Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THUẾ TNDN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.87 KB, 24 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THUẾ TNDN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
2.1. Khái quát về vị trí địa lý, tình hình kinh tế xã hội và công tác quản lý thuế
trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc
2.1.1. Một số nét về vị trí địa lý, đặc điểm tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc
*Về vị trí địa lý
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Hồng, phía Tây Bắc của thủ
đô Hà Nội, với tổng diện tích đất tự nhiên chỉ có 1.371 km
2
, dân số 1.147 ngàn
người (số liệu đến năm 2003), gồm có hai thị xã (Vĩnh Yên, Phúc Yên) và 7 huyện
(Lập Thạch, Vĩnh Tường, Tam Đảo, Yên Lạc, Mê Linh, Tam Dương và Bình
Xuyên). Do đặc điểm về địa lý, Vĩnh Phúc hình thành 3 vùng sinh thái rõ rệt:
Đồng bằng, trung du, miền núi, lại liền kề thủ đô Hà Nội, gần sân bay quốc tế Nội
Bài và nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có mối liên hệ hữu cơ với các
khu công nghiệp đang phát triển như Bắc Thăng Long, khu công nghiệp Sóc Sơn
của Hà Nội và các tỉnh lân cận như các khu công nghiệp của tỉnh Phú Thọ, Bắc
Ninh, Hải Dương... Vĩnh Phúc thực sự là một tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển
kinh tế-xã hội, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
*Về tình hình kinh tế xã hội
Vĩnh Phúc là một tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997 (Vĩnh Phú tách thành
Vĩnh Phúc và Phú Thọ). Ban đầu, tỉnh gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế và xã hội:
Là một tỉnh thuần nông, điểm xuất phát thấp, GDP bình quân/người chỉ chiếm
48% bình quân cả nước, tỷ trọng công nghiệp là 12,9%/GDP, trình độ công nghệ,
máy móc thiết bị của ngành công nghiệp lạc hậu, dịch vụ hầu như chưa có,tổng
thu ngân sách của tỉnh chỉ đạt chưa đến 100 tỷ đồng.
Mặc dù vậy, từ 1997 đến nay,Vĩnh Phúc đã thực sự chuyển mình, cơ cấu GDP
đã chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp và dịch vụ, tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân giai đoạn 1997-2002 đạt 17,3%, giá trị sản xuất công nghiệp - xây
dựng tăng bình quân giai đoạn 1997 - 2002 là 56,3%, thu ngân sách năm 2003 đạt


1765,7 tỷ đồng, tăng 6,9% so với năm 2002, tổng thu ngân sách tỉnh năm 2004 đạt
2.275,607 tỷ đồng (bao gồm cả thu thuế xuất nhập khẩu do cơ quan Hải quan thực
hiện). Lần đầu tiên trong hàng chục năm qua Vĩnh Phúc đã tự cân đối được thu –
chi ngân sách và có đóng góp cho ngân sách Trung Ương, đây là thành tựu to lớn
nhất trong lịch sử kinh tế trong suốt 55 năm qua của Đảng Bộ và nhân dân Vĩnh
Phúc.
