng
phát triển các hình thức cho vay gián tiếp.Đây là hình thức cho vay thông qua các hình
thức trung gian.
Ngân hàng
Trung gian: tổ, đội, hội, nhóm
Khách hàng (thường là nông dân, người buôn bán nhỏ…)
(1)
(2)
(3)
(3)

(1) Phân tích tín dụng trước khi cho vay
(2) Ngân hàng phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng
(3) Các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho ngân hàng
Ngân hàng cho vay qua các tổ, hội, đội nhóm như nhóm sản xuất,Hội nông dân,
Hội cựu chiến binh,Hội phụ nữ ..Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo các
mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì
vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xóa đói giảm nghèo luôn được các trung gian quan
tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các hoạt động
trung gian, như thu nợ, phát tiền vay…Tổ chức trung gian còng có thể đứng ra tín chấp cho
các thành viên vay, hoặc các thành viên đưa ra bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này
rất thuận tiện cho người vay không có hoặc không đủ thời gian thế chấp.Để bù đắp một
phần chi phí của trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian.
Ngân hàng còng có thể cho vay thông qua các sản phẩm bán lẻ các sản phẩm đầu
vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền
sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ,
người vay phân tán cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian
tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích,giám sát, thu nợ..)
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy
nhiên, nó còng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng các vị thế của mình
và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền
của các thành viên khác cho mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất
lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
1.1.3.3.Cho thuê tài sản (thuê- mua)
Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng chung và dài hạn. Ngân
hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ
( hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi ( thời hạn khoảng 80-90% đời sống kinh
tế của tài sản). Hết hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
Ngân hàng (người cho thuê)

Nhà cung cấp trang thiết bị
Khách hàng (người thuê)
(3)
(2)
(1)
(5)
(4)

(1) Khách hàng làm đơn gưởi ngân hàng nêu yêu cầu về tài sản cần thuê.Sau khi phân tích dự
án và tình hình tài chính của khách hàng, ngân hàng kí hợp đồng mua với khách hàng.
(2) Khách hàng gặp người sản xuất để nêu yêu cầu về qui cách, chất lượng tài sản thuê, người
sản xuất có thể phải cam kết bảo hành cho người thuê.
(3) Ngân hàng kí hợp đồng mua tài sản với người sản xuất.
(4) Người bán giao tài sản cho người thuê.
(5) Ngân hàng kiểm soát tình hình sử dụng tài sản thuê, thu tiền thuê, hoặc thu hồi tài sản nếu
thấy người thuê vi phạm.
Cho thuê (thuê – mua )giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ ngân hàng phải
xuất tiền thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải trả gốc và lãi dưới
hình thức thuê hàng kỳ. Ngân hàng còng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh
không có hiệu quả không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, cho thuê có
nhiều điểm khác biệt so với cho vay như tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân
hàng( vì vậy không ghi vào bản cân đối tái sản của người vay, không làm tăng cơ cấu nợ
của người vay), ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp
đồng, đồng thời ngân hàng còng phải có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho
khách hàng và phải đảm bảo chất lượng về tài sản đó. Cho thuê không có tài sản đảm bảo,
nhiều tài sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao…nên cho
thuê rủi ro rất cao đối với ngân hàng.
Ngân hàng có thể lập phòng cho thuê hoặc công ty cho thuê để thực hiện và quản
lí hoạt động cho thuê.
1.1.3.4.Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh

Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh, và bên bảo
lãnh. Bảo lãnh ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng của ngân hàng
là bên được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
• Các loại bảo lãnh phân theo mục tiêu:
- Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ
thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các qui định trong
hợp đồng dự thầu.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như
đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và
hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như trúng thầu
song không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư… chủ đầu
tư thường yêu cầu bên dự thầu phải kí quỹ (đặt cọc) dự thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ
bị mất tiền kí quỹ. Do kí quỹ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt làm
đọng vốn của bên tham gia dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền kí quỹ bằng bảo
lãnh của ngân hàng.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất hộ
khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất
cho bên thứ ba.
Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hóa, xây dựng, vật liệu thiết
kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn, không đúng chất
lượng cam kết…đều có thể gây tổn thất lớn cho bên thứ ba. Bảo lãnh của ngân hàng một
mặt bù đắp tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp
đồng.
- Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước:
Nhiều người cung cấp yêu cầu khách hàng (người mua hàng hóa dịch vụ) phải đặt
trước một phần tiền trong giá trị cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một phần
vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt.

Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng đồng thời không trả tiền đặt
cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của ngân hàng về việc phải trả tiền
ứng trước. Vậy bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc
hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua ( người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp( người
được bảo lãnh) không trả.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vay vốn (bảo lãnh vay vốn).
Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo hoặc bằng hàng hóa,
chứng khoán, bất động sản, hoặc bảo lãnh của người thứ ba (tín chấp)… Nhà nước,doanh
nghiệp tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, nếu
uy tín của người vay trên thị trường đó chưa cao, việc phát hành sẽ rất khó khăn. Bảo lãnh
đảm bảo hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín
dụng, các cá nhân…) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng thời hạn (người đi vay) không trả được.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
Là cam kết của ngân hàng về việc thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho
người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ.
• Bản chất và ý nghĩa của bảo lãnh ngân hàng:
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách
hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các sản xuất
kinh doanh nhằm thu lợi.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền
ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoài bảng. Tuy nhiên, khi khách
hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả chon bên
thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản xấu trong nội bảng, cấu thành nợ quá
hạn. Chính vì vậy bảo lãnh còng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi
ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay.
Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm hành chính và san sẻ rủi ro.
Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp
khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa ngân hàng
với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết. Bảo lãnh
còng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xẩy ra.

Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí. Phí
bảo lãnh được tính theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh. Ngoài phí, ngân hàng có thể
yêu cầu khách hàng phải ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân hàng với mức lãi suất
rất thấp. Bảo lãnh còng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tư
vấn, thanh toán…
Ngân hàng (bên bảo lãnh)
Khách hàng của ngân hàng (bên được bảo lãnh)
Người thứ 3 (bên hưởng bảo lãnh)
(4)
(1)
(a)
(2)
(3)
(a) Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ 3 về thanh toán, về xây dựng, hay vay
vốn… Bên thứ 3 yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng.
(1) Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện
phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu của bảo lãnh còng như mức độ rủi ro.
Nếu đồng ý ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư
bảo lãnh.
(2) Ngân hàng (hoặc khách hàng) thông báo về thư bảo lãnh co bên thứ 3.
(3) Theo như đã thỏa thuận với khách hàng và bên thứ 3, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh với bên thứ 3 nếu nghĩa vụ đó xảy ra.
(4) Nếu như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, ngân hàng yêu cầu khách hàng
phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng.
• Quy trình bảo lãnh của ngân hàng:
Bước 1: Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng ghi rõ số tiền, điều kiện bảo
lãnh. Ngân hàng phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba,
yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Qua đó ngân hàng xác định rủi ro và các biện pháp phòng
ngừa.
Bước 2: Kí hợp đồng bảo lãnh vơi khách hàng. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với

hợp đồng kinh tế giữa khách hàng với ngân hàng thể hiện ràng buộc tài chính giữa ngân
hàng và bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng:
- Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng
- Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả của ngân
hàng.
- Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp đồng
của bên được bảo lãnh.
- Hình thức bảo lãnh.
- Phí bảo lãnh, số tiền kí quỹ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà khách hàng
phải thực hiện đối với ngân hàng.
- Trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ với
bên thứ ba.
Bước 3: Hình thức bảo lãnh
Ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh dưới hình thức sau:
- Phát hành thư bảo lãnh
- Mở thư tín dụng
- Kí hối phiếu nhận nợ
Lựa chọn hình thức nào là tùy thuộc chủ yếu vào yêu cầu của bên thứ 3.Để hạn chế rủi
ro, bên thứ ba có thể yêu cầu đích danh ngân hàng bảo lãnh và hình thức bảo lãnh. Phát
hành thư bảo lãnh có thể áp dụng cho mọi loại bảo lãnh, bảo lãnh thanh toán được thực
hiện dưới hình thức mở thư tín dụng (bảo lãnh mở L/C trả chậm).Độ an toàn của hình thức
này rất cao do tính pháp lí quốc tế của L/C.bảo lãnh vay vốn (thường vay của các tổ chức
tín dụng nước ngoài) được thực hiện dưới hình thức kí phát hối phiếu. Thư bảo lãnh kèm
theo hối phiếu trả tiền đã được ngân hàng kí với ngày trả tiền đúng vào ngày khách hàng
phải trả cho bên thứ ba.
1.1.4.Các hình thức đảm bảo trong tín dụng
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận
tín dụng. Lí do khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả
năng trả nợ cho ngân hàng do thu nhập từ hoạt động giảm sút mạnh. Những biến cố không
mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách

hàng có uy tín cao, phần lớn khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của
ngân hàng. Đặt yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng muốn có được nguồn trả nợ
thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động không đảm bảo trả nợ.
1.1.4.1.Các hình thức tài sản đảm bảo
• Phân loại theo tính chất an toàn: ngân hàng chia tài sản đảm bảo thành 2 loại: loại 1 và loại
2.
Loại 1 là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc đảm bảo
của bên thứ 3 cho khách hàng của ngân hàng (bảo lãnh). Những đảm bảo này không được
hình thành từ khoản tín dụng của chính ngân hàng. Đảm bảo loại 1 có thể có giá trị lớn
hơn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của khoản tín dụng tùy thuộc vào dự đoán của ngân hàng về
rủi ro. Các khoản tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo loại 1 thường đảm bảo an toàn cho
ngân hàng, song gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn khách hàng trong việc định giá, bảo
quản, làm cho thời gian phân tích tín dụng thường bị kéo dài.
Loại 2 là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng. Ví dụ khi ngân
hàng cho người nông dân vay 10 triệu để mua bò, người nông dân không có tài sản đảm
bảo loại 1, thì số bò hình thành từ vốn vay sẽ có thể trở thành đảm bảo loại 2. Đây là liệu
pháp cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế việc người vay bán tài sản được hình thành từ
vốn vay. Tuy nhiên, khi người vay không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này
còng đều bị giảm giá,khó bán. Do đó, tài sản loại 2 không đảm bảo cho ngân hàng thu đủ
gốc và lãi. Tài sản loại 2 thường áp dụng cho khách hàng mà tài sản loại 1 có ít hoặc không
thể trở thành tài sản đảm bảo cho ngân hàng.
• Phân loại tài sản đảm bảo theo hình thức vật chất
+) Đảm bảo bằng hàng hóa trong kho như nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm…Nếu
ngân hàng có kho bãi riêng hoặc có phương thức bảo quản thích hợp thì đây là hình thức
rất thuận lợi cho khách hàng và ngân hàng. Các nhân tố tác động đến việc chấp nhận hàng
hóa làm đảm bảo:
- Khả năng kiểm soát hàng hóa đảm bảo: nếu hàng đảm bảo thuộc kho người vay, hoặc kho
người vay thuê, ngân hàng phải nắm quyền kiểm soát việc bán hàng hóa đó nếu không
ngân hàng phải có kho để cất giữ hàng đảm bảo. Ngân hàng phải nắm giữ hàng hoặc giấy
tờ lưu kho để đảm bảo người vay không mang thế chấp cho ngân hàng khác, hoặc rút hàng

