Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

ưu điểm và hạn chế cơ bản trong tính cách của người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.34 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người đã
diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại. qua bao thế kỉ, các
hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống
thị hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân tộc khẳng định bản sắc
của riêng mình. Đó chính là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo, tích luỹ thông qua hoạt động thực tiễn. mỗi quốc
gia, dân tộc muốn phát triển bền vững, và ổn định thì phải xây dựng văn hoá,
phát triển văn hoá, kinh tế, ổn định chính trị. Đồng thời, cũng cần có sự quan
tâm đến phát triển con người, làm tiền đề cho sự phát triển của đất nước. Trong
xã hội ngày nay, con người Việt Nam đã ngày càng khẳng định được vị thế của
mình trên thế giới. Để có thể đi sâu, tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này, em xin chọn
đề 6: “Ưu điểm và hạn chế cơ bản trong tính cách của người Việt Nam hiện
nay.” Do hiểu biết cịn có hạn nên bài làm của em có thể cịn những sai sót,
mong thầy cơ đọc và góp ý để những bài sau của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I.

Tính cách của người Việt Nam hiện nay

1. Khái niệm
Khi xét đến yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên, có thể thấy Việt Nam là
một xứ sở có những điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. trải qua
hàng ngàn năm, người Việt vẫn duy trì một nền nơng nghiệp lúa nước trên châu
thổ các con sông lớn như: sông Hồng, sông Mã, sông Lam, sông Cửu Long,…
và dọc theo dun hải. chính vì vậy, người Viejt bị trói chặt vào kinh tế nông
nghiệp. cho đến nay, ba hằng số lớn của lịch sử dân tộc: kinh tế nông nghiệp, cư
dân nông dân, xã hội nông tôn vẫn là những chỉ số quan trọng để nhận diện
người Việt Nam. Do đó, những căn tính nơng dân, những đặc trưng của một xã


1


hội nơng nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mội truyền thống Việt Nam.
Bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước, những phẩm chất nổi trội trong tính cách
của người Việt đã dần dần được hình thành, trở thành truyền thống quý báu
trong tính cách của dân tộc Việt nam hiện nay.
2. Đặc điểm cơ bản
Trong tính cách nói chung của con người Việt Nam và trong từng nét tính
cách nói riêng đều ẩn chứa tính hai mặt, cái tốt và cái xấu, giá trị và phản giá trị.
- Khả năng đối phó rất linh hoạt với mọi tình thế và lối ứng xử mềm dẻo
- Tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng để tạo nên sức mạnh vượt qua
khó khăn thử thách
- Giản dị, chất phác, ưa đơn giản, ghét cầu kì xa hoa
- Tấm lịng rộng mở và giàu cảm xúc lãng mạn
- Cần cù chịu thương chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ
- Trọng tuổi tác, trọng người già (lão quyền).
- Tập tính kém hạch tốn, khơng quen lường tính xa.
- Tác phong tuỳ tiện, kỉ luật khơng chặt chẽ
- Tâm lý bình qn chủ nghĩa
- Nhân ái, vị tha và rộng lượng
- Nặng tình nhẹ lý, chín bỏ làm mười (cơ sở của chủ nghĩa thân tộc –
một người làm quan cả họ được nhờ).
- Tâm lý sống lâu nên lão làng, đề cao chủ nghĩa kinh nghiệm
- Tư tưởng bảo thủ đóng cửa, tự thu xếp mọi việc, không cầu thị.
II.

Ưu điểm và hạn chế trong tính cách của người Việt Nam hiện nay

1. Ưu điểm

2


1.1.

