Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ TNDN ĐỐI VỚI CÁC DNNN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.3 KB, 30 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ TNDN ĐỐI VỚI CÁC
DNNN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH.

2.1 Khái quát về các Doanh nghiệp nhà nước( DNNN) trên địa bàn tỉnh Nam Định.
2.1.1Số lượng doanh nghiệp và lực lượng lao động của các DNNN trên địa bàn tỉnh
Nam Định.
Theo số liệu thống kê tính đến ngày 31/12/2004, trên địa bàn tỉnh Nam Định có
214 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có tới 137 DNNN còn mại là các loại hình
doanh nghiệp khác. Trong số các DNNN thì có 94 doanh nghiệp do trung ương quản
lý và có 43 doanh nghiệp do địa phương quản lý.
Qua số liệu thống kê trên ta thấy DNNN là loại hình doanh nghiệp hoạt động chủ
yếu trên địa bàn tỉnh Nam Định: số lượng DNNN chiêm tới 64,02% trong tổng số
doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn. Không những chiếm lệ lớn về số lượng mà lực
lượng lao đông lam việc trong các DNNN cung chiêm đa số trong tổng số lao động
đang làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn cụ thể là: số lượng lao động đang làm
việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn là 124.000 lao động thì trong đó có tới 83.000
lao động đang làm việc tại các DNNN, với tỷ trọng là 66,93% trong tổng số lao động
đang làm việc tai các doanh nghiệp trên địa bàn.
Như vậy DNNN là một loại hình doanh nghiệp có quy mô rất lớn trên địa bàn
tỉnh Nam Định: với số lượng lao động ngày càng đông đảo, số vốn đầu tư vào đây
ngày càng nhiều đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của DNNN đối với giá
trị sản xuất kinh tế trên địa bàn tỉnh Nam Định, bên cạnh đó việc cổ phần hoá các
DNNN tại Nam Định đang diễn ra rất mạnh mẽ, những doanh nghiệp đang làm ăn
thua lỗ sau khi có thêm vốn do cổ phần hoá thì cũng đã thoát khỏi tình trạng khó khăn,
ngày càng ổn định trong sản xuất kinh doanh.
Những năm qua là thời gian mà các DNNN hoạt động trên địa bàn tỉnh Nam
Định đã thay đổi rất nhiều từ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trong thời gian dài,
ngày càng thu hẹp sản xuất, lực lượng lao động bị thất nghiệp rất lớn, đến nay thì nhìn
chung các DNNN này đã ổn định được sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế,
tạo nhiều việc làm cho người lao động, và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với
NSNN cụ thể như : công ty Dệt Nam Định ở năm 1994 làm ăn thua lỗ, người lao động


phải bỏ việc nhiếu nợ ngân sách Nhà nước đến gần 400 tỷ đồng, nay đã bắt đầu ổn
định sản xuất kinh doanh, ngày càng phục hồi lại ngành Dệt một ngành sản xuất đã rất
phát triển tại Nam Định trong những năm của thập kỷ 80.
Nhìn chung DNNN trên địa bàn tỉnh Nam Định đã có những bước phát triển sản
xuất mới, đạt được nhiêu kết quả cao trong những năm qua như đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh, mở rộng quy mô và đạt được hiệu quả kinh tế cao. Nhưng tình trang thua
lỗ tại các DNNN trên địa bàn tỉnh Nam Định vẫn còn tồn tại ở nhiều doanh nghiệp,
điều này ảnh hưởng rất lớn đến tình hình phát triển kinh tế chung của toàn tỉnh và sự
đầu tư của nhà nước vào các doanh nghiệp này và các doanh nghiệp khác trên địa bàn.
Vì là loại hình doanh nghiệp chủ yếu sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Nam Định
nên tình trạng của các DNNN cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc thu của NSNN thông
qua việc thu thuế TNDN đối với loại hình doanh nghiệp này.
2.1.2Giá trị sản xuất của DNNN trên địa bàn.