ra bán. Ngân hàng còng xem xét việc những đảm bảo này có thể đã mang đảm bảo cho tổ
chức tín dụng khác để vay vốn. Khi có nhu cầu vay, người vay phải trình cho ngân hàng
kiểm soát hàng hóa trong kho (sau khi trừ đi hàng hóa đảm bảo nợ khác, hàng kém chất
lượng, hàng hóa được tài trợ bằng nguồn vốn tự có…khoảng 70-80% phần còn lại mới là
đối tượng cho vay của ngân hàng, đồng thời là đảm bảo cho khoản vay).
- Tính thị trường của hàng hóa đảm bảo. Ngân hàng quan tâm đến tính ổn định giá trị thị
trường của đảm bảo: hàng hóa phải dễ bán( có thị trường )và giá phải tương đối ổn định.
- Khả năng bảo quản và định giá hàng đảm bảo:rất nhiều hàng hóa đòi hỏi kỹ thuật bảo quản
cao, nếu không sẽ bị giảm giá. Do vậy ngân hàng chỉ thường chấp nhận hàng hóa ít chịu
ảnh hưởng của yếu tố môi trường.
Hàng hóa phải được bảo hiểm. Bảo hiểm sẽ tránh cho ngân hàng tổn thất lớn khi hàng
bị cháy, trôm cướp hoặc các thiên tai khác.
+) Đảm bảo bằng tài sản cố định. Nhà máy, trang thiết bị sản xuất và các phương tiện vân
chuyển, cây con, quyền sử dụng đất đai,rừng…đều có thể trở thành đảm bảo cho ngân
hàng. Đảm bảo bằng đát đai rất phức tạp. Khách hàng cần phải đăng kí với sở địa chính,
hoặc các cơ quan có thẩm quyền về việc chuyển nhượng hoặc đã thế chấp cho ngân hàng.
Các nhân tố tác động tới việc chấp nhận tài sản cố định làm đảm bảo cho các khoản tài trợ:
- Quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền thuê lâu dài: tài sản cố định phải bán được khi cần
thiết. Điều này liên quan đến quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của tài sản và khả năng
chuyển nhượng tài sản đó. Ngân hàng còng quan tâm đến tranh chấp và di chúc như các
quy định của pháp luật đối với tài sản đảm bảo.
- Tính thị trường của tài sản đảm bảo: giá cả của tài sản cố định thường có những giai
đoạn thay đổi rất lớn. Máy móc đã lắp đặt vận hành thường bị giảm giá lớn so với giá trị
còn lại. Nhiều loại tài sản cố định bị tác động mạnh của hao mòn vô hình. Bên cạnh đó có
nhiều loại tài sản cố định thì giá trị thường xuyên gia tăng như cây trồng, vật nuôi. Ngân
hàng thường phải nghiên cứu những tính chất này để định tỷ lệ tài trợ hợp lí vừa đảm bảo
an toàn cho ngân hàng vừa đáp ứng yêu cầu vốn của khách hàng .
- Bảo hiểm: ngân hàng yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm đối với tài sản cố định
làm đảm bảo cho khoản tài trợ.
+) Đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của người thứ 3. Nhiều khách hàng kí hợp đồng

bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ (ví dụ bán hàng, nhận thầu cung cấp, xây dựng..) và
nhận về hợp đồng thanh toán. Một số trường hợp thanh toán liên quan đến bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm nhân thọ hoặc các bảo hiểm khác. Hợp đồng thanh toán là cam kết của
người thứ 3 về việc thanh toán số tiền trong thời hạn nhất định với những điều kiện cụ thể
cho khách hàng . Hợp đồng này có thể đảm bảo cho khách hàng để nhận tài trợ của ngân
hàng. Các nhân tố ảnh hưởng là:
- Khả năng chi trả của người thứ 3: việc tài trợ cho khách hàng dựa trên các hợp đồng chi
trả đã chuyển trọng tâm phân tích tín dụng từ khách hàng sang người thứ 3. Tình hình tài
chính, uy tín, tính sòng phẳng trong thanh toán là những yếu tố ngân hàng cân nhắc.
- Khả năng thực hiện hợp đồng với người thứ 3 của khách hàng: nếu người cung cấp
hàng hóa và dịch vụ hoặc người mua bảo hiểm không có khả năng thực hiện hợp đồng
cam kết thì bên thanh toán sẽ không thực hiện cam kết thanh toán. Ví dụ, ngân hàng sẽ
xem xét các loại bảo hiểm, các điều kiện hạn chế..để đánh giá tính thích hợp đối với khách
hàng.
- Các cam kết có khả năng chuyển nhượng: nếu khách hàng đã chuyển nhượng cam kết
cho người khác thì ngân hàng rất khó thu hồi nợ, vì vậy, ngân hàng phải xem xét khả năng
chuyển nhượng các cam kết. Ví dụ, ngân hàng đề phòng có những hợp đồng bảo hiểm
ngắn hạn, nắm quyền sở hưu hợp pháp bằng cách yêu cầu công ty bảo hiểm viết giấy
chuyển…
+) Đảm bảo bằng chứng khoán: các chứng khoán có thể bán với ít nhiều rủi ro. Quản lí
chứng khoán là tương đối thuận tiện đối với ngân hàng do phần lớn ngân hàng đều có
nghiệp vụ quản lí và khách hàng chứng khoán. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng
làm đảm bảo:
- Tính an toàn của chứng khoán: Ngân hàng quan tâm đến tình hình tài chính, uy tín của các
tổ chức sở hữu chứng khoán, tức là người ta chi trả các chứng khoán. Các chứng khoán của
chính phủ, các tổ chức tài chính lớn hoặc các công ty lớn thường dễ được ngân hàng chấp
nhận đảm bảo bằng chính chứng khoán của chính khách hàng.
- Tính thị trường (tính thanh toán). Các chứng khoán thường xuyên trao đổi trên thị trường
được ngân hàng ưu tiên nhận làm đảm bảo so với các chứng khoán ít trao đổi. Nhiều loại
chứng khoán giá cả bị ảnh hưởng của nạn đầu cơ, do vậy, ngân hàng phải phân tích kĩ