Lòng yêu nước

Theo giáo sư Trần Văn Giàu, đây là “sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử
Việt Nam”. Trước hết, từ nguồn gốc lịch sử nhiều ngàn năm của dân tộc ta, nhà
nước Văn Lang xuất hiện rất sớm, khoảng 2.700 năm trước, hợp nhất tự nguyện
của 15 bộ lạc anh em, có cương vực ổn định, có văn hóa rực rỡ, có sức mạnh vật
chất đáng kể… Thứ đến là chuỗi dài các cuộc chiến tranh chống xâm lăng của
những nước lớn mạnh hơn gấp nhiều lần, trong đó 3 lần đánh thắng qn
Ngun Mơng, đánh đổ ách đô hộ nhà Minh, phá tan quân Thanh, và các cuộc
chiến tranh chống thực dân, đế quốc, bành trướng. Yêu nước ngày nay là động
lực phấn đấu toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; được
Trung ương khẳng định là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”; dân giàu, nước mạnh là yếu tố vật chất; dân chủ, công bằng là yếu tố
tinh thần; tổng hợp lại là nước Việt Nam văn minh. Bằng nhiều phương thức
khác nhau, hun đúc chủ nghĩa yêu nước là nội dung chủ yếu của mỗi người, gia
đình và tồn xã hội.
1.2.

Tinh thần đồn kết, coi trọng cộng đồng, đề cao tính tập thể

Đây là truyền thống của dân tộc ta từ nhiều ngàn năm qua, bắt nguồn từ sự
gắn kết gia đình, dịng họ, làng xã... đến cả nước, nhất là khi làng nước đứng
trước thiên tai, địch họa đe dọa sự tồn vong của cả cộng đồng. Với điều kiện
phải chống lại thiên tai, một hiện tượng xảy ra hàng năm, phải chống lại địch
hoạ với các cuộc xâm lược của ngoại bang lớn mạnh hơn mình gấp bội, cho nên

yếu tố cộng đồng đã tồn tại lâu dài trong lịch sử. Chính sự cố kết cộng đồng đã
tạo ra sức mạnh chống giặc ngoại xâm, các thế lực phản nghịch, thù trong giặc
ngồi. Coi trọng cộng đồng đã trở thành một tính cách truyền thống cơ bản của
con người Việt Nam, là một giá trị rất căn bản trong toàn bộ văn hoá nhân cách
Việt Nam, là điểm xuất phát, là cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
đoàn kết và ý thức dân Tính cộng đồng cao là một nét tâm lí, một nét tính cách
của người Việt Nam có chứa đựng nhiều giá trị.
3


Lối sống đề cao tính tập thể, cộng đồng của người Việt có mặt tích cực là
coi trọng tình làng nghĩa xóm, đề cao tinh thần đồn kết, hịathuận, tương thân
tương ái, lá lành đùm lá rách, không chấp nhận lối sống hờ hững, vô trách
nhiệm. Lối sống cộng đồng này góp phần kìm hãm và hạn chế những biểu hiện
của bệnh vô cảm, của sự cạnh tranh một cách ghẻ lạnh trong bối cảnh của nền
kinh tế thị trường hiện nay, đồng thời tạo nên sức mạnh của sự thống nhất cùng
nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3.

Tính cách coi trọng tình nghĩa

Thái độ coi trọng tình nghĩa ở người Việt Nam, từ rất sớm đã được thừa
nhận và cho tới ngày nay, các bậc cao niên vẫn thường xuyên khuyên nhủ thế hệ
sau giữ gìn truyền thống tương thân tương ái này. Và sự thật thì cho đến ngày
nay, khi cơ chế thị trường đã bén rễ trong xã hội Việt Nam, duy tình vẫn là
phương thức ứng xử còn giữ được sức mạnh truyền thống của nó, có tác dụng
tích cực, tạo nên sức mạnh của sự cố kết cộng đồng, nếp sống chan hoà, cởi mở
và giàu tính nhân văn của con người Việt Nam như tinh thần “thương người như
thể thương thân”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “lá lành đùm lá rách”.
1.4.


