Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.48 KB, 20 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
DƯỢC TRUNG ƯƠNG
3.1. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA CÔNG TY DƯỢC PHẨM TRUNG
ƯƠNG 1 ĐẾN NĂM 2010
Thị trường dược phẩm nước ta thời gian qua đã có nhiều biến động. Giá cả
các mặt hàng thuốc đặc biệt là thuốc nhập khẩu luôn tăng cao, sự cạnh tranh trên
thị trường ngày càng khốc liệt do ngày càng có nhiều hơn các doanh nghiệp dược
phẩm trên thị trường mà đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài. Trước tình hình
đó để đứng vững trong tình hình này, Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 đã đặt ra
mục tiêu đến năm 2010 là: “ Tiếp tục là doanh nghiệp dẫn đầu trong ngành, củng
cố mở rộng thị trường, tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt
động nhập khẩu. Đẩy mạnh hơn nữa việc tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng doanh thu
lên mức 800 tỷ trong năm 2010.”
Như vậy ta có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty
Dược Phẩm Trung Ương 1 được coi là một trong những hoạt động then chốt của
doanh nghiệp. Điều này cho thấy vai trò của hoạt động này đối với hoạt động kinh
doanh chung của Công ty là rất quan trọng. Việc thực hiện tốt hoạt động kinh
doanh nhập khẩu sẽ đóng góp thêm nhiều vào thực hiện mục tiêu chung của Công
ty. Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 đã đưa ra các mục tiêu cụ thể trong hoạt
động kinh doanh nhập khẩu vào năm tới như sau( Bảng 2.8)
Nhìn trên bảng, ta thấy rằng Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 vẫn tập
trung chủ yếu hơn vào việc nhập khẩu hàng nguyên liệu, điều này cho thấy Công
ty đang hướng tới việc tự sản xuất các mặt hàng thuốc, nghiên cứu các dạng thuốc
mới, các dạng thuốc thay thế để giảm được lượng hàng nhập khẩu đúng với chủ
trương của Nhà nước là đẩy mạng sản xuất dược phẩm trong nước, hạn chế nhập
khẩu những loại thuốc thành phẩm mà nước ta có thể sản xuất được.
Bảng 2.8 : Chỉ tiêu kế hoạch nhập khẩu của Công ty năm 2007 – 2009
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
2007 2008 2009


Giá trị Giá Trị Tỷ lệ tăng (%) Giá trị Tỷ lệ tăng (%)
Doanh thu
Nguyên liệu
Thành phẩm
4000
2300
1700
4500
2600
1900
12.5
13.04
11.76
5000
2900
2100
9.09
11.5
10.5
Lợi nhuận nhập khẩu 940 1100 17.02 1300 18.2
3.2. CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ THỊ TRƯỜNG DƯỢC PHẨM
KHI VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO
3.2.1. Cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực dược phẩm khi gia nhập WTO
3.2.1.1. Cam kết về thuế
Theo dự kiến mức thuế áp dụng chung cho dược phẩm sẽ chỉ còn 0- 5% so
với mức thuế 0- 10% như trước đây. Theo cam kết về lộ trình giảm thuế của Việt
Nam khi gia nhập WTO, thì phần lớn các mặt hàng dược phẩm sẽ được cắt giảm
thuế còn 0%.
Mức thuế trung bình sẽ là 2.5% sau 5 năm kể từ ngày Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của WTO. Việt Nam là một nước đang phát triển và đồng thời nền