lưỡng tính biến động trong giá trị thị trường của chứng khoán làm đảm bảo.
+) Đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba: người thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ
tài chính trao đổi với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện
được. Bảo lãnh là hình thức bảo đảm đối nhân. Đối với người bảo lãnh có uy tín (Nhà
nước, các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn…). Ngân hàng chấp nhận bảo lãnh không
cần tài sản đảm bảo. Đối với những người bảo lãnh chưa có uy tín, ngân hàng đòi phải có
tài sản đảm bảo cho bảo lãnh đó. Các nhân tố ảnh hưởng gồm:
- Uy tín của người bảo lãnh.
- Tài sản đảm bảo của người bảo lãnh.
+) Đảm bảo bằng số dư bù:
Trong một số trường hợp ngân hàng không đòi đảm bảo dưới hình thái hàng hóa hay bảo
lãnh. Các đảm bảo loại này đều gắn liền với thủ tục phức tạp, không có lợi cho cả ngân
hàng lẫn khách hàng. Hơn nữa, ngân hàng dự tính nếu rủi ro có xảy ra với khách hàng thì
tổn thất còng chỉ chiếm một phần số tiền vay. Trong trường hợp này ngân hàng có thể yêu
cầu đảm bảo bằng tiền gưỉ kí quỹ (số dư bù). Số tiền đảm bảo có thể được chuyển sang tài
khoản khác của khách hàng, hoặc vẫn lưu trên tài khoản gửi song khách hàng không được
quyền sử dụng cho đến khi đã trả hết nợ cho ngân hàng. Đảm bảo bằng kí quỹ thủ tục đơn
giản và phần lớn kí quỹ có giá trị nhỏ hơn số tiền vay (kí quỹ có thể từ 10-100%). Tuy
nhiên, kí quỹ làm đọng vốn của khách hàng và trong trường hợp số tiền vay lớn, ngân quỹ
của khách hàng nhỏ hoặc cần thiết để lưu chuyển, tỉ lệ kí quỹ cao thì hình thức đảm bảo
này không phù hợp.
1.1.4.2. Các nghiệp vụ đảm bảo
+ Cầm cố: là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển
quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết (thường là
thời gian nhận tài trợ).
Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương
đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt
động của người nhận tài trợ, ví dụ như các chứng khoán, các hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại
tệ mạnh, kim loại quí. Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lí, không chịu ảnh hưởng của các
yếu tố môi trường tự nhiên. Đối với hàng hóa, ngân hàng thường chấp nhận các loại ít chịu

