Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.89 KB, 70 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ THANH TÂM

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA NGƯỜI CHA
TRONG THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ
ĐẺ THƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2020

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH - NĂM 2020


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ THANH TÂM

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA NGƯỜI CHA
TRONG THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ
ĐẺ THƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2020

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Điều dưỡng Sản phụ khoa

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ MINH CHÍNH

NAM ĐỊNH - NĂM 2020
BỘ Y TẾ



i
LỜI CẢM ƠN

Sau 2 năm học tập, giờ đây khi cuốn chuyên đề tốt nghiệp Chuyên khoa I Điều
dưỡng Chuyên ngành Sản Phụ khoa được hồn thành, tận đáy lịng mình, tơi xin
bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trường Đại học Điều dưỡng Nam
Định đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành chương trình học
tập và hỗ trợ tơi trong quá trình thực hiện chuyên đề tốt nghiệp.
Với tất cả tình cảm chân thành nhất, tơi xin đặc biệt bày tỏ lịng cảm ơn tới
TS. Nguyễn Thị Minh Chính – người đã giúp đỡ tôi từ khi xác định chuyên đề,
chia sẻ thơng tin và hồn thành chun đề này. Kiến thức, học thuật, sự tận tình
trong giảng dạy của cơ đã giúp tơi có được những kiến thức, kinh nghiệm quý báu
trong nghiên cứu khoa học.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám đốc bệnh viện Phụ sản
Trung ương, khoa Sản Thường - nơi tôi tiến hành thực hiện chuyên đề, đã tạo điều
kiện giúp đỡ, góp ý, hướng dẫn và tham gia vào chuyên đề này.
Xin cảm ơn các bậc sinh thành, người chồng, hai con trai và những người
thân trong gia đình tơi đã chịu nhiều hy sinh, vất vả, luôn động viên tơi trong suốt
q trình học tập và phấn đấu.
Xin cảm ơn tất cả các bạn đồng môn trong lớp Chuyên khoa I Điều dưỡng
Chuyên ngành Sản Phụ khoa khóa 7 đã cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm và giúp đỡ
tôi trong hai năm học qua.
Cuối cùng, với những kết quả trong chuyên đề này, tôi xin chia sẻ với tất cả
các bạn đồng nghiệp, đặc biệt là những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2020
Học viên

Nguyễn Thị Thanh Tâm

Nguyễn Thị Thanh Tâm


ii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là báo cáo chuyên đề của riêng tôi. Nội dung trong bài
báo cáo này hoàn toàn trung thực, khách quan và chưa được áp dụng. Báo cáo này
do bản thân tôi thực hiện dưới sự giúp đỡ của Giáo viên hướng dẫn. Nếu có điều gì
sai trái tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Người làm báo cáo

Nguyễn Thị Thanh Tâm


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ..........................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................ii
MỤC LỤC ...............................................................................................................i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................. iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ..................................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ.................................................................................. v
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..................................................... 3
1.1. Sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ.............................................................................. 3
1.1.1. Khái niệm về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ .............................................. 3
1.1.2. Cách ngậm bắt vú và tư thế bú đúng .............................................................. 4
1.1.3. Lợi ích của việc ni con bằng sữa mẹ........................................................... 4

1.1.4. Lợi ích của bú sớm sau sinh ........................................................................... 5
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành bú sớm và bú mẹ hồn tồn .......................... 6
1.3. Vai trị của người cha với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ..................................... 8
Chương 2. MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT........................................................ 11
2.1. Trên thế giới ............................................................................................................ 11
2.2. Ở Việt Nam ............................................................................................................. 11
2.3. Tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương ........................................................................ 13
2.4. Kết quả thu thập số liệu........................................................................................... 14
2.4.1. Thông tin chung ................................................................................................... 14
2.4.2. Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong
thực hành nuôi con bằng sữa mẹ.................................................................................... 18
2.4.2.1. Kiến thức của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ .................................... 18
2.4.2.2. Thái độ của người cha về hỗ trợ vợ NCBSM ............................................ 23
2.4.2.3. Tham gia hỗ trợ thực hành NCBSM .......................................................... 26
Chương 3. BÀN LUẬN ......................................................................................... 31
3.1. Kiến thức của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ .......................................... 31
3.2. Thái độ của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ ............................................. 33
3.3. Sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ ...................... 35


ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ......................................................................................... 37
1. Thuận lợi và khó khăn ....................................................................................... 37
2. Giải pháp giải quyết vấn đề ............................................................................... 39
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 42
1. Thực trạng kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con
bằng sữa mẹ ................................................................................................................... 42
2. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao kiến thức về NCBSM, thái độ và sự hỗ trợ của
người cha trong thực hành NCBSM .............................................................................. 42
KHUYẾN NGHỊ ................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Phụ lục 1. PHIẾU ĐỒNG Ý THAM GIA TRẢ LỜI NGHIÊN CỨU
Phụ lục 2. PHIẾU TÌM HIỂU ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ SỰ
THAM GIA CỦA NGƯỜI CHA TRONG THỰC HÀNH NCBSM
Phụ lục 3. CÁCH TÍNH ĐIỂM CHO KIẾN THỨC VỀ NCBSM


iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BSSS

Bú sớm sau sinh

CSCKSS

Chăm sóc sức khỏe sinh sản

ĐTV

Điều tra viên



Gia đình

GSV

Giám sát viên

NVYT


Nhân viên y tế

NCBSM

Ni con bằng sữa mẹ

NCBSMHT

Ni con bằng sữa mẹ hồn toàn

PSTƯ

Phụ sản Trung ương

SIDS

Sudden Infant Death Syndrome
Hội chứng đột tử trẻ sơ sinh

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TT


Thông tin

UNICEF

United Nations International Children's Emergency Fund
Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc

WHO

World Health Organization
Tổ chức Y tế thế giới

XH

Xã hội


iv
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thông tin chung về người cha ............................................................... 15
Bảng 2.2. Thông tin chung về bà mẹ...................................................................... 16
Bảng 2.3. Thông tin chung về trẻ sơ sinh ............................................................... 17
Bảng 2.4. Đặc điểm của gia đình ĐTNC ................................................................ 17
Bảng 2.5. Kiến thức của cha về BSSS ................................................................... 18
Bảng 2.6. Một số kiến thức về NCBSM và thứ tự lần sinh của trẻ ......................... 21
Bảng 2.7. Về việc chăm sóc vợ tại bệnh viện ......................................................... 27


v

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Hiểu biết của người cha về lợi ích của BSSS đối với trẻ .................... 19
Biểu đồ 2.2. Hiểu biết của người cha về lợi ích của BSSS đối với mẹ.................... 20
Biểu đồ 2.3. Tổng điểm kiến thức về NCBSM của người cha ................................ 22
Biểu đồ 2.4. Phân loại điểm kiến thức về NCBSM của người cha.......................... 23
Biểu đồ 2.5. Phân bố thái độ của người cha đối với hỗ trợ vợ NCBSM.................. 23
Biểu đồ 2.6. Phân bố thái độ của người cha về BSSS............................................. 24
Biểu đồ 2.7. Phân bố thái độ của người cha về NCBSM hoàn toàn ........................ 25
Biểu đồ 2.8. Tổng điểm thái độ về NCBSM của người cha .................................... 26
Biểu đồ 2.9. Tổng điểm thái độ của người cha về vấn đề NCBSM......................... 26
Biểu đồ 2.10. Tổng điểm hỗ trợ của người cha trong thực hành NCBSM .............. 28
Biểu đồ 2.11. Lý do cản trở người cha chăm sóc vợ tại bệnh viện.......................... 28
Biểu đồ 2.12. Phân bố sự hỗ trợ của người cha trong thực hành NCBSMHT ......... 29
Biểu đồ 2.13. Sự tham gia hỗ trợ thực hành NCBSM ............................................ 30


