Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.94 KB, 7 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH MỸ
I. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN QUAN TỚI HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH MỸ
1. Đối với thị trường tiền tệ
Thành viên chính tham gia vào thị trường tiền tệ đó là các ngân hàng thương
mại. Vì vậy nghiên cứu những vấn đề pháp lý liên quan tới hoạt động của các ngân
hàng cũng chính là nghiên cứu về những vấn đề pháp lý liên quan tới hoạt động thị
trường tiền tệ Mỹ. Đầu những năm 1980 hệ thống ngân hàng của Mỹ đã có những
chuyển biến lớn về cơ cấu hoạt động cũng như tổ chức. Hai đạo luật trong lĩnh vực
hoạt động ngân hàng đó là: luật quản lý tiền tệ 1980, luật Garn-St Germain 1982 đã
tạo đà cho những sự thay đổi này của hệ thống ngân hàng Mỹ. Đồng thời Quốc hội
Mỹ cũng phải chỉnh sửa lại đạo luật đã có từ lâu đạo luật Glass-Steagall 1933.
Dưới đây tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu khái quát từng đạo luật để biết được nó có
những sự thay đổi gì.
- Luật quản lý tiền tệ 1980
Với việc thông qua Luật quản lý tiền tệ và điều chỉnh hoạt động của các tổ
chức tín dụng (gọi tắt là Luật quản lý tiền tệ 1980). Quốc hội Mỹ đã thay đổi đáng
kể các quy tắc hoạt động ngân hàng Mỹ, quy định chức năng quyền hạn của
NHTW Mỹ, và sửa đổi quyền hạn của NHTW trong việc hoạch định chính sách
tiền tệ. Luật quản lý tiền tệ 1980 đã làm thay đổi vị thế cạnh tranh giữa các công ty
tài chính với các ngân hàng, tạo điều kiện cho người gửi tiền có thể gửi được tiền
với lãi suất cao hơn, và cho phép các tổ chức tín dụng trong nước đưa ra các tài
khoản có thể thanh toán nhưng vẫn được hưởng lãi suất (như tài khoản NOW).
Từ năm 1981 đến 1986 đạo luật này đã đưa ra quy tắc điều chỉnh lãi suất trần,
tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng và tại các công ty tài chính (quy tắc Q). Đạo luật
này cũng tăng mức trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi lên 100.000 đô la Mỹ cho mỗi tài
khoản. Ngân hàng nhận tiền gửi cũng được những đặc quyền của Liên bang trong
việc cung cấp nhiều dịch vụ hơn để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng
thương mại. Hiệp hội tích luỹ và cho vay, liên đoàn tín dụng cũng được trao nhiều
quyền hơn. Trước đây những công ty tài chính dạng này chỉ được hoạt động trong
lĩnh vực cầm cố hoặc cho vay nhà đất.


Thay đổi lớn nhất trong hoạt động ngân hàng đó là việc NHTW Mỹ được
quyền yêu cầu các tổ chức tín dụng phải có dự trữ bắt buộc - cả ngân hàng thương
mại thành viên và ngân hàng thương mại không thành viên, ngân hàng nhận tiền
gửi, hiệp hội tích luỹ và cho vay, liên đoàn tín dụng, nói chung là tất cả các ngân
hàng cũng như chi nhánh ngân hàng của Mỹ.
- Luật Garn-St Germain 1982
Luật các tổ chức tín dụng năm 1982, được biết với cái tên Garn-St German
Act, điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi và hoạt
động của các cơ quan quản lý hoạt động ngân hàng ngoài các ngân hàng chịu sự
điều chỉnh của luật quản lý tiền tệ 1980. Đạo luật này cho phép các ngân hàng bán
tài khoản ký thác để cạnh tranh với công trái nhà nước. Đạo luật đưa ra những điều
khoản thông thoáng hơn cho ngành tài chính. Đặc biệt là đạo luật này cho phép
FDIC (the Federal Deposit Insurance Corporation) có thể can thiệp để giúp đỡ các
ngân hàng nhận tiền gửi, hiệp hội tích luỹ và cho vay khỏi tình trạng phá sản, cấp
một khoản trợ giúp khẩn cấp cho các ngân hàng mua lại mua lại các công ty tài
chính phá sản, cho phép các công ty tài chính phát hành chứng chỉ tài sản ròng (net
work certificates). Quyền đầu tư và cho vay của các công ty tài chính cũng được
nới rộng.
Đạo luật này cũng tăng mức giới hạn tối đa mà các ngân hàng thương mại có
thể cho vay lên 15% vốn tự có của ngân hàng so với 10% như trước kia và nếu
ngân hàng nào thực sự ổn định thì có thể cho vay thêm 10% vốn tự có.
Đạo luật này cho phép các tổ chức tín dụng trong nước có hai triệu đô la Mỹ
trong tài khoản giao dịch và tài sản hiện có sẽ không phải dự trữ bắt buộc. Đạo luật
cũng cho phép khoảng gần 20.000 liên đoàn tín dụng Mỹ không phải dự trữ bắt
buộc. Một sửa đổi nhỏ của đạo luật này vào năm 1983 là cho phép tài khoản ký
thác mới mở trên thị trường tiền tệ không phải có một khoản tiền dự trữ bắt buộc
nữa.
2. Đối với thị trường vốn
Như đã nói ở phần trên, theo quan điểm của tác giả thì thị trường vốn và thị
trường chứng khoán chỉ là một, vì vậy nghiên cứu những vấn đề pháp lý liên quan