tác động của môi trường, (tính chất lí hóa và công dụng) trong thời gian cầm cố.
Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm bảo là
không an toàn cho ngân hàng. Thường đó là các tài sản mà khách hàng dễ bán, dễ chuyển
nhượng. Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp, hợp
lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của người
cam kết (như công ty phát hành chứng khoán, công ty bảo hiểm…) đối với vật cầm cố, giá
trị thị trường khi phát mại… Ngân hàng cùng với khách hàng định giá vật cầm cố, quy
định quyền và nghĩa vụ đối với các đảm bảo cầm cố như chuyển giao vật cầm cố, nghĩa vụ
của ngân hàng trong việc quản lí giữ gìn vật cầm cố, quyền của ngân hàng phát mại vật
cầm cố khi khách hàng vi phạm các cam kết trong hợp đồng tài trợ… Ví dụ, đối với cầm
cố chứng khoán được niêm yết tại thị trường chứng khoán. Cách cầm cố như sau: khách
hàng làm đơn vay và xin cầm cố chứng khoán, các chứng khoán này có thể sang tên ngân
hàng hoặc được ngân hàng lưu giữ với cam kết chuyển lại cho khách hàng. Ngân hàng
chuyển đơn chuyển nhượng tơi công ty đăng kí chứng khoán để công ty chuyển tên cho
ngân hàng. Các chứng khoán này thuộc sở hữu của ngân hàng. Khi khách hàng trả đủ nợ,
ngân hàng sẽ làm thủ tục chuyển nhượng lại. Các chứng khoán vô danh thì không cần làm
giấy chuyển.
+ Thế chấp: là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng
nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời
gian cam kết.
Nhiều tài sản của khách hàng trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ của ngân
hàng song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động. Những tài sản này ngân hàng không
thể cầm cố. Ví dụ như máy móc, trang thiết bị, nhà đất đang trong quá trình sử dụng, hàng
hóa đang trong quá trình luân chuyển. Các tài sản này thường cồng kềnh, phân tán. Hơn
nữa việc bán hoặc chuyển nhượng còng không đơn giản. Trừ các ngân hàng, các công ty tài
chính có thể nắm giữ có thể nắm giữ nhiều chứng khoán, tài sản chủ yếu của doanh nghiệp
là hàng hóa và tài sản cố định. Vì vậy đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với
doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do giá trị của tài sản loại này thường lớn nên doanh
nghiệp có thể vay ngân hàng với quy mô lớn.
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản đảm bảo phục

vụ cho hoạt động kinh doanh. Đó là một thuận lợi. Tuy nhiên, quá trình sử dụng sẽ làm
biến dạng tài sản, hơn nữa do khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn
chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản, gây thiệt hại cho
ngân hàng.
Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bang thế chấp, ngân hàng phải xem xét kĩ vật thế
chấp. Trong hợp đồng thế chấp ( kí cùng với hợp đồng tài trợ), phải có phần mô tả vật thế
chấp (diện tích, các mốc đánh dấu, giấy tờ sở hữu đối với đất, giá trị thị trường, công dụng,
loại công nghệ, quyền sở hữu… đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, năm tuổi,
khả năng sinh trưởng..đối với cây trồng, vật nuôi, các sản phẩm gắn với đất…). Như vậy
ngân hàng phải có các nhà chuyên môn (hoặc thuê) đủ khả năng đánh giá đảm bảo. Nếu
định giá quá cao, quy mô tài trợ có thể lớn (tài trợ theo tỷ lệ % trên giá trị đảm bảo), có thể
gây rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại, nếu định giá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng vay của
khách hàng. Sau khi định giá, ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận về nội qui sử dụng
đảm bảo, quyền của ngân hàng giám sát đảm bảo, phát mại đảm bảo khi khách hàng vi
phạm hợp đồng tài trợ.
1.1.5.Nhân tố xác định quy mô và tính đa dạng tín dụng ngân hàng
Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng là rất khác nhau, phụ
thuộc chủ yếu vào:
• Các đặc trưng thuộc vào lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cung cấp: Mỗi ngân hàng phải đáp
ứng nhu cầu cụ thể về tín dụng của khách hàng trong lĩnh vực dịch vụ mà ngân hàng cung
cấp. Ví dụ, các ngân hàng hoạt động ở vùng ngoại ô thường có khách hàng đông đảo là
những hộ gia đình, các cửa hàng mua bán lẻ, các cá nhân với các khoản tín dụng nhỏ.
Ngược lại các ngân hàng hoạt động ở thành phố thường có đội ngũ khách hàng đông đảo là
những siêu thị, trụ sở các công ty, các cơ sở sản xuất với những khoản tín dụng lớn.
• Quy mô ngân hàng: nhìn chung các nước đều quy định, dư nợ tín dụng cho một ngân hàng
phụ thuộc vào quy mô vốn tự có của ngân hàng. Các ngân hàng lớn thường cung cấp các
khoản tín dụng cho doanh nghiệp và công ty, các ngân hàng nhỏ lại tập trung vào các
khoản tín dụng nhỏ cho các cá nhân, hộ gia đình, các công ty và cửa hàng tư nhân. Như
vậy, quy mô ngân hàng còng là nhân tố xác định quy mô tín dụng và chủng loại tín dụng
của ngân hàng.