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) đã được khẳng định là phương cách tốt nhất
đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nhiều bằng chứng hiện nay đã khẳng định thực tế
rằng cho con bú là một can thiệp chính cho trẻ sơ sinh và sức khỏe bà mẹ về sự
sống còn cả trong ngắn hạn và dài hạn. Phương thức này góp phần đáng kể làm
giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh. Trong khi đó, một thách thức lớn là tỷ lệ bú mẹ hoàn
toàn rất thấp. Theo báo cáo của Viện dinh dưỡng quốc gia năm 2005, chỉ có 32% trẻ
sơ sinh và 12% trẻ từ 4 - 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn [21]. Đã có nhiều
nghiên cứu cho thấy vai trị của ni con bằng sữa mẹ hồn tồn trong 6 tháng đầu
trong việc ngăn ngừa các bệnh tật và giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ nhỏ. Đặc biệt, cho con
bú sớm ngay trong giờ đầu tiên sau sinh là một can thiệp đơn giản, dễ thực hiện mà

lại rất hiệu quả trong giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh. Tuy nhiên tỉ lệ này ở Việt Nam
hiện nay là rất thấp. Một nghiên cứu tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội thì tỷ lệ bú sớm
sau sinh (BSSS) là 33,8% [7].
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã khẳng định việc cho con bú sớm và bú mẹ
hoàn toàn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: các rào cản về văn hóa, tơn giáo
[38]; áp lực của gia đình, quan điểm sai lầm của bà mẹ về thực hành dinh dưỡng
cho trẻ nhỏ [27]. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng người chồng có vai trị quan
trọng trong hỗ trợ NCBSM nói riêng, chăm sóc trẻ nhỏ nói chung. Hơn một nửa các
ông bố cho biết họ giúp vợ làm việc nhà, chăm sóc, cho con ăn uống, trơng con và
tắm cho con, đôi khi nấu ăn và giặt giũ. Thực hành NCBSM thành công phụ thuộc
đáng kể vào sự hỗ trợ về tâm lý của người chồng và tình cảm của anh ta đối với vợ
[42]. Đồng thời NCBSM cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi người chồng không đồng
tình với việc cho con bú [32]. Cũng đã có một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ
của người cha ở vùng nông thôn. Theo nghiên cứu tại CHILILAB giai đoạn 20102012 cho thấy tỷ lệ người cha biết đúng tên gọi của sữa non, sữa đầu là 37,8%, biết
đúng định nghĩa NCBSM hoàn toàn là 49,8%, biết tầm quan trọng của NCBSM đối
với trẻ là 50%, biết đúng thời gian NCBSM hoàn toàn là 6 tháng 47,6% [3].
Mặc dù bệnh viện Phụ sản Trung ương (PSTƯ) luôn quan tâm, chú trọng triển
khai, phát triển các hoạt động của Bệnh viện Bạn hữu Trẻ em, tuy nhiên tỉ lệ cho


2
con bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh tại đây vẫn thấp với 31%, tỉ lệ không cho con
ăn hoặc uống thứ khác trước khi bú mẹ lần đầu là 76,9% [18]. Số liệu này chưa đáp
ứng được mục tiêu của lãnh đạo bệnh viện và Bộ Y tế đề ra, đó là tăng tỷ lệ cho con
bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh lên 90% và tỉ lệ cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ
trong 6 tháng đầu lên 50% [5]. Vậy lý do nào dẫn đến thực trạng trên? Ngoài các
can thiệp y tế ra, liệu vai trò của người cha, người sát cánh bên các bà mẹ, có liên
quan hay khơng tới thực hành cho con BSSS và NCBSM hoàn toàn tại bệnh viện?
Chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu về vai trị của người cha đối với thực hành
NCBSM tại một bệnh viện lớn, tuyến trung ương cũng như kiến thức, thái độ của họ

về vấn đề này. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành thực hiện chuyên đề:
“Kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng
sữa của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2020” với 2
mục tiêu:
1.

Mô tả kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ, thái độ và sự hỗ trợ của người cha

trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2020.
2.

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kiến thức về NCBSM, thái độ và

sự hỗ trợ của người cha trong thực hành NCBSM.