Có được những sự thành công bước đầu như vậy, một phần do sự nỗ lực của
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, một phần do tiềm năng của tỉnh. Ngoài
những điểm mạnh đã được đề cập, đây còn là cơ sở thuận lợi để xây dựng nhà máy,
khu công nghiệp, phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến; là nơi có
nguồn lao động khá dồi dào, trong đó chủ yếu là lao động trẻ, có kiến thức văn
hoá, có thể đào tạo thành công nhân kỹ thuật lành nghề. Nơi đây cũng là nơi có
nhiều phong trào thi đua sản xuất, truyền thống sáng tạo, cần cù, chăm chỉ của
nhân dân. Sự phát triển của Vĩnh Phúc được biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, về lĩnh vực thu hút vốn đầu tư, Vĩnh Phúc không những thành công
trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước mà cả nguồn vốn trực tiếp FDI. Đối với
thu hút đầu tư, Vĩnh Phúc đã xây dựng những khu, cụm công nghiệp tại địa bàn
nhiều huyện, thị xã, có những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư như: chính sách ưu
đãi về về thuê đất, giải phóng mặt bằng, giảm tối đa các thủ tục ban đầu cho các
nhà đầu tư, phối hợp đồng bộ giữa cá ngành, giải quyết triệt để những vướng mắc
nảy sinh như môi trường, lao động, an ninh trật tự, chính sách khuyến khích về vay
vốn đối với những làng nghề truyền thống, đặc biệt là cơ chế một cửa đã thu hút sự
quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Năm 2004, số đối tượng
nộp thuế thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 55 (năm 2003 là 44) với
số vốn đầu tư là 62.998.000 USD, tổng số nộp vào ngân sách trên 874 tỷ đồng
(năm 2003 là trên 386 tỷ). Các dự án FDI được triển khai thuận lợi với số lượng
tăng liên tục là do chính sách thu hút vốn đầu tư giải quyết được nhiều yếu tố ,
trong đó đặc biệt là địa bàn (thuận lợi về giao thông như gần sân bay, đường quốc
lộ 2, điện nước thuận tiện, an ninh đảm bảo…), giá cả thuê đất (thấp và còn được
miễn và nộp chậm nhiều năm đầu khi doanh nghiệp mới đi vào hoạt động), phí

dịch vụ, đền bù giải phóng mặt bằng, giao đất… kịp thời như khu CN Khai Quang,
Bình Xuyên, Quang Minh.
Trong các dự án FDI, phải kể đến hai liên doanh khổng lồ và thành công nhất
trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô, xe máy của TOYOTA (ra đời năm 1997) và
Honda (ra đời năm 1999). Sự đóng góp đáng kể của hai công ty này cho nền kinh
tế của địa phương thể hiện ở sản lượng ô tô và xe máy được bán ra ở Việt Nam
luôn đứng đầu so với các liên doanh trong nước, với doanh thu hàng triệu đô la
Mỹ, góp phần đáng kể vào số thu ngân sách của tỉnh. Mặt khạc, sự ra đời, tồn tại
và hoạt động hiệu quả của hai công ty trên đã tạo điều kiện để hình thành các nhà
máy, vùng nguyên liệu sản xuất cung cấp linh kiện trên địa bàn tỉnh. Do mới tái lập
tỉnh, hình thành các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, với tiềm năng sẵn có về
nguyên liệu, ngành sản xuất vật liệu xây dựng cũng được đầu tư khuyến khịch có
hiệu quả. Các sản phẩm vật liệu xây dựng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu xây
dựng của Vĩnh Phúc mà còn cung cấp cho thị trường Hà Nội và các tỉnh lân cận.
Ngoài ra, ngành may mặc và giày dép cũng là một trong những ngành được tập
trung ưu tiên và phát triển sớm. Do có nhiều thuận lợi, kể từ khi tái lập, Vĩnh Phúc
từ một tỉnh mà chủ yếu là nền nông nghiệp thuần tuý đã trở thành một tỉnh có nền
công nghiệp mạnh, tốc độ phát triển tương đối cao so với các tỉnh trong cả nước.