• Tỷ suất lợi nhuận dự tính: tính đa dạng của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào tỷ suất
lợi nhuận dự tính đối với từng nhóm tín dụng. Với các nhân tố khác không đổi, ngân hàng
sẽ ưu tiên cấp các khoản tín dụng mang lại lợi nhuận ròng lớn nhất sau khi trừ chi phí và
rủi ro tín dụng. Quy mô ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ suất lợi nhuận đối với các
nhóm tín dụng khác nhau. Nhìn chung, các ngân hàng nhỏ thường có tỷ suất lợi nhuận cao
đối với tín dụng thương mại và bất động sản, trong khi đó các ngân hàng lớn có ưu thế
trong việc cấp thẻ tín dụng cho cá nhân và hộ gia đình. Điều hiển nhiên là, quy mô khách
hàng còng như quy mô ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ suất lợi nhuận tín dụng. Ví
dụ ngân hàng lớn cấp tín dụng cho khách hàng thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn vì
mức rủi ro tín dụng thấp và áp lực cạnh tranh cao hơn. Ngược lại tín dụng của ngân hàng
nhỏ cấp cho công ty vừa và nhỏ thường có mức lãi suất cao hơn.
1.1.6. Chất lượng tín dụng và xếp loại ngân hàng
Chất lượng danh mục tín dụng và chính sách tín dụng của ngân hàng luôn là đối tượng
kiểm tra của thanh tra ngân hàng. Ở Mỹ, cán bộ thanh tra tiến hành xếp hạng chất lượng tài
sản có của ngân hàng (bao gồm tín dụng) theo các cấp độ (bằng số) như sau:
1 = hoạt động tốt.
2 = hoạt động khá.
3 = hoạt động trung bình.
4 = hoạt động bên bờ thua lỗ.
Ngân hàng nào được đánh giá càng cao thì càng bị ít nhà chức trách để ý và thanh tra.
Cán bộ thanh tra thường kiểm tra các khoản tín dụng có số dư lớn hơn một mức quy định
nào đó, còn các khoản tín dụng nhỏ hơn thì chỉ tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên. Những
khoản tín dụng hoạt động tốt, nhưng có một vài điểm yếu nhỏ như đã không tuân thủ chính
xác quy trình tín dụng hay không lưu trữ đầy đủ hồ sơ khách hàng được gọi là tín dụng có
thiếu sót. Những khoản tín dụng chứa đựng những điểm yếu căn bản hay theo nhà thanh tra
là nguy hiểm như tập trung quá lớn cho một khách hàng hay một ngành, nghề nào đó gọi là
tín dụng tập trung.
Khi cán bộ thanh tra phát hiện ra những khoản tín dụng chứa đựng rủi ro không trả được
nợ ngay lập tức theo như thỏa thuận, thì chúng được xếp vào loại tín dụng xấu. Các khoản
tín dụng xấu được phân thành 4 nhóm:

• Nợ cần chú ý: các khoản tín dụng được tổ chức đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
• Nợ dưới tiêu chuẩn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần cả gốc và lãi
• Nợ nghi ngờ: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất
cao.
• Nợ có khả năng mất vốn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn
khả năng thu hồi, mất vốn.
Tuy nhiên chất lượng tín dụng và các tài sản có khác của ngân hàng mới chỉ là một khía
cạnh phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng nói chung. Việc xếp hạng ngân hàng
còn dựa vào sự xem xét của cán bộ thanh tra về các tiêu chí như: vốn chủ sở hữu, chất
lượng quản lý, biểu đồ thu nhập, khả năng thanh toán và mức độ nhạy cảm với rủi ro thị
trường. các tiêu chí này được biết đến rông rãi với tiêu đề CAMELS, bao gồm: Capital
adequacy, Asset quality, Management quality, Earning record, Liqyidity position,
Sensitivity to market risk.
Những ngân hàng có hệ số xếp hạng tổng hợp theo tiêu chí CAMELS càng thấp thì càng
bộc lộ rủi ro nên được các nhà thanh tra xếp vào các nhóm từ 1 đến 3.
1.1.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng
+)Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất
Trong nền kinh tế quốc dân luôn có những nguồn vốn tạm thời chưa được sử dụng
bao gồm:
Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế từ các quỹ lương, quỹ khấu hao, quỹ
phúc lợi, Vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Tín dụng ngân hàng đã động
viên tập trung các nguồn vốn đó về một mối thông qua hoạt động huy động vốn. Trên cơ
sở đó, nguồn vốn sẽ được ngân hàng sử dụng thông qua các nghiệp vụ sử dụng vốn của
mình nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao, tránh tình trạng vốn chết, từ đó thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
+) Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng
tốc độ chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế tạo cơ chế phân phối vốn một cách có hiệu quả.

Việc tạm thời thiếu vốn để dự trữ hàng hoá, để mở rộng sản xuất thường xuyên xảy
ra ở các doanh nghiệp. Trong trường hợp thiếu vốn phục vụ quá trình sản xuất, doanh
nghiệp phải đi vay vốn ngân hàng. Như vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn
trong toàn bộ nên kinh tế, tạo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục.
Thông qua cơ chế sàng lọc, giám sát Ngân hàng thương mại sẽ chỉ cho vay các dự
án có tính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn lớn. Điều này tạo nên một cơ chế phân phối
vốn hiệu quả.
+) Tín dụng ngân hàng góp phần kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền đối với các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Các chủ thể kinh tế khi vay vốn ngân hàng đều phải cam kết thực hiện các điều kiện
mà ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, trả nợ đúng
hạn. Ngân hàng thường xuyên giám sát quá trình sử dụng vốn vay. Nếu không thực hiện
đúng cam kết thì ngân hàng sẽ phải dùng đến các biện pháp chế tài tín dụng. Do đó, các
chủ thể kinh tế đều phải tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như đẩy nhanh
vòng quay vốn, tăng năng suất, giảm giá thành vừa để nhanh chóng tiêu thụ sản phẩm để
hoàn vốn cho ngân hàng,vừa để thu lợi nhuận, vì vậy, hiệu quả sử dụng vốn vay được nâng
cao.
+) Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ của mình, các ngân hàng đã huy động và tập
trung vốn tạm thời nhàn rỗi, đồng thời đã rút ra khỏi lưu thông một bộ phận tiền tệ không
cần thiết (không cân đối với quan hệ tiền-hàng, gây lạm phát nền kinh tế). Mặt khác, dựa
vào quy luật của lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu
vay vốn, NHNN thực hiện đưa tiền vào lưu thông. Do đó, sự vận động của vốn tín dụng
dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ.
+) Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, là động lực đối
với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại
hoá nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng ngân hàng là tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi quy về một mối để
cho các thành phần kinh tế vay. Tuy nhiên, việc cấp tín dụng không phải trải đều cho các
chủ thể có nhu cầu mà phải tập trung vào những chủ thể kinh tế có triển vọng phát triển sản

xuất kinh doanh, các lĩnh vực kinh tế cần được ưu tiên vì chính những ngành kinh tế đó sẽ

×