Tinh thần hiếu học

Tinh thần hiếu học là một trong những giá trị truyền thống quý báu được
hình thành và hun đúc từ dòng chảy lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Đó
chính là tinh thần quả quyết, tính kiên trì, nhẫn nại và ham học hỏi. Sự hiếu học
ấy đã tạo điều kiện sản sinh nhiều bậc anh tài, các trung thần, những anh hùng
dân tộc,… góp phần quan trọng cho sự nghiệp giải phóng và kiến thiết nước
nhà.
Sự khủng hoảng của giáo dục, của nhận thức trong những năm gần đây đã
dẫn đến một loạt hệ quả xấu cho xã hội, cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam
trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại bùng nổ mạnh mẽ,
tri thức của nhân loại tăng lên từng ngày, từng giờ theo cấp số nhân. Chính vì
4


vậy, tính ham học của người Việt Nam đã trở thành truyền thống cần được nhìn
nhận, nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan nhất. Người Việt Nam được
các dân tộc khác thừa nhận là có tinh thần hiếu học, cộng với bản chất “thơng
minh vốn sẵn tính trời” và một nền giáo dục có truyền thống cả ngàn năm đáng
lẽ Việt Nam phải có nhiều tên tuổi tầm cỡ thế giới trong các lĩnh vực khoa học.
1.5.

Lối sống cần cù, chịu thương chịu khó, tiết kiệm

Lối sống cần cù, tiết kiệm của người Việt đã được coi là một trong những
đức tính điển hình, nói như cố giáo sư Trần Văn Giàu “cần cù đến mức anh
hùng tột bậc” .Từ xưa đến nay, người Việt vẫn coi trọng đức tính cần cù, tiết
kiệm, đề cao nó đến độ “cần cù bù thơng minh”, “năng nhặt chặt bị”, “tích cốc
phịng cơ”, “bn tầu bán bè khơng bằng ăn dè hà tiện”. Lối sống tiết kiệm góp

phần ổn định đời sống kinh tế gia đình, xã hội trong điều kiện đất nước cịn khó
khăn, rèn luyện cách sống biết q trọng sức lao động, chống lối sống xa hoa,
lãng phí theo kiểu “bóc ngắn cắn dài”, “vung tay quá trán”, “ném tiền qua cửa
sổ”,...
1.6.

Người Việt Nam ơn hồ, nhã nhặn khiêm nhường, yêu thiên nhiên

Trong lịch sử, người Việt vốn rất gắn bó với thiên nhiên, u q, tơn trọng
thiên nhiên. Triết lý sống “hài hòa” với giới tự nhiên khiến người Việt trở nên
gần gũi, thích nghi với sự biến thiên thất thường của thiên nhiên và duy trì nền
nông nghiệp lúa nước khá thịnh vượng, phát triển. Khi người Việt đã biết thích
ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo đến một mức độ nhất định đối với tự
nhiên, người Việt trở nên kiên cường hơn, tính cách linh hoạt, lối sống năng
động hơn trước những biến đổi của thiên nhiên, biết khắc phục và kìm hãm
thiên tai, lựa theo tự nhiên mà sản xuất và mưu sống. Lối sống hài hòa với giới
tự nhiên cũng tạo cho người Việt truyền thống những đức tính ơn hịa, nhã nhặn,
khiêm nhường.Dân tộc Việt được xem là một dân tộc biết lấy khiêm nhu làm
hậu thuẫn, thắng mà không kiêu căng, đó là nghệ thuật ơn nhu khơn khéo của
nước nhỏ đối với nước lớn, biết làm chiến thuật Tâm cơng (đánh vào lịng
5


người, không chiến trận mà địch vẫn thua). Lối sống ấy khiến chocha ông chúng
ta qua các triều đại đều rất coi trọng chữ “Hòa”trong kế sách trị quốc và ngoại
giao. Trong ba yếu tố Thiên thời, Địalợi, Nhân hòa,đạo trị quốc, trước hết, phải
lấy việc Nhân hòa làm đầu, dân là gốc của nước, có dân tâm, sĩ khí, ắt thay đổi
được thời cuộc.
1.7.