Kết quả này đã góp phần thúc đẩy về phát triển kinh tế của Vĩnh Phúc với tốc độ
tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng số thu ngân sách trong qua các năm
như sau:
Năm Tăng GDP (%) Số thu NS (Tỷ đồng)
1997 20,55 114
1998 21,79 193
1999 7,8 423
2000 24,88 687
2001 11,93 841,86
2002 12,92 1.650
2003 19,14 1.767
2004 14,11 2.275

Nhìn chung qua các năm, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ đang ngày càng
tăng
Thứ hai, vấn đề giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng được địa phương đầu tư
đúng mức. Như chúng ta đã biết để thu hút đầu tư cũng như để phát triển công
nghiệp thì phát triển giao thông vận tải và cơ sỏ hạ tầng là một vấn đề vô cùng cấp
thiết, nhận thức rõ được vấn đề này, Vĩnh Phúc xác định giao thông vận tải và cơ
sở hạ tầng là một khâu đột phá, là một tiền đề quan trọng để tạo điều kiện hỗ trợ
các ngành phát triển. Trong thời gian qua, ngành giao thông vận tải Vĩnh Phúc đã
có những bước tiến đáng kể: Các tuyến đường liên tỉnh đi qua Vĩnh Phúc được
nâng cấp, các tuyến đường liên huyện, xã được mở rộng. Đặc biệt hệ thống giao
thông đường bộ, đường đô thị ở thị xã Vĩnh Yên đã được quy hoạch thống nhất
phối hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội làm cho bộ mặt của Vĩnh Yên ngày càng
khang trang hơn.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, mục tiêu của tỉnh là
tiếp tục mở rộng, phát triển các đường giao thông liên tỉnh, nhựa hoá nâng cấp các
tuyến đường liên huyện, phát huy tối đa lợi thế của một tỉnh nằm liền kề thủ đô Hà
Nội. Mục tiêu tổng quát của ngành là đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, nhu cầu
về vận tải hàng hoá, vận tải hành khách một cách tiện lợi và an toàn.
Không chỉ dừng lại ở những lĩnh vực trên, Vĩnh Phúc đã chú trọng phát triển
kinh tế trang trại, phát triển nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đảm bảo tự
cân đối lương thực, xây dựng các vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến
nông lâm sản và tiến tới xuất khẩu. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do thời tiết, dịch
bệnh, giá vật tư tặng, nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2004 vẫn tăng
4,79%. Phát triển dịch vụ mạnh mẽ với nhiều hình thức: dịch vụ vận tải phục vụ
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống của
nhân dân. Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngành du lịch đang được Vĩnh Phúc
rất chú trọng, bước đầu với ba khu du lịch là Tam Đảo, Tây Thiên và Hồ Đại Lải.
Bên cạnh đó, công tác văn hoá, xã hội, có nhiều tiến bộ: Giáo dục - đào tạo tiếp tục
phát triển cả về quy mô và chất lượng; công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức
khoẻ cho nhân dân có những chuyển biến tích cực; các hoạt động như đền ơn đáp

nghĩa, thực hiện chính sách xã hội, chăm sóc người có công, công tác đào tạo nghề,
giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo được quan tâm; thể thao được đầu tư đúng
mức; an ninh quốc phòng ổn định, tạo điều kiện để Vĩnh Phúc hoàn thành tốt các
nhiệm vụ như Đại hội lần thứ XIII của Đảng Bộ tỉnh Vĩnh Phúc đề ra.
Đảng và Nhà nước ta xác định mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Để góp phần đạt được mục tiêu đó, Đảng bộ và nhân
dân Vĩnh Phúc đang nỗ lực để phát huy thế mạnh về tiềm năng và lợi thế sẵn có
của mình để đóng góp một phần công sức của mình cho mục tiêu chung của cả
nước. Do vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và kế hoạch 5 năm
2001-2005 của tỉnh đã đề ra mục tiêu là tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã
hội, phấn đấu trong thời kỳ 2001-2005 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng
năm là 11-12%; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ, phấn
đấu đến năm 2005, tỷ trọng công nghiệp-xây dựng chiếm 46,32% (năm 2002 tỷ lệ
này mới chỉ có 42,60%), tỷ trọng ngành dịch vụ là 31,02% (năm 2002 là 28,80%),
ngành nông nghiệp chỉ còn có 22,66% (trong khi năm 2002 là 28,60%). Để thực
hiện được mục tiêu này, Vĩnh Phúc sẽ tiếp tục xây dựng các khu đô thị, khu công
nghiệp tập trung, khu du lịch, dịch vụ đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh.