3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ
1.1.1. Khái niệm về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất, hoàn hảo nhất cho sức khỏe, sự tăng
trưởng, phát triển của trẻ. Sữa mẹ có đầy đủ tất cả các thành phần dinh dưỡng mà trẻ
cần, bao gồm chất béo, đạm, đường, vitamin, muối khoáng và nước. Các thành phần
dinh dưỡng trong sữa mẹ dễ tiêu hóa, hấp thu, có sẵn trong bầu vú mẹ, khơng mất
công chuẩn bị. Trong 6 tháng đầu đời, trẻ chỉ cần bú sữa mẹ là đáp ứng đủ nhu cầu
dinh dưỡng cho trẻ, không cần thêm bất cứ thức ăn, nước uống nào khác [43], [44].
Sữa non là sữa mẹ tiết ra trong vài ngày đầu sau đẻ. Sữa non màu vàng nhạt
hoặc đặc sánh. Sữa non có nhiều kháng thể, tế bào bạch cầu, bảo vệ cơ thể trẻ chống
nhiễm khuẩn và dị ứng; có tác dụng xổ nhẹ giúp cho việc tống phân su, trẻ đỡ vàng

da; có nhiều vitamin A giúp trẻ chống nhiễm khuẩn và bệnh khô mắt. Các yếu tố
phát triển trong sữa non giúp cho bộ máy tiêu hóa trưởng thành chống dị ứng và
khơng dung nạp thức ăn khác. Vì vậy cần cho trẻ bú sớm trong vịng 1 giờ đầu sau
đẻ, khơng cho trẻ ăn bất cứ thức ăn nào khác ngoài sữa mẹ [4].
Sữa trưởng thành: gồm sữa đầu và sữa cuối. Sữa đầu có mầu hơi xanh. Cho trẻ
bú sữa đầu sẽ nhận được một lượng lớn các chất dinh dưỡng và nước. Vì vậy khơng
cần cho trẻ uống thêm nước hoặc bất kỳ đồ uống nào khác trước khi trẻ được 6
tháng tuổi và ngay cả khi trời nóng. Sữa cuối được sản xuất ở cuối bữa có màu trắng
hơn vì có nhiều chất béo. Cần cho trẻ bú kiệt một bên vú rồi mới chuyển sang vú
khác để trẻ nhận được sữa cuối nhiều năng lượng [4].
Theo Tổ chức Y tế thế giới và Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF, nuôi
con bằng sữa mẹ là cách nuôi dưỡng trẻ trong đó trẻ bú trực tiếp sữa mẹ hoặc được
nuôi bằng sữa mẹ vắt ra. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn là chỉ cho con bú mẹ mà
không thêm bất kỳ loại thức ăn nước uống nào, ngoại trừ các loại thuốc, vitamin,
khoáng chất. Tỷ lệ trẻ được bú sớm sau sinh được tính bằng tỷ số giữa tổng số trẻ
dưới 24 tháng tuổi được bú mẹ trong vòng 1 giờ sau sinh trên tổng số trẻ dưới 24
tháng tuổi. Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hồn tồn được tính bằng tỷ số
giữa số trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn trong 24 giờ trên tổng số trẻ
dưới 6 tháng [46]. Đồng thời, WHO và Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ


4
chăm sóc sức khỏe sinh sản đã khẳng định cho trẻ bú sớm sau sinh là việc trẻ được
bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh [4].
1.1.2. Cách ngậm bắt vú và tư thế bú đúng
Việc cho con bú mẹ có đảm bảo hiệu quả hay khơng phụ thuộc phần lớn vào
việc thực hành đúng tư thế cho trẻ bú và cách cho trẻ ngậm bắt vú đúng. Tư thế cho
con bú đúng là đầu và thân trẻ ở trên một đường thẳng, mặt trẻ đối diện với vú và
môi trẻ đối diện với núm vú, thân trẻ sát với mẹ, đồng thời mẹ phải đỡ phía dưới
mơng trẻ.