Người Việt Nam rất coi trọng tình nghĩa

Trong đời sống tinh thần xã hội, người Việt truyền thống coi trọng chữ
“Tình”, đề cao ân nghĩa,... đơi khi, chữ “Tình”đã vượt lên trên cả lý lẽ, luật
pháp.
1.8.

Ý thức vươn lên trong cuộc sống

Người Việt hiện nay không bằng lòng với cái nghèo, với sự thanh nhàn, an
phận, không tự thỏa mãn với lối sống hữu danh vô thực, họ bắt đầu chú trọng
đến lợi ích vật chất, biết vươn lên làm giàu, đề cao tính cá nhân, sự tự do,…
Hiện nay, từ cách thức lao động sản xuất, cách thức tư duy, cách thức ứng xử,
hưởng thụ, thỏamãn nhu cầu sống của người Việt đã ít nhiều khác xa các thế hệ
cha ông ngày trước. Trong đời sống hiện tại, người Việt đang cố gắng khắc phục
những biểu hiện của nếp sống cũ: tác phong lề mề, thủ cơng, trì trệ, làm ăn nhỏ,
manh mún,... xây dựng các giá trị mới như trọng lý, trọng khoa học, trọng hiệu
quả, đề cao tự do cá nhân (đặc biệt rõ nét trong lối sống của tầng lớp thanh niên
thành thị, trí thức, doanh nhân)
2. Hạn chế
2.1.

Tính cộng đồng được đề cao quá mức

Cộng đồng đề cao quá mức đã ức chế sự phát triển cá tính, kìm hãm sự
phát triển cá nhân vì cộng đồng khơng chấp nhận cá nhân đứng ngoài xã hội.
Các yếu tố cá nhân tuy từ trong bản chất đã là rất riêng, nhưng trong lịch sử thì
lúc nào nó cũng phải quan hệ, phải tương quan với yếu tố cộng đồng. Và như
thế cộng đồng lại lấn át cá nhân, bao trùm cá nhân và làm hạn chế động lực phát
6



triển của mỗi cá nhân. Nhưng khơng có con đường nào khác vì dù cá nhân có
muốn vươn lên, muốn trỗi dậy thì sẽ gặp phải khơng ít khó khăn trong khi cả xã
hội cũng như mọi người cũng phải có cộng đồng, khơng thể thiếu vắng cộng
đồng. Khi hịa bình, khi gia đình, xóm làng n ổn, sự đồn kết nhiều lúc trở
thành quyền hạn thứ yếu, ganh đua và cạnh tranh một mất một còn. Ngày nay,
mặt trái của cơ chế thị trưởng có lúc vì lợi ích mà làm đổ vỡ tình cảm gia đình,
dịng họ, láng giềng. Mặt trái của tính cộng đồng dẫn tới tính cục bộ, kéo bè kéo
cánh, ê-kíp- đây cũng là hạn chế khiến người Việt rất khó hịa nhập được với
nền kinh tế tồn cầu vì nếu tham gia vào q trình kinh tế tồn cầu với một đầu
óc cục bộ, vì tư lợi của một cá nhân, đơn vị, địa phương thì chính là người Việt
tự hại mình, hai lẫn nhau.
Tình trạng níu kéo nhau, khơng muốn cho người khác hơn mình “Khơn
độc khơng bằng ngốc đàn”, thói ghen ghét, đố kỵ khi thấy người khác hơn
mình, tài năng và thành đạt hơn mình,... khiến cho người Việt khơng tạo ra được
một sự hiệp thông thống nhất, dẫn đến việc một người làm thì tốt, ba người làm
thì tồi, bảy người làm thì hỏng.
2.2.