2.1.2. Tổ chức bộ máy quản lý thuế của Cục thuế tỉnh Vĩnh phúc
Theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, và cơ cấu tổ chức của Cục Thuế thuộc Tổng Cục Thuế, Cơ cấu tổ chức
của Cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm:
1. Phòng Tổng hợp dự toán
Chức năng: Giúp Cục Trưởng Cục Thuế tổng hợp, xây dựng, phân bổ, tổ chức,
chỉ đạo thực hiện dự toán thu thuế, phí, lệ phí và thu khác do Cục Thuế quản lý,
triển khai, hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ quản lý thu thuế của Cục Thuế.
2. Phòng Tuyên truyền và Hỗ trợ tổ chức và cá nhân nộp Thuế
Chức năng: Giúp Cục Trưởng Cục Thuế Tuyên truyền,Giáo dục pháp luật về
thuế, thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho tổ chức và cá nhân nộp thuế trong việc
thực hiện pháp luật Thuế.
3. Phòng Tin học và Xử lý dữ liệu về Thuế

Chức năng: Giúp Cục Trưởng Cục Thuế ứng dụng, quản lý, phát triển công tác
tin học của Cục Thuế trong việc xử lý, lưu trữ dữ liệu và thống kê Thuế.
4. 2 Phòng Quản lý doanh nghiệp
Chức năng: Giúp Cục Trưởng Cục Thuế quản lý đôn đốc việc kê khai nộp thuế
đối với các doanh nghiệp thuộc phân cấp quản lý của Cục Thuế; quản lý thu nợ
đọng Thuế; Thuế Thu Nhập Cá Nhân của mọi đối tượng
5. Phòng Thanh tra
Chức năng: Giúp Cục Trưởng Cục Thuế thực hiện và hưóng dẫn chỉ đạo các Chi
Cục Thuế thực hiên công tác thanh tra các tổ chức cá nhân nộp thuế và thanh tra
nội bộ nghành thuế trong việc chấp hành pháp luật thuế và các quy định của ngành;
công tác cưỡng chế về thuế, giải quyết khiếu nại tố cáovề thuế.
6. Phòng Quản lý ấn chỉ
Chức năng: giúp Cục Trưởng Cục Thuế quản lý hướng dẫn nghiệp vụ về ấn chỉ
thuế.
7. Phòng Tổ chức cán bộ
Chức năng: Giúp cục Trưởng Cục Thuế về công tác tổ chức, quản lý cán bộ, đào
tạo, biên chế, tiền lương và công tác thi đua khen thưởng của Cục Thuế.
8. Phòng Hành chính-Quản trị-Tài vụ
Chức năng:Giúp Cục Trưởng Cục Thuế đảm bảo hậu cần cho hoạt động của Cục
Thuế, tổ chức công tác văn thư lưu trữ của cục thuế.
2.1.3. Công tác quản lý thuế ở địa bàn tỉnh vĩnh phúc trong thời gian qua
Từ ngày tái thành lập tỉnh đến nay, tỉnh Vĩnh phúc cũng như ngành thuế
Vĩnh phúc còn non trẻ so với các tỉnh bạn . Song không vì thế mà ngành thuế vĩnh
phúc không hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch cấp trên giao. Được cấp trên sát xao chỉ
đạo ngành thuế Vĩnh phúc đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch thu của Bộ Tài chính,
Tổng cục thuế, HĐND tỉnh giao. Công tác quản lý thuế luôn được nâng cao bằng
các hoạt động đa dạng, nhiều hình thức tổ chức từ đó khiến công tác quản lý luông
hoàn thành suất sắc. Điều này nói lên vì sao là một tỉnh mới tái lập với số thu
NSNN chỉ có 114 tỷđ, trong đó chỉ có 12,9% là số thu của các ngành công nghiệp,
còn lại 87,1% là số thu của ngành nông nghiệp. Đến nay sau 8 năm, số thu vào

NSNN năm 2004 đã đạt con số 2275 tỷđ, trong đó số động viên của ngành thuế là
1.333,6 tỷ đ.