Cũng như tình hình chung của nước ta hiện nay, DNNN vẫn, loại hình doanh
nghiệp hoạt động chủ yêu, với giá trị sản xuất lớn. Giá trị sản xuất của DNNN ở nước
ta trong năm 2003 là gần 450000 tỷ đồng, còn ở Nam Định tuy chưa phải là một tỉnh có
giá trị kinh tế cao ở Nước ta, nhưng giá trị sản xuất của toàn tỉnh cũng khá lớn đạt gần
557 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất của các DNNN vẫn chiếm đa số so với tổng sản
xuất trên toàn tỉnh đạt gần 324 tỷ đồng chiếm gần 60% giá trị sản xuất trên toàn tỉnh.
Bảng1 – Giá trị sản xuất của các khu vực kinh tế trên địa bàn tỉnh Nam Định trong 2
năm 2002 và 2003.( đơn vị tỷ đồng)
STT Khu vực kinh tế 2002 2003
1 Khu vực kinh tế trong nước 417 482
2 Khu vực kinh tế vốn đầu tư
nước ngoài
95 155
3 Tổng cộng 512 637
Qua số liệu trên ta thấy tại Nam Định thì giá trị sản xuất của khu vực kinh tế trong
nước với chủ yếu là giá trị sản xuất của loại hình DNNN chiếm tỷ trọng lờn nhất trong
tổng số giá trị sản xuất của toàn tỉnh. Như vậy ta thấy được vai trò chủ đạo của các DNNN

trên địa bàn cũng như nhiệm vụ và vai trò của nó trong việc thúc đẩy nền kinh tế của toàn
tỉnh đi lên.
Nhưng qua đây ta cũng biết được thực tế của việc gía trị sản xuất của khu vực kinh
tế nước ngoài còn rất thấp. Như vậy tỉnh Nam Định vẫn chưa thu hút được nhiều vốn đầu
tư nước ngoài.
Như vậy tuy chưa phải là một tỉnh có giá trị sản xuất lớn, có đóng góp nhiều vào
NSNN, cũng không phải là trung tâm kinh tế như Hà Nội, Hải Phòng…
Nhưng những năm qua kinh tế tỉnh Nam Định đã đạt được những thành công đáng
ghi nhận, giá trị sản xuât đạt được khá cao đặc biệt là giá trị sản xuất của các DNNN trên
địa bàn là rất lớn. Với một lực lượng lao động rất đông đảo về số lượng và cao về chất
lượng, với doanh thu lớn và đóng góp vào NSNN một phần không nhỏ. Vì vậy Nam Định
cần tiếp tục phát huy tốt những thành quả đã đạt được và ngày càng quản lý tốt các khu
vực kinh tế trong tỉnh, cũng như công tác quản lý thuế TNDN ở các DNNN. Để ngày càng
phát huy được tiềm năng của tỉnh Nam Định.
2.2 Khái quát kêt quả của việc quản lý thu thuế TNDN đối với DNNN tại Cục thuế Nam
Định.
2.2.1 Kết quả của việc quản lý thu thuế TNDN đối với DNNN tại Cục thuế Nam Định.
Trong những năm qua nganh thuế Nam Định đã thực hiện thành công nhiệm vụ trọng
tâm đó là tổ chức chỉ đạo hoàn thành nhiệm vụ thu NSNN. Tổng thu NSNN tăng đều theo
các năm, năm sau cao hơn năm trước.
Bảng 2:Tình hình thu thuế của Cục thuế Nam Định trong 3 năm gần đây.
STT Loại thuế 2002 2003 2004
1 Thuế GTGT 28.541.671.352 29.862.731.642 29.942.332.567
2 Thuế TNDN 37.707.034.463 40.404.003.396 47.757.189.703
3 Thuế TTĐB 1.832.642.323 1.952.541.327 1.982.562.732
4 Thuế Môn Bài 5.345.532.721 5.425.231.798 5.896.214.721
5 Lệ phí trước bạ và thu
khác
6.260.425.530 6.524.435.584 7.057.474.542
Trên bảng 2 là tình hình số thu thuế của một số loại thuế chủ yếu tại cục thuế Nam

Định.