Người Việt Nam hiện nay cịn có tâm lý hiếu danh, trọng danh

Truyền thống hiếu học là một đặc trưng của người Việt, là một đức tính tốt
của người Việt vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, mặt trái của hiếu học là
hiếu danh, trọng danh. Đi liền với tính trọng danh là thói háo danh, mua danh:
được thể hiện rõ qua nạn bằng giả, bằng thật học giả trong xã hội ta hiện nay mà
các phương tiện thông tin đại chúng đã nêu ra. Trong một xã hội mà sự thăng
tiến của mỗi cá nhân gắn liền với độ cao tăng dần của bằng cấp thì “cuộc đua”
để có được bằng nọ, chứng chỉ kia là điều tất yếu. Nhiều người giỏi, tài thực sự,
nhưng vì khơng có đủ bằng cấp mà chấp nhận thua thiệt, khơng đạt được vị trí

xứng đáng, khơng được mọi người thừa nhận. Một số người không học được để
lấy bằng thật thì tất yếu phải mua bằng giả. Học để lấy bằng cấp đã trở thành
gánh nặng công danh chứ khơng cịn là nhu cầu tri thức.
7


Hơn nữa, vì chịu ảnh hưởng bởi thứ triết lý nhân sinh “học để làm quan”
(với những chuẩn mực về sự dùi mài kinh sử để vượt qua các kỳ thi, đảm bảo
cho mình một địa vị xã hội, để hưởng vinh hoa phú quý), nên người Việt học
hành thường không đến nơi đến chốn. Ngày nay, vào các thư viện trong các
trường đại học hay các thư viện lớn ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy số người
đến đọc sách, học tập, nghiên cứu khơng ít, nhưng theo các cuộc điều tra xã hội
học đều cho thấy, số người đến thư viện đọc sách, học tập, nghiên cứu vì say mê
khoa học khơng nhiều, mà họ đến đó đọc sách hay học tập để thi, để hoàn thành
một chứng chỉ, hay làm xong một việc nhất định nào đó rồi bỏ đấy. Do đó, khi
học tập, nghiên cứu, người Việt nặng về giáo điều, sao chép và thuộc lịng các lý
thuyết sẵn có. Với lối học “tầm chương” đó đã trói buộc những sáng kiến của
con người, kìm hãm lối suy tư phản biện, dẫn đến thiếu tự tin, không dám vượt
bỏ quá khứ.
2.3.

Tác phong tuỳ tiện, kỉ luật khơng chặt chẽ, kém hạch tốn, khơng
quen lường xa cùng với tâm lý bình quân chủ nghĩa

Lối sống thiếu triệt để của người Việt bắt nguồn từ triết lý sống duy tình,
duy cảm đã góp phần hình thành lối làm ăn tùytiện, manh mún, khơng biết lo
xa, hạch tốn, thiếu khả năng lao động liên kết, thiếu đầu óctínhtốn trong kinh
doanh, sản xuất,chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiển cận, thực dụng, tính tổ
chức,kỷ luật kém,... Lối tư duy và lối sống đó cũng đã hình thành phương thức
“ăn xổi, ở thì”, đề cao những lợi ích thiết thực ngay trước mắt chứ ít chú tâm

đến những lợi ích chiến lược, lâu dài hay phải làm những gì to tát, lâu bền.
Lối sống du di, xuề xòa của người Việt truyền thống đã tác động không
nhỏ đến cuộc sống lao động sản xuất của họ. Với Việt Nam, sản xuất nông
nghiệp là sản xuất theo thời vụ (do thời tiết có hai mùa nóng lạnh khác biệt,
buộc con người phải sản xuất theo), đã dẫn tới hình thành hiện tượng ngày mùa
thì vất vả, đầu tắt mặt tối, cịn tháng ba ngày tám thì có nhiều thời gian nghỉ
ngơi/nhàn rỗi/nơng nhàn. Ở một số vùng có nghề phụ (nghề thủ công), người
8