Cùng với những con số thu hàng năm tăng cao là sự cố gắng của toàn ngành
trong công tác quản lý thuế từ khâu thực hiện nghiêm chỉnh quy trình thuế tới các
biện pháp mang tính thời cuộc trong quá trình lao động công tác của các cán bộ
ngành thuế vĩnh phúc. Có thể nói năm 2004 là năm đánh dấu một mốc son trong
công tác quản lý thuế của toàn ngành thuế tỉnh vĩnh phúc, là năm ngành thuế tỉnh
Vĩnh phúc ra nhập câu lạc bộ nghìn tỷ;Là năm bản lề hoàn thành kế hoạch 5 năm
(2000-2005) ngành thuế Vĩnh phúc đã góp sức riêng cho công cuộc chung của đất
nước
2.2. Thực trạng công tác quản lý thuế TNDN đối với các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc trong thời gian miễn giảm thuế
2.2.1. Đặc điểm các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc
Trong thời gian qua, do chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư tốt, số
lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc
không ngừng tăng lên, đến đầu năm 2005 đã có hơn 65 dự án đầu tư. Các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc hầu hết đang trong
thời gian xây dựng cơ bản hoặc mới đưa vào sản xuất nên mang theo mình là các
công nghệ sản xuất, máy móc, trang thiết bị hiện đại, công nghệ quản lý tiên tiến
với khả năng bám sát thị trường và khả năng marketing tiên tiến nhất. Đây là tiềm
năng lớn đảm bảo khả năng về lao động, công ăn việc làm cho người lao động
cũng như tạo ra khả năng thu lớn cho NSNN thông qua thuế và các khoản phhả
nộp NSNN mà các doanh nghiêp này đóng góp. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc chủ yếu là các doanh nghiệp liên doanh
góp vốn giữa việt nam và các nhà đầu tư nước ngoài. Song tỷ lệ góp vốn của Việt
Nam là chiếm phần nhỏ; tỷ lệ góp vốn của một số doanh nghiệp giữa Việt nam và
nhà đầu tư nước ngoài thể hiện qua bảng sau:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tỷ lệ góp vốn VN/NN
Công ty TOYOTA-Việt nam 20/80
Công ty HONDA-Việt nam 30/70

Công ty Cao su INUOE-Việt nam 30/70
Công ty TAKANICHI 30/70
Công ty Thành Đô-HEISEI 50/50
Do tỷ lệ góp vốn của Việt nam chiến phần nhỏ trong tổng số vốn pháp định
thành lập công ty nên nhà đầu tư nước ngoài có khả năng không chế hoạt động của
công ty về sản xuất và chiến lược kinh doanh là rất lớn. Bên cạnh đó cũng có một
số công ty có 100% vốn pháp định là của chủ đầu tư- doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, như công ty TRANSFIELD, công ty JAPFA-COMFE, công ty
NISSIN- Việt nam các công ty này hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành
và quản lý cả trng sản xuất kinh doanh và chiến lược phát triển.
Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc được các nhà đầu tư đầu tư
bao gồm hàu hết các ngành nghề, các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân từ sản
xuất Ôtô, Xe máy cho đến chế biến nông sản xuất khẩu, hay sản xuất bao bì sản
phẩm; trong đó có nhiều dự án được khuyến khích, ưu đãi, đầu tư vào các chương
trình kinh tế lớn, dự án sử dụng nhiều lao động, dự án sử dụng công nghệ cao,…
Tuy vậy, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh
phúc hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ của các nhà đầu tư Trung Quốc,
Đài Loan,… phần lớn tập trung vào sản xuất gia công hàng xuất khẩu như sản xuất
hàng may mặc, sản xuất bao bì,…và hầu hết vẫn đang trong giai đoạn đầu tư xây
dựng cơ bản nên chưa có số thu, hoặc đã đi vào sản xuất nhưng vẫn trong thời gian
được miễn giảm thuế TNDN, nên số thu từ lĩnh vực này là ít, chủ yếu tập trung vào
các loại thuế khác như thuế GTGT- năm 2004thu được của lĩnh vực ĐTNN là
271.930.291.706đ, thuế TNCN- năm 2004 thu được từ lĩnh vực ĐTNN là

×