Nhìn chung ta thấy, tổng số thu của Cục thuế Nam Định tương đối ổn định qua các
năm, năm sau tăng đều nhỉnh hơn năm trước. Qua số liệu trên cho thấy Cục thuế Nam
Định đã thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách. Trong tổng số thu về thuế tại Cục thuế
Nam Định thì ta thấy số thu của thuế TNDN là lớn nhất, và cũng như tổng số thu từ
thuế tại Cục thuế Nam Định thì số thu về thuế TNDN của Cục thuế Nam Định cũng
tăng đều qua các năm chứng tỏ việc quản lý thu thuế TNDN tại Cục thuế Nam Định
trong thời gian qua đã thực hiện rất tốt. Tỷ trọng số thu về thuế TNDN trong tổng số thu
của Cục thuế Nam Định ở 3 năm gần bằng nhau nếu như ở năm 2002 chiếm 24,8%
trong tổng số thu về thuế của Cục thì năm 2003 có nhỉnh hơn một chút chiếm 26,7%
trong tổng số thu về thuế và đến năm 2004 chiếm 27,05%. Với nguồn thu luôn luôn ổn
định theo các năm đã thể hiện được vai trò quan trọng của thuế TNDN trong việc đảm
bảo nguồn thu cho NSNN và cho NS của tỉnh Nam Định.
Đạt được thành tích nói trên của Cục thuế Nam Định là do những nguyên nhân chủ
yếu là:
- Là sự nỗ lực không ngừng của ngành thuế Nam Định trong việc tổ chức, triển khai,
cải tiến mang tính cải cách mạnh mẽ các biện pháp quản lý thu, hiện đại hoá quy trình
thu, cải tiến công tác lập dự toán, tăng cường công tác đào tạo và nâng cao trình độ cán
bộ, thường xuyên tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn luyện phẩm chất đạo đức và tinh
thần trách nhiệm công tác cho cán bộ của ngành.
- Do có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ tài chính, của chính phủ mà trực tiếp là Bộ
tài chính, sở tài chính…đồng thời với sự nỗ lực và chủ động của ngành thuế Nam Định
trong việc xây dựng, đề xuất các biện pháp quản lý thu và tổ chức công tác triển khai
phối hợp hành động với các ngành, cơ quan đoàn thể liên quan…để ngành thuế Nam
Định hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- ý thức chấp hành pháp luật thuế, pháp lệnh về thuế của các doanh nghiệp đã nâng cao
hơn trước nhiều( nhất là các DNNN đã có ý thức hơn trong việc nộp thuế đúng hạn).
Phần lớn các doanh nghiệp đều đã nhận thức được trách nhiệm đóng góp của mình vào
NSNN và tự nguyện thực hiện.
- Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về thuế đã được triển khai mạnh mẽ với

nhiều hình thức phong phú đa dạng. Ngành thuế Nam Định đã phối hợp với nhiều
ngành khác đặc biệt là ngành thông tin, tư pháp các cơ quan làm công tác tuyên truyền
văn hoá tư tưởng cùng các cơ quan thông tin đại chúng, báo đài truyền hình để kịp thời
thông tin các tin tức cần thiết,các văn bản luật mới ban hành và với khẩu hiệu là “ nộp
thuế để xây dựng đất nước”. Bản thân Cục thuế Nam Định cũng đã tổ chức tập huấn,
phổ biến cho các đơn vị về các văn bản, thông tư mới về thuế để các doanh nghiệp
tránh khỏi những bỡ ngỡ ban đầu khi thực hiện.
2.2.2 Việc quản lý thu thuế TNDN đối với DNNN tại phòng Quản lý DN số1- tại Cục
thuế Nam Định.
Phòng quản lý doanh nghiệp (QLDN) số1- Cục thuế Nam Định là một phòng chức
năng có nhiêm vụ quản lý thu thuế đối với các DNNN và một số doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài( trong đó có 137 DNNN và 5 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài). Trong những năm qua phòng đã thực hiện được tốt nhiệm vụ của mình với số
thu khá lớn, năm sau cao hơn năm trước.