nông dân dùng thời gian nông nhàn tham gia sản xuất vào các ngành nghề phụ,
cịn vùng khơng có nghề thủ cơng thì người dân coi như rỗi rãi hàng tháng. Do
rỗi rãi, khơng có việc làm thúc giục, đã hình thành ở người Việt tác phong
khoan thai, chậm chạp, không tiếc thời gian: “Đi đâu mà vội mà vàng/Mà vấp
phải đá, mà quàng phải dây/Thủng thẳng như chúng anh đây/Chẳng đá nào vấp
chẳng dây nào quàng”.Tâm thế quen không tuân thủ chặt chẽ yếu tố thời gian
trong lao động sản xuất sẽ là một trở ngại lớn khi người Việt tiếp hợp vào xã hội
công nghiệp - cuộc sống địi hỏi phải khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời thì
người Việt vẫn mang theo hành trang của nếp sống “giờ cao su”.
2.4.

Tâm lý sống lâu nên lão làng, đề cao chủ nghĩa kinh nghiệm

Tư duy nặng về kinh nghiệm (Trăm hay không bằng tay quen) đã tạo nên
lối sống gia trưởng, lão quyền (người cao tuổi được coi là người có nhiều kinh
nghiệm sống hơn cả), dẫn đến tư tưởng “trọng trưởng khinh ấu”của người Việt.
Với cách nghĩ và cách làm theo kinh nghiệm thì hoạt động của con người
thường hướng về quá khứ, bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, thường tìm cách phủ
nhận năng lực của người đi sau (mặc dù trong thâm tâm biết rằng họ hơn mình).
2.5.


Thói hư danh, ảo tưởng, sĩ diện

Do ảnh hưởng của thứ văn hóa coi trọng tinh thần, khinh chê vật chất (vì
cho nó là tầm thường, hạ đẳng) nên người Việt cũng hình thành thói hư danh, ảo
tưởng,sĩ diện. Người Việt thường dấu cái nghèo, cái khổ “Tốt danh hơn lành áo;
Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp; Một quan tiền công không bằng
một đồng tiền thưởng; Ở đời muôn sự của chung/Hơn nhau một tiếng anh hùng
mà thôi”, không mấy khi người Việt thú thật nỗi cực nhọc, vất vả đã từng phải
chịu đựng, dẫn đến kiêu căng.
2.6.

Một bộ phận người Việt vẫn cịn có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào
thiên nhiên

9


Người Việt đã vận dụng những tri thức về tự nhiên đó để biết thích ứng với
tự nhiên, chinh phục, cải tạo tự nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai,...
Song, chính bởi sự gắn bó, thân thiện, hịa mình với thiên nhiên, với trời đất,
dẫn đến chỗ người Việt hình thành lối sống lệ thuộc, trơng chờ, ỷ lại vào thiên
nhiên ưu đãi, nên dễ sinh ra lười biếng lao động và giản lược hóa một cách thực
dụng trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách tùy ý, thiếu tơn trọng
sự tồn vẹn, tuần hồn của thiên nhiên, thiếu ý thức trong việc vừa khai thác
vừa tái tạo lại nó, dường như trong suốt q trình sống của mình, người Việt đã
quay lưng lại với mơi trường sống tự nhiên của chính mình.
Lối sống phụ thuộc vào tự nhiên, trong khi đó tự nhiên, thời tiết thì lại ln
thất thường, đỏng đảnh. Đối diện với sự biến thiên đó, đáng lẽ phải biết tìm
cách làm chủ và tự do trước thiên nhiên, thì người Việt lại quá lệ thuộc vào

“Trời”, nên trong quá trình sống hay lao động sản xuất, người Việt thường tin
vào số phận, may rủi, trông chờ vào thiên nhiên, dẫn đến dễ chán nản, chùn
bước khi gặp phải khó khăn.
Lối lao động, sản xuất chỉ biết dựa trên tri thức kinh nghiệm về thời tiết, về
trông mong ở trời đất của người Việt truyền thống khiến cho người Việt hiện
nay thiếu ý thức nghiên cứu khoa học trong sản xuất.
III.