tới thị trường chứng khoán cũng là nghiên cứu những vấn đề pháp lý liên quan tới
thị trường vốn. Cơ quan đứng đầu quản lý thị trường chứng khoán ở Mỹ đó là Uỷ
Ban chứng khoán Mỹ - UBCK (SEC - US Securities and Exchange Commission),
được thành lập ngày 6/6/1934 sau sự sụp đổ của thị trường năm 1929. UBCK Mỹ
là cơ quan có tính độc lập cao đứng đầu là Chủ tịch và 4 Uỷ viên hội đồng do Tổng
thống bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm. SEC có quyền lực rộng rãi từ việc ban hành
các quy định, cấp phép kinh doanh, cấp phép thành lập sở giao dịch đến việc kiểm
tra, giám sát và xử lý kỷ luật các chủ thể tham gia thị trường. Toàn bộ hoạt động
của thị trường chứng khoán Mỹ chịu sự điều tiết của các luật sau:
- Luật chứng khoán 1933
Đây là đạo luật cơ bản điều chỉnh mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán
Mỹ. Đạo luật được coi là đạo luật "trung thực với chứng khoán". Mục tiêu của đạo
luật này là: thứ nhất, tất cả các nhà đầu tư đều có quyền nhận được mọi tin tức tài
chính và tin tức quan trọng khác liên quan tới chứng khoán được chào bán; thứ hai,
nghiêm cấm mọi hành vi gian lận, lừa dối, nội gián trong việc mua bán chứng
khoán.
- Luật giao dịch chứng khoán 1934
Với đạo luật này, Quốc hội Mỹ chính thức cho ra đời UBCK. Đạo luật này
trao cho UBCK quyền quản lý mọi hoạt động trong ngành chứng khoán bao gồm:
quyền cho phép đăng ký kinh doanh, quyền điều tiết, quyền giám sát các công ty
môi giới chứng khoán, các đại lý giao dịch, và đại lý thanh toán bù trừ cũng như
các tổ chức tự điều tiết (self regulatory organizations - SROs). Các sở giao dịch
chứng khoán như sở giao dịch chứng khoán New York, sở giao dịch chứng khoán
Mỹ đều là SROs. Hiệp hội các nhà bán buôn chứng khoán quốc gia (NASD - the
National Association of Securities Dealers ) quản lý hệ thống NASDAQ cũng là
SRO. Đạo luật này đồng thời trao cho UBCK quyền xử phạt đối với các cơ quan
điều tiết và những người liên quan tới họ. Đạo luật cũng cho phép UBCK có quyền
yêu cầu các công ty có chứng khoán mua bán công khai cung cấp các bản báo cáo
định kỳ.
- Luật công ty cổ phần 1935

Các công ty cổ phần có đại lý hoặc thông qua đại lý hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ công cộng hoặc phân phối bán lẻ khí ga sản xuất hoặc tự nhiên đều chịu sự
điều tiết của luật này. Các công ty này phải đưa ra các báo cáo trong đó đề cập đến
tất cả các thông tin chi tiết liên quan tới cơ cấu tài chính, cơ cấu tổ chức và hoạt
động của công ty cũng như của các chi nhánh. Các công ty cổ phần phải tuân theo
các quy định của UBCK về các vấn đề như: cấu trúc hệ thống dịch vụ công cộng,
các giao dịch giữa các công ty cổ phần dịch vụ công cộng với nhau, các giao dịch
tài chính và các vấn đề về mua bán chứng khoán...
- Luật tín thác 1939
Đạo luật này được áp dụng với các chứng khoán nợ như trái phiếu, giấy nợ, và
các giấy tờ được mua bán rộng rãi. Thậm chí những chứng khoán đó có được đăng
ký theo luật chứng khoán rồi thì nó vẫn chưa được mua bán rộng rãi nếu chưa có
thoả thuận giữa người phát hành chứng khoán và người cầm giữ chứng khoán, hay
còn gọi là tín thác. Thoả thuận đó phải tuân thủ các quy định của luật này.
- Luật công ty đầu tư 1940
Luật này điều chỉnh hoạt động của các công ty như quỹ tương hỗ đầu tư. Các
quỹ tương hỗ đầu tư thường tiến hành hoạt động đầu tư, tái đầu tư và buôn bán
chứng khoán hoặc có chứng khoán được buôn bán rộng rãi ra công chúng. Quy
định này được đưa ra nhằm tối thiểu hoá xung đột về lợi ích phát sinh trong các
giao dịch phức tạp. Luật này yêu cầu các công ty phải công bố tình hình tài chính,
chính sách đầu tư cho các nhà đầu tư biết khi cổ phiếu được chào bán lần đầu tiên.
Mục đích của Luật công ty đầu tư là công khai hoá các thông tin về quỹ, về mục
tiêu đầu tư cũng như cấu trúc và hoạt động của công ty đầu tư. Tuy nhiên, đạo luật
này không cho phép UBCK trực tiếp kiểm soát các quyết định hoặc hoạt động đầu
tư của các công ty này hoặc quyết định giá trị đầu tư của họ.
- Luật tư vấn đầu tư 1940
Luật này điều tiết hoạt động của các nhà tư vấn đầu tư. Đạo luật này quy định
các công ty và các luật sư muốn hoạt động trong lĩnh vực tư vấn đầu tư thì phải
đăng ký với UBCK và tuân thủ các quy định bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
- Luật Sarbanes - Oxley 2002

Ngày 30 tháng 7 năm 2002 Tổng thống Mỹ Bush đã chính thức ban hành luật
Sarbanes - Oxley 2002. Đạo luật này được coi là cải tổ lớn nhất trong hoạt động
kinh doanh Mỹ kể từ thời Tổng thống Franklin Delano Roosevelt. Đạo luật này đòi

×