2.2.2.1Tình hình thu thuế của phòng QLDN số1- Cục thuế Nam Định.
Tình hình thu thuế của phòng QLDN số1 được cụ thể là.
Bảng 3- Số thu thuế của một số loại thuế tại phòng QLDN sô1.
STT Loại thuế 2002 2003 2004
1 Thuế TNDN 28.641.670.531 29.862.732.641 30.056.247.580
2 Thuế GTGT 15.684.550.712 15.986.005.660 16.146.798.340
3 Thuế môn bài 2.695.534.751 2.954.347.230 3.246.754.694
4 Thuế TTĐB 964.346.763 1.026.396.450 1.285.585.735
Qua số thu về thuế của một số loại thuế chủ yếu của phòng QLDN số1 đối với các
DNNN ta thấy số thu về thuế TNDN chiếm tỷ trọng lớn nhất ( trong suốt 3 năm). Điều
quan trọng nữa là số thu vê tât cả các loại thuế đều tăng dần, năm sau cao hơn năm
trước và điển hình là số thu thuế TNDN đối với các DNNN tăng khá rõ qua 3 năm, nếu
năm 2002 chỉ thu được 28.641.676.531 đồng thì đến năm 2003 là 29.862.732.641 đồng
và đến cuối năm 2004 con số này là 30.056.247.580 đồng.
Những số liệu nói trên đã thể hiện được thành tích đáng khích lệ mà phòng QLDN số1
nói riêng và toàn Cục thuế Nam Định nói chung đã đạt được trong công tác quản lý

thuế TNDN. Có được kết quả này bắt nguồn từ rất nhiều các nguyên nhân trong đó có
cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan.
- Nguyên nhân khách quan.
+ Trước hết phảI kể đến những điều kiện thuận lợi mà các cấp chính quyền thành phố
đã tạo ra để khuyến khích các hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất trên địa bàn nhất là
loại hình DNNN có vai trò chủ đạo, nhờ đó mà các DNNN trên địa bàn hoạt động ngày
càng hiệu quả, thu được lợi nhuận khá và thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà
nước. Số thuế thu được từ khu vực quốc doanh thường chiếm khoảng 58% trong tổng
số thu về thuế của Cục thuế Nam Định.
+ Luật thuế TNDN đã ngày càng tỏ ra phù hợp với thực tế, bao quát được nhiều khoản
thu nhập của doanh nghiệp, phát huy được khả năng điều tiết thu nhập, đảm bảo công
bằng giữa các doanh nghiệp.
+ Do phòng QLDN số1 cũng đã được Cục thuế Nam Định hết sức tạo điều kiện để
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình như trang bị đầy đủ về vật chất thiết bị để phục vụ cho
công việc, luôn luôn quan tâm đến cán bộ trong phòng.
- Nguyên nhân chủ quan.
+ Về phía phòng QLDN số1, trong những năm qua phòng đã nỗ lực trong việc đổi mới
cách thức làm việc, cán bộ trong phòng đã đi sâu vào đi sát hơn trong công việc nắm
vững tình hình kinh doanh của các đơn vị do mình quản lý, các cán bộ trong phòng
không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình…
+ Về phía doanh nghiệp các luật thuế mới ban hành đã dần phát huy hiệu quả trong đời
sống kinh tế cũng như trong hoạt động của doanh nghiệp, quy trình quản lý thu thuế
mới đơn giản đi nhiều khâu do đó đối tượng nộp thuế có nhiều điều kiện trong việc
thực hiện đúng các quy định của pháp luật thuế. Nhờ sự tự giác về phía các doanh
nghiệp mà công việc của cơ quan thuế cũng thuận lợi hơn đảm bảo thu đúng, thu đủ,
kịp thời cho NSNN.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý thu thuế nói chung và
thuế TNDN nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, nhiều vấn đề bất cập cần tiếp tục
điều chỉnh. Do vậy việc nâng cao hiệu quả hơn nữa của công tác quản lý thu thuế
TNDN là việc hết sức cần thiết. Để có thể đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao công tác

quản lý thuế TNDN trước hết chúng ta cần đi sâu vào xen xét thực trạng của công tác
quản lý thu thuế TNDN đối với các DNNN trên địa bàn tỉnh Nam Định tại Cục thuế
Nam Định.