kinh tế thị trường còn chưa thực sự được công nhận chính vì vậy việc thực hiện các
nghĩa vụ đối với các nước thành viên trong cộng đồng WTO sẽ được gia hạn sau 5
năm kể từ ngày gia nhập (đối với lĩnh vực dược phẩm nói riêng). Điều đó có nghĩa
là khi gia nhập WTO, giá thuốc sẽ giảm xuống và trên bình diện chung, người dân
sẽ có lợi rất nhiều.
Như vậy sau khi Việt Nam cắt giảm mức thuế quan xuống còn 0-5% thì các
doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài có thể tham gia vào thị trường Việt Nam một
cách dễ dàng hơn. Đồng thời giá của các loại thuốc tân dược nước ngoài hiện nay
giảm đi càng làm gia tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này
Thế nhưng, ngành Dược Việt Nam chủ yếu là công nghiệp bào chế, sản xuất
các thuốc gốc, chưa chú trọng phát triển nguồn dược liệu để sản xuất thuốc. Thuốc
sản xuất trong nước chỉ bảo đảm được khoảng 652/1.563 hoạt chất. Vì thế, theo
phân tích của nhiều doanh nghiệp, việc giảm giá thành dược phẩm khi gia nhập
WTO tuy lớn nhưng sẽ chỉ tùy thuộc vào một số mặt hàng. Đối với các dòng thuốc
hiếm, nhất là các thuốc chuyên khoa mà Việt Nam chưa sản xuất được, việc giảm
giá chỉ có thể xảy ra khi các công ty đa quốc gia có ý định giảm.
3.2.1.2. Quyền kinh doanh
Bắt đầu từ ngày 1/1/2009 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các
chi nhánh của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam được phép trực tiếp xuất
nhập khẩu dược phẩm vào Việt Nam. Thông thường các doanh nghiệp dược nước
ngoài muốn đưa sản phẩm vào Việt Nam phải thông qua sự nhập khẩu uỷ thác,
điều này cũng là một nguyên nhân khiến giá thuốc tăng cao. Nhưng đến thời điểm
Việt Nam bắt đầu thực hiện nghĩa vụ của mình thì đây sẽ là cơ hội cho các doanh
nghiệp trên thế giới tham gia vào thị trường dược phẩm của Việt Nam.
Theo thống kê của cục quản lý dược Việt Nam: Tính đến tháng 9-2006, đã có
312 doanh nghiệp dược nước ngoài đã được cấp phép hoạt động về thuốc và
nguyên liệu làm thuốc ở Việt nam, doanh thu của các nhà máy có vốn đầu tư nước
ngoài là 1.834 tỷ đồng. Về tình hình đăng ký thuốc, số lượng thuốc đăng ký tăng
cao; các nước đang ký thuốc nhiều nhất là Ấn độ, Hàn Quốc, Pháp và Đức. 9 tháng
đầu năm 2006, Việt Nam đã cấp 2030 số đăng ký cho thuốc nước ngoài. Như vậy

chắc chắn sau khi Việt Nam cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được phép
nhập khẩu trực tiếp vào Việt Nam thì những con số trên chưa dừng ở mức đó. Điều
này sẽ càng làm cho các doanh nghiệp dược phẩm trong nước chịu sức ép lớn hơn.
3.2.1.3. Quyền phân phối trực tiếp.
Việt Nam yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không được tham gia phân
phối trực tiếp dược phẩm tại Việt Nam mà phải thông qua các doanh nghiệp có
chức năng phân phối. Đây là một cam kết vĩnh viễn giữa Việt Nam và các nước
thành viên của WTO. Việc áp dụng điều khoản này sẽ có hiệu lực vào ngày
1/1/2009. Đây có thể coi là một biện pháp để bảo vệ ngành dược phẩm trong nước
vì khi đó nó sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp dược phẩm trong nước có cơ hội
cạnh tranh công bằng hơn trong việc phân phối các sản phẩm tới các đối tượng
khách hàng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước cần phải tận dụng cơ hội
này để có thể phát huy được ưu thế sân nhà khi Việt Nam bắt đầu thực hiện nghĩa
vụ với tư cách là một nước thành viên của WTO.
3.2.1.4. Cam kết về quyền sở hữu trí tuệ
Trên cơ sở Hiệp định thương mại thế giới 1994, đặc biệt là TRIPS (Trade-
Related Aspects of Intellectual Property Rights = Các khía cạnh thương mại của
Quyền sở hữu trí tuệ), Việt Nam đã ban hành Bộ luật Dân sự (Sửa đổi) năm 2005,
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 để phù hợp với pháp luật thương mại quốc tế khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).Chính phủ Việt Nam cam
kết đầy đủ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Bộ y tế đã ban hành quyết định số
30/2006/QĐ-BYT quy chế về bảo mật dữ liệu đối với hồ sơ đăng ký thuốc. Đây là
một văn bản có ý nghĩa hết sức quan trọng và “nhạy cảm” đối với các hãng nghiên
cứu, bào chế dược phẩm, đặc biệt là các hãng dược phẩm đa quốc gia vốn sở hữu
nhiều sáng chế, phát minh. Theo số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ thì tính đến thời
điểm hiện tại, tổng số bằng sáng chế của các cá nhân/tổ chức Việt Nam là 19, của
cá nhân và tổ chức nước ngoài là 877; tổng số giấy phép đăng ký nhãn hiệu hàng
hóa cấp cho cá nhân/tổ chức Việt Nam là 5036, cấp cho cá nhân, tổ chức nước
ngoài là 3394. Khi gia nhập WTO, chúng ta phải cam kết bảo mật dữ liệu thử
nghiệm lâm sàng có trong hồ sơ đăng ký của các thuốc mới trong thời hạn 5 năm.