Bên cạnh đó, trẻ ngậm bắt vú đúng phải đảm bảo cằm trẻ chạm vào vú mẹ
miệng trẻ mở rộng, quầng vú ở phía trên miệng trẻ rộng hơn ở phía dưới, trẻ đưa
lưỡi tới phía dưới xoang sữa (quầng thâm của vú) để ép sữa ra, má của trẻ căng
phồng [4].
1.1.3. Lợi ích của việc ni con bằng sữa mẹ
NCBSM là phương pháp nuôi dưỡng tự nhiên gắn liền với sự ra đời và phát
triển của con người. Lợi ích của NCBSM khơng những quan trọng đối với con mà
cịn rất tốt cho sức khỏe của mẹ.
Đối với con, sữa mẹ vô khuẩn, trẻ bú trực tiếp sữa mẹ, giúp trẻ chống lại các
bệnh nhiễm khuẩn nhờ các yếu tố kháng khuẩn. Một số kháng thể truyền từ người
mẹ qua rau đến bào thai đã giúp cho trẻ mới đẻ có sức đề kháng và miễn dịch một
số bệnh đặc biệt trong 4 - 6 tháng đầu như sởi, cúm, ho gà, vi khuẩn khơng có điều
kiện phát triển nên trẻ ít bị tiêu chảy. Trong sữa mẹ chứa nhiều thành phần kháng
khuẩn như Globulin miễn dịch IgA, lactoferin, lysozym, lympho bào và một số
thành phần khác. IgA có nhiều trong sữa non và giảm dần trong những tuần sau.
IgA không được hấp thu mà hoạt động ngay tại ruột để chống lại một số vi khuẩn
như E.coli và virus. Lactoferin là một protein có gắn sắt có tác dụng kìm khuẩn
khơng cho vi khuẩn cần sắt phát triển. Bên cạnh đó Lysozym là một enzym có tác
dụng diệt khuẩn. Lympho bào sản xuất IgA tiết và interferon, có tác dụng ức chế
hoạt động của một số virus. Đại thực bào có tính chất thực bào và bài tiết lysozym
và lactoferin. Đại thực bào có thể thực bào Candida và vi khuẩn đặc biệt là những vi
khuẩn Gram âm, nguyên nhân gây viêm ruột hoại tử ở trẻ sơ sinh. Yếu tố kích thích
sự phát triển của vi khuẩn Lactobacillus bifidus. Một số lactose vào ruột chuyển
thành acid lactic, tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển, lấn át vi khuẩn


5
gây bệnh như E.coli. Yếu tố Bifidus là một carbonhydrat có chứa nitrogen cần cho
vi khuẩn Lactose bifidus, ngăn cản vi khuẩn gây bệnh phát triển. Cho trẻ bú sữa mẹ
cũng đồng thời giúp trẻ phát triển thông minh hơn [4].

Đối với mẹ, hành động cho trẻ bú mẹ gắn bó tình cảm mẹ con, giúp cho bà mẹ
và trẻ hình thành mối quan hệ gần gũi yêu thương, trẻ ít quấy khóc.
Cho con bú giúp bà mẹ tránh thai vì động tác bú mẹ của trẻ làm kích thích
tuyến yên tiết ra prolactin, chất này có tác dụng ức chế rụng trứng, làm giảm khả
năng mang thai. Đối với phụ nữ ngay sau sinh, động tác bú mẹ là co hồi tử cung và
cầm máu cho người mẹ. Hơn nữa cho con bú thường xuyên giúp người mẹ nhanh
chóng lấy lại vóc dáng và làm giảm tỉ lệ ung thư vú. Đặc biệt, nuôi con bằng sữa mẹ
kinh tế và thuận tiện hơn nuôi sữa công thức nên là giải pháp hàng đầu trong các
phương cách nuôi con đã được cơng nhận trên tồn thế giới [4].
Cho con bú sữa mẹ khơng những kinh tế mà cịn thuận lợi. Thuận lợi bởi cho
con ăn không kể giờ giấc, không cần đun nấu hay dụng cụ pha chế. Trẻ bú mẹ hơn
nữa cịn kinh tế bởi khơng mất tiền mua. Chỉ cần người mẹ ăn uống đầy đủ, tinh
thần thoải mái thì sẽ đủ sữa cho con bú [4].
1.1.4. Lợi ích của bú sớm sau sinh
Việc bú sớm sau sinh khơng những mang lại lợi ích cho con mà cịn mang lại
lợi ích khơng nhỏ cho những bà mẹ. Đối với trẻ, cho con bú mẹ sớm ngay sau sinh
có thể giảm nguy cơ đột tử sơ sinh. Một nghiên cứu lớn của Đức năm 2009 đã cho
thấy việc cho con bú hoàn toàn dẫn đến nguy cơ thấp hơn của hội chứng đột tử trẻ
sơ sinh (SIDS). Các nhà nghiên cứu kết luận trẻ 1 tháng tuổi bú mẹ hồn tồn có
nguy cơ SIDS giảm đi một nửa. Khơng những vậy, sữa non là liều vác xin đầu tiên
giúp trẻ phịng bệnh [45]. Lượng sữa non dù khơng nhiều nhưng đủ về số lượng và
chất lượng, phù hợp với bộ máy tiêu hóa của trẻ ngay khi mới sinh. Sữa non có tác
dụng sổ nhẹ, giúp tống phân su nhanh, giúp đào thải bilirubin nhanh. Vì vậy thời
gian vàng da ở trẻ cũng ngắn hơn và trẻ cũng ít khi bị vàng da hơn. Sữa non cịn có
nhiều yếu tố phát triển giúp bộ máy tiêu hóa non nớt của trẻ nhanh chóng trưởng
thành. Lượng vitamin A trong sữa non rất nhiều giúp làm giảm nhẹ bệnh khi trẻ
mắc bệnh.
Đối với người mẹ, BSSS cũng mang lại những lợi ích khơng nhỏ như tăng
cường tình cảm mẹ con, tăng tiết oxytocin làm co hồi tử cung, tránh được băng