2.3Thực trạng công tác quản lý thu thuế TNDN của các DNNN trên địa bàn tỉnh
Nam Định- tại Cục thuế Nam Định.
2.3.1 Vấn đề quản lý đối tượng nộp thuế của phòng QLDN số1- Cục thuế Nam Định.
Tính đến hết năm 2004 phòng QLDN số1- Cục thuế Nam Định quản lý thu thuế đối
với 142 đơn vị trong đó gồm:
+ Có 137 đơn vị là doanh nghiệp Nhà nước
+ Có 5 đơn vị là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Vì đối tượng nộp thuế do phòng QLDN số1 quản lý đa số là các DNNN ( với 137
doanh nghiệp) nên số đơn vị đăng ký thuế qua các năm là tương đối ổn định, tăng giảm
không đáng kể. Nếu có tăng hoặc giảm chủ yếu do các công ty ở các tỉnh khác đăt thêm
chi nhánh cơ sở sản xuất tại Nam Định. Vì vậy các đối tượng nộp thuế do phòng quản
lý đều chấp hành tương đối đầy đủ các quy định về đăng ký thuế. Nhờ đó mà công tác
cấp mã số thuế được tiến hành khẩn trương, thuận lợi.
Thực tế cho thấy trong số các đối tượng nộp thuế là các DNNN có một bộ phận
không nhỏ là các chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị hạch toán phụ thuộc. Nên theo
pháp luật thuế TNDN, số đối tượng có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế
TNDN mà phòng QLDN số1 quản lý chỉ chiếm khoảng 80% trong tổng số đơn vị mà
phòng quản lý. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét việc chấp hành các quy định về thời hạn
nộp tờ khai, chất lượng tờ khai và phân tích nguyên nhân của tình hình đó.
- Về thời hạn nộp tờ khai.
Theo quy định của pháp luật thuế TNDN, cơ sở kinh doanh có trách nhiệm kê khai và
nộp tờ khai thuế TNDN theo mẫu có sẵn( mẫu mới nhất là mẫu số 04/TNDN-
31/12/2004) và nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý chậm nhất vào ngày 25/01 hàng
năm.
Theo thống kê cho thấy nếu như năm 2002 chỉ có 90% đối tượng nộp thuế nộp tờ khai
cho cơ quan thuế thì đến năm 2003 và 2004 gần như hầu hết các đối tượng nộp thuế
đều nộp tờ khai cho cơ quan thuế, tuy vẫn còn một số trường hợp nộp tờ khai chậm hơn

thời gian quy định trong luật thuế TNDN song các đối tượng nộp thuế đó cũng đã có cố
gắng nộp tờ khai cho phòng quản lý thu.
Đây là một thành tích rất lớn của cán bộ trong phòng QLDN số1 đã tích cực tuyên
truyền, giải thích hướng dẫn, nhắc nhở, đôn đốc các đơn vị nộp tờ khai thuế TNDN
đúng hạn.
- Về chất lượng tờ khai.
Căn cứ để kê khai thuế TNDN là kết quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ năm trước và
khả năng kinh doanh của năm tiếp theo. Khi nhận được tờ khai, cán bộ thuế phải có
trách nhiệm kiểm tra tính chính xác của các chỉ tiêu trên tờ khai .