Do đó, các cơ quan quản lý phải có các cơ chế, quy định bảo mật đối với các hồ sơ
khi được yêu cầu, đối mặt với nguy cơ bị các công ty kiện trong trường hợp để bộc
lộ dữ liệu.
Việc thực hiện bảo mật quyền sở hữu trí tuệ đối với công thức bào chế các
loại dược phẩm. Điều này thể hiện việc Việt Nam luôn tuân thủ theo những nguyên
tắc của WTO. Việt Nam luôn đảm bảo cho quyền lợi cho các doanh nghiệp dược
nước ngoài. Đây là điều kiện tốt để đảm bảo cho các doanh nghiệp nước ngoài yên
tâm đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác nó cũng thể hiện sự minh bạch cũng như cụ
thể các chính sách về dược phẩm của Chính phủ Việt Nam.
3.3. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG DƯỢC PHẨM
3.3.1. Thị trường dược phẩm thế giới
Thị trường dược phẩm thế giới hiện nay đang phân bố không đồng đều, 80%
thị phần ở các nước phát triển và 20% ở phần còn lại của thế giới trong khi đó dân
số ở các nước phát triển chỉ chiếm 10% dân số thế giới còn các nước đang phát
triển và các nước nghèo chiếm 90% dân số thế giới. Theo thống kê của tổ chức Y
Tế thế giới WHO thì trong các năm gần đây, con số người nghèo trên thế giới
không được dùng thuốc chữa bệnh lên đến 70% và đặc biệt là các loại thuốc đặc
trị, các loại thuốc mới. Tại sao lại có hiện tượng như vậy, đó là do thị trường dược
phẩm thế giới hiện nay đang bị thao túng bởi các tập đoàn dược phẩm lớn. Các tập
đoàn này với lợi thế có tiềm lực khoa học kỹ thuật, tài chính, kinh nghiệm có thể
điều chỉnh mức giá mong muốn vì thế gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập
khẩu dược phẩm ở các nước khác đặc biệt là các nước nghèo. Vì thế việc người
tiêu dùng ở các nước nghèo có thể tiếp cận được với các mặt hàng thuốc đắt tiền là
rất khó khăn.
Thêm nữa, trong thời gian gần đây, tình trạng thuốc giả, thuốc kém chất
lượng đang ngày càng nhiều ở các quốc gia trên thế giới và nhất là ở các nước
đang phát triển. Hàng năm lượng thuốc giả vẫn đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sức khỏe của con người. Theo tổ chức Y Tế thế giới cho biết, mỗi năm thất
thoát 35 tỷ USD trong thương mại dược phẩm. Gần đây, thuốc giả còn tấn công
vào các bệnh viện lớn. Các loại thuốc đang bị làm giả nhiều nhất là kháng sinh,

thuốc điều trị ung thư, rối loạn cương, sốt rét, tim mạch, … là những loại thuốc đắt
tiền, có nhãn hiệu nổi tiếng. Trên thế giới đã phát hiện trường hợp ung thư dùng
phải thuốc ung thư giả khiến bệnh ngày càng nặng. Theo các chuyên gia thì lượng
thuốc giả không những giảm mà sẽ còn gia tăng trong thời gian tới. Điều này
không những ảnh hưởng đến người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp ở
những nước đang phát triển. Các doanh nghiệp luôn phải có thanh tra kiểm tra sát
sao các mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp mình để tránh bị làm giả nguy hại
đến sức khỏe người tiêu dùng.
3.3.2. Thị trường dược phẩm trong nước
Ngành dược phẩm chịu tác động của rất nhiều yếu tố, trong số đó dân số và
thu nhập của người dân sẽ là yếu tố rất lớn ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của
ngành, và tiền thuốc bình quân đầu người.
Theo dự báo của tổng cục thống kê, đến năm 2010 dân số Việt Nam có thể lên
tới 86 triệu dân. Và chắc chắn nhu cầu chữa bệnh và phòng bệnh của người dân
cũng sẽ tăng lên. Sự gia tăng về dân số cũng như nhu cầu sẽ khiến Việt Nam trở
thành một thị trường giàu tiềm năng. Mặt khác, cùng với sự phát triển của xã hội,
trình độ dân trí được nâng lên kéo theo đó là sự hiểu biết về các mặt hàng dược
phẩm cũng được nâng lên nhanh chóng. Mặc dù đơn thuốc là do bác sĩ kê đơn tuy
nhiên do dân trí được nâng lên nên người tiêu dùng đã có thể nhận thức được đầy
đủ về các loại dược phẩm. Như vậy Việt Nam có thể coi là một thị trường đầy tiềm
năng đối với hàng hoá nói chung và nhu cầu về dược phẩm nói riêng.
Trong thời gian tới khi đời sống của nhân dân được nâng cao thì nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ cũng càng được quan tâm nhiều hơn. Chính vì vậy theo cục
quản lý dược Việt Nam tiền thuốc bình quân đầu người sẽ là 12-15 USD. Với nhu
cầu sử dụng dược phẩm như vậy trên một qui mô dân số tương đối lớn các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ phải tìm cách đáp ứng được nhu cầu ngày một tăng này. Sự gia
tăng về tiền thuốc bình quân đầu người tăng lên cũng có nghĩa là nhiệm vụ đáp ứng
yêu cầu về dược phẩm của người dân cũng ngày một lớn hơn. Với một thị trường
tương đối lớn và còn giàu tiềm năng như vậy, các doanh nghiệp dược Việt Nam