6
huyết sau sinh, cho con bú giúp bà mẹ giảm nguy cơ mắc một số bệnh ung thư như
ung thư vú, ung thư buồng trứng [4].
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành bú sớm và bú mẹ hoàn tồn
Trong khn khổ của chun đề này chúng tơi tập trung vào tìm hiểu thực vai
trị của người cha trong thực hành này. Vai trò của người cha được phân tích thơng
qua ba yếu tố. Yếu tố thứ nhất là kiến thức của người cha về NCBSM, gồm kiến
thức về BSSS và kiến thức về NCBSM hoàn toàn. Kiến thức này lại chịu ảnh hưởng
của yếu tố cá nhân của cha (tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, kinh
nghiệm chăm sóc trẻ nhỏ), và sự tiếp cận thơng tin y tế của người cha (từ nhân viên
y tế, lớp tiền sản, các phương tiện thông tin đại chúng). Yếu tố thứ hai là thái độ
của người cha với thực hành NCBSM, BSSS, thái độ về việc hỗ trợ vợ NCBSM.
Yếu tố thứ 3 là sự hỗ trợ của người cha trong thực hành NCBSM.


7
Yếu tố từ con:
Cách đẻ (đẻ thường, mổ đẻ)
Trọng lượng sinh, giới tính
Là con thứ mấy
Yếu tố từ mẹ:
Đặc điểm cá nhân (tuổi, trình độ
học vấn, nghề nghiệp, nơi ở)
Điều kiện kinh tế gia đình
Khó khăn khi cho con BSSS

Thực hành NCBSM:
BSSS,


NCBSM

hồn

Yếu tố mơi trường:
Nội quy của bệnh viện
Mơ hình gia đình
Những người chăm sóc
Thời gian về với mẹ
Tiếp thị sữa thay thế

toàn tại thời điểm ra viẹn

Thái độ của cha về:
BSSS, NCBSM hoàn toàn, hỗ trợ
vợ NCBSM

Cha hỗ trợ mẹ NCBSM

Kiến thức của cha về NCBSM:
Kiến thức về BSSS
Kiến thức về NCBSM hoàn toàn
Yếu tố liên quan đến việc đã có con

Yếu tố cá nhân của cha: Tuổi, trình độ
học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, kinh
nghiệm chăm sóc trẻ nhỏ.

Tiếp cận thông tin y tế của cha:
Từ nhân viên y tế, lớp tiền sản.

Từ TT đại chúng, loa, đài, tivi,
internet.