Qua kết quả triểm tra trên tờ khai cho thấy, hiện nay chất lượng tờ khai thuế TNDN của
các đối tượng nộp thuế chưa được tốt lắm, các chỉ tiêu kê khai bị thiếu nhiều,đăc biệt là
những chỉ tiêu đòi hỏi phải kê khai chi tiết theo từng khoản mục như: chi phí sản xuất
kinh doanh hợp lý, thu nhập chịu thuế khác, doanh thu…Đối với các chỉ tiêu chi phí sản
xuất kinh doanh ở một số đơn vị nhỏ do công tác xây dựng chưa tốt, trình độ cán bộ tài
chính còn hạn chế dẫn đến tình trạng kê khai thiếu những khoản quan trọng, hoặc
không biết kê khai vào khoản mục nào. Đây là nguyên nhân chủ quan thể hiện sự yếu
kém của bản thân doanh nghiệp cần phải được khắc phục kịp thời.
Riêng ở chỉ tiêu thu nhập chịu thuế khác hầu như các đơn vị chỉ dự toàn và kê khai
được các khoản lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, còn các khoản khác như: thu nợ khó đòi
nay đòi được, thu tiền phat vi phạm hợp đồng, các khoản nợ phải trả không có chủ, thu
nhập các năm trước còn bỏ sót, đa phần các doanh nghiệp không kê khai vì các khoản
này là những thu nhập bất thường không có hoá đơn chứng từ cụ thể khó kiểm soát
được.
Nhìn chung những hạn chế của thiếu sót của đơn vị trong kê khai thuế TNDN đã được
các cán bộ thuế quan tâm, hướng dẫn, giúp đỡ đơn vị sửa chữa kịp thời nhờ vậy mà
chất lượng tờ khai qua các năm đã được cải thiện đáng kể. Đây là những biểu hiện đáng
mừng của công tác quản lý đối tượng kê khai nộp thuế. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn
tồn tại một số doanh nghiệp nộp tờ khai không đúng hạn, cố tình kê khai chỉ tiêu không
sát thực tế tạo ra hiện tượng lỗ giả lãi thật, lỗ thật lãi giả gây tổn hại cho ngân sách và
nền kinh tế. Hiện tượng tượng tiêu cực này cần được ngăn chăn sớm để đảm bảo thực

hiện đúng pháp luật thuế và thu đủ cho NSNN. Nhưng cũng cần phảI sửa đổi bổ sung
một số vấn đề trong luật cho phù hợp cho phù hợp với thực tế để hạn chế sai sót trong
quá trình kê khai.
2.3.2 Về quản lý doanh thu tính thuế thu nhập.
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến việc xác
định thu nhập chịu thuế và số thuế phải nộp. Doanh thu của các đối tượng nộp thuế có
thể nhận được từ nhiều hoạt động kinh doanh khác nhau, từ nhiều chủ thể, từ nhiều địa
bàn khác nhau…do đó cơ quan thuế rất khó theo dõi, kiểm soát. Để đảm bảo tính đúng
số thuế TNDN mà đơn vị phải nộp, cơ quan thuế phải lưu ý tới rất nhiều vấn đề trong
đó đặc biệt phải quan tâm quản lý chặt chẽ doanh thu tính thuế.
Trong những năm gần đây, các DNNN trên địa bàn Nam Định đang từng bước hoạt
động có hiệu quả, khai thác được những thế mạnh của mình, có nhiều biện pháp thúc
đẩy phát triển sản xuất, mở rộng quy mô, đa dạng hoá ngành nghề và nâng cao chất
lượng sản phẩm…Do đó các doanh nghiệp này ngày càng có khả năng cạnh tranh cao,
nâng cao uy tín của doanh nghiệp, doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng, xuất hiện nhiều
hình thức doanh thu mới. Từ thực tế mới đặt ra những nhiệm vụ nặng nề cho công tác
quản lý thuế TNDN của phòng QLDN số1. Có quản lý tốt doanh thu tính thuế thì mới
đảm bảo xác định đúng thu nhập chịu thuế của đơn vị từ đó tính đúng và thu đúng thuế
TNDN cho NSNN.