cũng cần phải chú ý tới sự xâm chiếm thị trường từ bên ngoài. Các doanh nghiệp
nước ngoài luôn biết tận dụng thời cơ để lấn sâu vào thị trường đang lên. Nhất là
đối với ngành dược phẩm, một mặt hàng mà bất cứ giai đoạn nào, thời kỳ nào con
người cũng cần tới.

Hình 3.1-Dự báo thị trường dược phẩm Việt Nam
(Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam)
Theo như biểu đồ dự báo thị trường dược phẩm như trên thì trong tương lai
chắc chắn ngành dược phẩm sẽ có nhiều triển vọng để phát triển. Với tổng mức thị
trường có xu hướng tăng lên đều đặn mặc dù tỉ lệ tăng trưởng không có sự thay đổi
nhưng đây vẫn có thể coi là một thành công lớn của ngành dược phẩm Việt Nam.
Đến năm 2008 tổng thị trường Việt Nam có thể đạt trên 1tỷ USD, điều này sẽ tạo
đà cho sự phát triển sau này của ngành dược Việt Nam.
3.3.3. Các cơ hội và thách thức đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1
3.3.3.1. Cơ hội
Các dự báo về thị trường dược phẩm Việt Nam cho biết nhu cầu về thuốc
khám chữa bệnh sẽ tăng cao trong thời gian tới vì thế các doanh nghiệp Dược sẽ có
hướng tăng tổng mức nhập khẩu và do người dân có hiểu biết hơn về các mặt hàng
dược phẩm sẽ là nhân tố tác động giúp các doanh nghiệp có thể chuyển hướng lựa
chọn ưu tiên về chất lượng so với giá cả. Từ đó kéo theo mức lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh nhập khẩu cũng tăng theo. Hiện nay, lượng thuốc nội mới chỉ đáp
ứng được khoảng 40% nhu cầu trong nước còn lại là 60% thuốc nhập ngoại. Điều
này cho thấy công nghiệp dược nước ta phát triển chưa theo kịp nhu cầu của người
tiêu dùng. Bên cạnh đó, thị trường dược phẩm trên thế giới đang tập trung chủ yếu
ở các nước phát triển, đây là một cơ hội để các nước đang phát triển và các nước
nghèo tự mình khai thác tiềm năng thị trường sẵn có.
Đối với Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 , với quy mô vốn đầu tư cho
hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng năm tăng từ 4 tỷ lên 5 tỷ và tiếp tục tăng cao
trong các năm tới, thì việc thu lợi nhuận từ 60% thị trường là một khoản thu rất

lớn. Bên cạnh đó, 90% nguồn nguyên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong
nước đều là từ nguồn nhập ngoại. Trung bình hàng năm, giá trị nhập khẩu dược
phẩm của nước ta lên đến 80 triệu USD.
Bên cạnh đó, việc phát triển công nghiệp dược của nước ta theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi các công ty dược phẩm trong nước phải có đầy đủ
các trang thiết bị hiện đại và cần thiết. Nước ta hiện nay mới chỉ có 175 công ty sản
xuất dược phẩm, và chỉ 58 doanh nghiệp trong số đó được chứng nhận chứng chỉ
chất lượng GMP. Nhu cầu về trang thiết bị rất lớn cũng mở cho các doanh nghiệp
dược phẩm kinh doanh mảng thiết bị vật tư. Đây là một mảng kinh doanh rất lớn
cho các doanh nghiệp nhập khẩu nói chung và Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1
nói riêng.
3.3.3.2. Thách thức

×