Tính cách người Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố hiện nay

Trong những năm gần đây, do điều kiện kinh tế của người dân được cải
thiện, thậm chí đồng tiền kiếm được một cách quá nhanh chóng, dễ dàng, dẫn
đến xu hướng hưởng thụ, sống gấp, lười lao động, tìm mọi cách để kiếm tiền
phục vụ nhu cầu ăn chơi, hưởng thụ, kể cả vi phạm đạo đức và pháp luật. Trầm
trọng hơn, hiện tượng tham nhũng, tiêu “tiền chùa” đang trở thành quốc nạn của
nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát
triển, đặc biệt, khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, giao thương với các nền
kinh tế tư bản, lúc này “Lý” sẽ áp đảo “Tình”. Trong điều kiện đó, truyền thống
coi trọng “Tình” có vẻ khơng cịn phù hợp nữa, nhưng chúng ta vẫn cần phải
10


dung hịa,làm cho “Lý” khơng trở thành thái q để dẫn đến “vơ tình, vơ cảm”,
thành con người “duy ngã”, ích kỷ; làm cho chữ “Tình” trong thời hiện đại
khơng yếm thế, biến con người thành yếu đuối, nhu nhược, ba phải. Việc thiên
về “Lý”hướng đến sự phát triển; còn “Tình”sẽ làm cho sự phát triển diễn ra hài
hịa, bền vững. Như vậy, chúng ta vẫn duy trì và giữ gìn được bản sắc và “làm
mới, hiện đại hóa” nó cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh. Thêm nữa, việc coi
trọng “Tình”sẽ làm cho việc áp dụng luật pháp uyển chuyển, linh hoạt theo từng
địa phương, từng vùng. Luật pháp, dù được xây dựng trên đời sống thực tế,

nhưng nó vẫn là “từ ngồi vào, từ trên xuống” áp đặt người dân phải theo, nó
vẫn có tính chất lý trí, cứng nhắc, máy móc, khơng uyển chuyển và nhiều khi
khơng tương thích với những hồn cảnh riêng của từng người dân, từng địa
phương. Do đó, người Việt truyền thống đã điều hịa luật pháp của nhà nước
(triều đình) bằng Hương ước, bằng tục lệ của làng để có cuộc sống phong lưu,
thoải mái và tự tại hơn. Tục “phép vua thua lệ làng” xưa và nay, khơng có nghĩa
là coi thường kỷ cương, phép nước mà phép nước ấy, luật pháp ấy cần phải
uyển chuyển, linh hoạt và phù hợp với tâm lý, lối sống của con người. Có như
vậy, luật pháp ấy, chủ trương ấy mới đi vào cuộc sống một cách dễ dàng, khả thi
hơn, bằng không, nó sẽ gặp phải sự kháng cự mãnh liệt, rốt cục, sẽ trở thành
không khả thi, không đi được vào đời sống xã hội và người dân.
IV.

Giải pháp khắc phục hạn chế, phát uy ưu điểm trong tính cách
của người Việt Nam hiện nay

Tóm lại, trong tính cách nói chung của con người Việt Nam và từng nét
tính cách nói riêng đều ẩn chứa cả cái tốt và cái xấu, giá trị và phản giá trị trong
mối quan hệ hết sức biện chứng được thể hiện rất rõ trên các phương diện khác
nhau của cuộc sống. Sự nhận thức khách quan và khoa học về những tính cách
tiêu biểu của con người Việt Nam có ý nghĩa cả phương diện nhận thức và
phương diện thực tiễn – thực tiễn chấn hưng đất nước và phát triển dân tộc.