8
1.3. Vai trị của người cha với thực hành ni con bằng sữa mẹ
Trong những năm qua, vai trò của người cha đối với việc NCBSM là đề tài
được nhiều tác giả tập trung nghiên cứu. Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, Freed,
G. L cùng với J. K. Fraley và cộng sự tại Hoa Kỳ đã nghiên cứu về thái độ của
những người nam giới sắp có con (những ông bố tương lai) đối với việc NCBSM.
Kết quả cho thấy người cha thường tham gia vào việc lựa chọn phương pháp nuôi
dưỡng trẻ sơ sinh. Tuy nhiên họ thường khơng được đưa vào trong các chương trình
giáo dục truyền thông về NCBSM. Qua khảo sát 268 người đàn ông trước khi được
tuyển chọn vào khóa học giáo dục về sinh con, 58% (n=156) cho biết vợ chồng họ
đã lên kế hoạch để NCBSM hoàn toàn; một số khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
người đàn ơng này và những người có kế hoạch cho con bú ngồi hồn tồn. Nhóm
dự định cho con bú mẹ có xu hướng tin rằng bú sữa mẹ là tốt hơn cho trẻ (96% và
62%, P < 0,0001), giúp tăng cường gắn bó mẹ con (92% và 53%, P < 0,0001), và
bảo vệ trẻ sơ sinh (79% và 47%, P < 0,001). Nhóm cho con bú mẹ cũng có nhiều
khả năng muốn vợ/bạn gái của họ NCBSM (90% và 13%, P < 0,0001) và có sự tơn
trọng người phụ nữ cho con bú (57% và 16%, P < 0,001). Ngược lại, những người
trong nhóm muốn cho con ăn sữa ngồi có nhiều khả năng suy nghĩ cho con bú
không tốt cho ngực (52% và 22%, P < 0,01), làm cho ngực xấu đi (445 và 23%, P <
0,0001). Đa số của cả hai nhóm khơng chấp nhận việc cho con bú ở nơi cơng cộng
(nhóm cho con bú mẹ 1%, cho bú sữa ngoài 78%, P < 0,05) [28].
Năm 2003, một nghiên cứu tại Thụy Điển đã tiến hành một nghiên cứu về sự
tham gia của người cha với sự thực hành NCBSM của bà mẹ đã chỉ ra rằng, những
đứa trẻ có cha với trình độ học vấn thấp, đã được nhận trợ cấp thất nghiệp hay có
thu nhập thấp ít được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ cho đến 12 tháng tuổi. Ngồi ra,
những người cha khơng được nghỉ phép khi đứa bé ra đời thì những đứa trẻ đó cũng

ít được nuôi bằng sữa mẹ hơn khi được 2, 4, 6 tháng tuổi [30]. Một nghiên cứu tại
Tây Úc năm 2013 cũng khẳng định giáo dục và hỗ trợ về cho con bú cho cha cải
thiện tỉ lệ cho con bú [32].
Cho đến năm 2005, Calen I. và cộng sự đã chỉ ra rằng có mối liên quan giữa
thực hành nuôi con bằng sữa mẹ với đặc điểm cá nhân của người cha cũng như nghề
nghiệp, trình độ học vấn, thu nhập hay sự tham gia hỗ trợ của người cha với vấn đề


9
này. Việc bà mẹ không cho trẻ bú sữa sớm là do bà mẹ tiết ít sữa hoặc có cảm giác
đau và khó chịu hay thiếu sự hỗ trợ của các thành viên trong gia đình sau sinh [22].
Tại Việt Nam, mặc dù các đề tài nghiên cứu về vai trò của người cha với vấn
đề NCBSM bắt đầu tiến hành muộn hơn so với thế giới nhưng đã có khơng ít đề tài
quan tâm chun sâu vào vấn đề này. Một nghiên cứu năm 2006 tại Chí Linh cũng
chỉ ra mối liên quan giữa người cha, người chồng trong gia đình với thực trạng
chăm sóc và ni dưỡng trẻ nhỏ. Cụ thể là sự tham gia trong chăm sóc sức khỏe của
con giúp làm giảm tỷ lệ thấp còi, suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ [2]. Mặt khác, mối liên
quan giữa vai trị của người cha trong gia đình với việc thực hành NCBSM của
người mẹ cũng đã được các nghiên cứu trước đây đề cập đến, trong đó sự tham gia
của người cha trong việc hỗ trợ bà mẹ NCBSM có vai trị quan trọng trong việc gia
tăng tỷ lệ bà mẹ NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu [1], [6]. Bên cạnh đó, việc
thực hành NCBSM cũng có mối liên quan với các yếu tố cá nhân và vai trị của
người cha trong gia đình như kiến thức, thái độ chưa tốt đối với việc NCBSM [23].
Một số nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng, sự tham gia hỗ trợ trong q trình
NCBSM của người cha cịn hạn chế [24], [25], [31]. Việc hỗ trợ vợ cho con bú sớm
và NCBSM hồn tồn cịn khá hạn chế khi vẫn có trên 90% người chồng khơng
nhắc vợ cho con bú sớm ngay sau sinh tại cơ sở y tế; 53,7% họ có nhờ người nhà
mua thêm sữa non hộp và 68,5% tự tay mua sữa non hộp để cho con bú bình khi trẻ
vừa sinh. Truyền thơng đại chúng (ti vi, đài, báo) và cán bộ y tế là hai kênh mà đối
tượng nghiên cứu hay tiếp xúc khi tìm hiểu thơng tin về NCBSM và các sản phẩm