Theo quy trình quản lý thu thuế TNDN hiện nay, khi lập tờ khai thuế TNDN đối tượng
nộp thuế phải ước tính tổng doanh thu thực hiện trong năm, các khoản chi phí hợp lý và
kê khai theo mẫu quy định. Kết thúc năm tài chính, đối tượng nộp thuế lập quyết toán
thuế TNDN kèm theo tờ khai chi tiết doanh thu, chi phí, thu nhập khác trên cơ sở hoạt
động thực tế diễn ra trong năm của đơn vị rồi gửi tới cơ quan thuế.
Xét trên góc độ nào đó thì việc tự kê khai tính thuế đã có tác dụng đề cao ý thức và sự
tự giác của đối tượng nộp thuế, vì đối tượng nộp thuế hoàn toàn chịu trách nhiệm về
hoá đơn, doanh thu của chi nhánh báo về không chính xác… Tuy nhiên điều mà cán bộ
thuế cần quan tâm hơn cả là hiện tượng kê khai thiếu doanh thu của các đối tượng nộp
thuế dẫn đến giảm số thuế TNDN phải nộp. Căn cứ vào biên bản kiểm tra quyết toán
thuế năm 2003 của phòng QLDN số1- Cục thuế Nam Định, có thể kể một số đơn vị kê

khai thiếu doanh thu so với doanh thu tực tế như sau.
Bảng 4: tình hình khai thiếu doanh thu ở một số đơn vị năm 2003.
Tên đơn vị Số liệu trên BCQT Số kiểm tra lại Chênh lệch
Công ty chế biến KD than
HNN
24.721.204.389 25.430.201.373 708.996.984
Xí nghiệp may Nam Hải 17.641.853.437 18.732.435.236 1.090.581.799
Nhà máy đóng tàu Nam Hà 15.894.780.642 16.423.547.631 528.766.989
Xí nghiệp công trình 75 14.124.763.650 14.843.271.645 730.795.280
Những vi phạm phổ biến thường gặp ở các đơn vị là: hạch toán sai, kê khai thiếu doanh
thu từ một số nguồn, một số hoạt động, bỏ sót hoá đơn dẫn đến giảm doanh thu tính thu
nhập chịu thuế.
Dưới đây chúng tôi xin đi sâu vào một số nguyên nhân.
- Hạch toán sai:
+ Hạch toán sai doanh thu trong kỳ. Hạch toán sai doanh thu trong kỳ là một nguyên
nhân tương đối phổ biến dẫn đến giảm doanh thu trong kỳ của đơn vị. Nhiều đơn vị viết
hoá đơn bán hàng vào cuối tháng ảnh hưởng đến sự trung thực của số liệu. Còn về cơ
quan thuế, để quản lý tốt doanh thu tính thuế, không chỉ đơn thuần dựa vào số liệu đã
kê khai của đơn vị mà cơ quan thuế phải lập kế hoạch và tổ chức thanh tra kiểm tra
quyết toán thuế tai cơ sở. Căn cứ để kiểm tra doanh thu tính thuế là: báo cáo quyết toán
thuế, báo cáo tài chính năm, thuyết minh tài chính, báo cáo luân chuyển tiền tệ, các hoá
đơn chứng từ và sổ sách kế toán khác của đơn vị. Trong quá trình kiểm tra, cán bộ thuế
tiến hành đối chiếu giữa số trên hoá đơn chứng từ, sổ kế toán và báo cáo quyết toán
năm, số dư trên tài khoản kế toán để xem có phù hợp, ăn khớp với nhau không. Từ đó
sẽ phát hiện những khoản hạch toán sai, bỏ sót, nhưngx khoản để ngoài doanh thu…
Bảng 5: số liệu thanh tra, kiểm tra doanh thu tính thuế năm 2003 tại 10 đơn vị (đơn vị
1000đ):
Tính chất Số đơnvị % Số liệu báo cáo Số kiểm tra lai Chênh lệch
Doanh thu khai đúng 5 50% 46.430.514 46.430.514 0
Doanh thu khai thừa 1 10% 16.743.256 16.258.382 - 484.874

Doanh thu khai thiếu 4 40% 28.834.740 30.484.765 1.650.025
Trong tổng số doanh thu khai thiếu của 4 đơn vị là 1.650.025 (1000đ), doanh thu khai