11


Con người là trung tâm. Khi hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và Việt
Nam nằm trong dịng xốy của tồn cầu hóa, bị chế định trong “luật chơi” quốc
tế đã định sẵn mà chúng ta khơng có quyền sửa. Sự nghiệp xây dựng đất nước ta
trong môi trường quốc tế sẽ diễn ra trong hoàn cảnh cạnh tranh gay gắt hơn bao

giờ hết, nó đầy nghiệt ngã, quyết liệt gấp bội so với trước đây, rất có thể mức độ
và hệ số rủi ro sẽ rất lớn và dày hơn. Để chấp nhận vượt qua thách thức, nguy
cơ, địi hỏi tất cả các thành viên hệ thống chính trị, trong đó nổi rõ con người
Việt Nam có những phẩm chất và năng lực vượt trội so với thời kỳ trước. Như
vậy là, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trong tồn cầu
hóa đã trở thành yêu cầu, dung môi buộc con người Việt Nam phải vươn lên về
mọi mặt, đưa đất nước sánh vai cũng các cường quốc năm châu. Đảng và nhân
dân Việt Nam đã xác định tiến bước trên con đường phát triển ấy. Do đó, hồn
cảnh này chính là cú hích tích cực, tạo động lực mạnh mẽ để xây dựng con
người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Giáo dục thường xuyên và phát huy truyền thống đoàn kết trong gia đình,
gia tộc, mở rộng ra đồn kết làng nước có ý nghĩa thực tế của mỗi gia đình và
các nhóm xã hội, các đồn thể trong cộng đồng dân tộc. Tìm kiếm các lợi ích
chung được nhiều người thừa nhận để phát động sự gắn kết cộng đồng, đoàn kết
các thành phần, các giới để phát triển xã hội bền vững. Đó là mục tiêu căn bản
của xã hội ta ngày nay.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đã hình thành nhiều
phong tục, tập quán tốt đẹp, sự tồn tại của chúng trong lối sống hiện đại thể hiện
tính liên tục của nhân sinh quan và bản sắc văn hóacủa con người Việt Nam.
Hơn nữa, trong lối sống của con người Việt Nam mà chúng ta xây dựng để đáp
ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập phải là: dân tộc, hiện đại, văn minh. Để làm
được điều đó, chúng ta phải biết khơi dậy và phát huy hiệu quả những giá trị
tích cực của nhân sinh quan truyền thống như: truyền thống hiếu học, tinh thần

12


đồn kết, tương thân tương ái, trọng tình trọng nghĩa, lối sống cần cù, tiết
kiệm,...


KẾT LUẬN
Trong bối cảnh đổi mới hội nhập toàn diện, để đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững, cần phải tích cực, chủ động hội nhập, giáo dục phát triển
con người – nền móng căn bản cho sự phát triển toàn diện của đất nước, cùng
với đó, cần chú trọng phát triển văn hố, xã hội, kinh tế, anh ninh chính trị, tăng
cường huy động các nguồn lực để phát triển, xây dựng nền văn hoá Vệt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu văn hoá tinh hoa nhân loại để văn hoá
thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội và phát triển văn hố vì sự hồn thiện
nhân cách, phẩm chất con người Việt Nam có lối sống, tính cách tốt đẹp,…

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Phạm Thái Việt (2004), Đại cương về văn hoá Việt Nam, NXB Văn
hố - Thơng tin
2. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, NXB Văn hóa Thơng tin, Hà
Nội.
3. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên)
(2002), Giátrị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa Đơng Nam Á, NXB Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh.
5.

/>%C6%B0%E1%BB%9Di_Vi%E1%BB%87t#:~:text=
%C4%90%C3%A1nh%20gi%C3%A1%20chung,%C4%91%E1%BA
%B7c%20tr%C6%B0ng%20c%E1%BB%A7a%20Vi%E1%BB%87t
%20Nam.&text=Th%C3%A1i%20%C4%91%E1%BB%99%20coi%20tr
13


%E1%BB%8Dng%20c%E1%BB%99ng,c%E1%BB%A7a%20con

%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
6.

/>
7.

/>%E1%BA%A5u-c%E1%BB%A7a-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-vi
%E1%BB%87t-nam

8.

/>
14



×