thừa của một đơn vị là 484.874 (1000đ), như vậy qua công tác kiểm tra đã phát hiện và
bổ xung vào doanh thu tính thuế là 1.165.151 (1000đ). Đây là một vấn đề chứng tỏ ý
thức của đối tượng nộp thuế vẫn chưa cao và công tác quản lý thu cũng chưa thật hiệu
quả. Ta thấy mới có 50% số đơn vị được thanh tra, kiểm tra là khai đúng doanh thu để
tính nộp thuế, còn lại là 40% doanh nghiệp đã kê khai thiếu doanh thu. Những đơn vị
có doanh thu thực tế nhỏ hơn hoặc lớn hơn doanh thu kê khai chủ yếu xuất phát từ một
số nguyên nhân thường gặp là: hạch toán trùng, hoá đơn đã báo huỷ vẫn kê khai, bỏ sót
doanh thu, do đó đã làm giảm doanh thu và thu nhập chịu thuế của năm 2003, vi dụ:
+ Công ty chế biến kinh doanh than Hà Nam Ninh khai thiếu doanh thu là 708996987
đồng.
+ Xí nghiệp may Nam Hải là 1.090.581.799 đồng
+Nhà máy đóng tầu Nam Hà 528.766.989 đồng.
Đi vào tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của vấn đề, có thể nhận thấy việc đơn vị hạch toán
sai doanh thu trong kỳ để làm giảm thu nhập chịu thuế trong năm, phân bổ một phần số
thuế phải nộp cho năm kế tiếp, thực chất là một cách nhằm trì hoãn việc nộp thuế, giảm
bớt căng thẳng về vốn cho đơn vị, cán bộ thuế cần sớm tìm ra biện pháp để khắc phục
nó.
+ Treo tài khoản công nợ.
Treo tài khoản công nợ là việc hàng bán đã chấp nhận thanh toán nhưng đơn vị vẫn
treo ở tài khoản công nợ 131 chưa ghi vào tài khoản doanh thu bán hàng 511.
Hiện tượng trên có thể do các cán bộ kế toán của đơn vị có trình độ hạn chế dẫn đến áp
dụng sai chế độ kế toán hiện hành, do cố tình áp dụng sai để trốn thuế. Muốn loại bỏ
hiện tượng này, cách tốt nhất là phải xử phạt nghiêm minh các đơn vị cố tình làm sai và
tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế TNDN để đối tượng nộp thuế không thể tìm ra kẽ hở
có thể giúp họ có thể lẩn tránh trách nhiệm của mình.
+ áp dụng sai tỷ giá quy đổi.
Trong trương hợp những cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ có doanh thu bằng ngoại tệ
thì theo luật thuế TNDN quy định: phải có sự quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo

tỷ giá giao dịch binh quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân Hàng Nhà
Nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu ngoại tệ. Tuy nhiên trên thực
tế một số đơn vị áp dụng sai tỷ giá quy đổi để làm giảm doanh thu theo hướng có lợi
cho đơn vị.
ví dụ: qua kiểm tra báo cáo quyết toán thuế năm 2003 của công ty Dệt Nam Định, đã
phát hiện công ty áp dụng sai tỷ giá quy đổi với khoản thu bằng ngoại tệ đã làm cho
doanh thu báo cáo giảm so với thực tế là 24 triệu đồng.
Tóm lại các trường hợp hạch toán sai doanh thu tính thu nhập chịu thuế có thể bắt
nguồn từ hai nguyên nhân chủ yếu: do đơn vị chưa nắm vững chế độ hạch toán kế toán
hiện hành hoặc do đơn vị cố tình làm sai quy định để trốn thuế. Yêu cầu này đặt ra đối
với cán bộ thuế là cần tìm rõ nguyên nhân sai phạm của đơn vị. Đối với những đơn vị

×