sữa thay thế. Nghiên cứu này cũng chỉ ra những người chồng không được tiếp cận
với nguồn thông tin về NCBSM có khả năng khơng nhắc vợ cho con bú thường
xuyên và bàn bạc với vợ về cách nuôi dưỡng con cao hơn nhóm đã tiếp cận. Những
người chồng có kiến thức chưa đạt về bú sớm thì có khả năng không nhắc vợ cho
con BSSS cao gấp 2,2 lần nhóm có kiến thức đạt. Tương tự như vậy những người
chồng có thái độ chưa tích cực thì có khả năng không nhắc vợ cho con bú ngay sau
sinh và không động viên người nhà giúp vợ cho con bú cao hơn nhóm có thái độ
tích cực [14].
Hơn nữa kiến thức đúng của người cha về NCBSM ở nhóm người cha có vợ
cho con bú và nhóm người cha có vợ không cho con bú với tỷ lệ tương ứng là 70%


10
và 40% [26]. Điều này chứng tỏ kiến thức của người cha có vai trị quan trọng trong
thực hành NCBSM của bà mẹ.
Nghiên cứu của Vũ Thị Hà năm 2014 kết luận tỷ lệ người cha biết về thời gian
cho trẻ BSSS là 44,1%, có 40% người cha chưa biết về thời gian nên NCBSM hoàn
toàn trong 6 tháng đầu, 37,1% người cha chưa có kiến thức đúng về khái niệm
NCBSM hồn tồn. Cũng theo nghiên cứu này thì sự tham gia của người cha trong
việc hỗ trợ bà mẹ tiếp tục NCBSM cịn hạn chế, trong đó 56% người cha có thực
hành chưa tốt về khuyến khích bà mẹ tiếp tục NCBSM và có tới 67,3% người cha
có thực hành chưa tốt về hỗ trợ trong khi bà mẹ NCBSM [10].
Bệnh viện PSTƯ đã có rất nhiều chương trình triển khai nhằm thực hiện sáng
kiến Bệnh viện Bạn hữu trẻ em với nhiều hình thức đa dạng, trong đó có việc tổ
chức các lớp học tiền sản dành cho các ông bố, bà mẹ tương lai, người thân của thai
phụ nhằm cung cấp cho họ những kiến thức cơ bản về NCBSM. Tuy nhiên kiến
thức, thái độ và vai trò của người cha trong thực hành NCBSM của các bà mẹ tại
bệnh viện chưa được nghiên cứu. Hy vọng kết quả của nghiên cứu sẽ giúp làm sáng
tỏ vấn đề này. Hơn nữa sẽ cung cấp cho lãnh đạo bệnh viện bằng chứng về sự cần
thiết điều chỉnh, đề xuất nội dung, hình thức hợp lý và hiệu quả nhất nhằm cung cấp

thông tin, hỗ trợ cho người cha với vai trò của họ trong thực hành NCBSM. Thực
hiện tốt vai trò hỗ trợ của họ tại bệnh viện là tiền đề giúp vợ có sữa, thực hành
NCBSM tốt tại bệnh viện là khởi đầu cho giai đoạn NCBSM lâu dài về sau.
.


11
Chương 2
MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
2.1. Trên thế giới
Số liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm 69% số trẻ sinh ra trên thế giới đã
cho thấy một sự thay đổi về tình trạng dinh dưỡng. Từ năm 1996 đến năm 2006, tỷ
lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đã tăng lên từ 33% đến 37%. Tăng
đáng kể nhất phải kể đến vùng cận sa mạc Saharan - châu Phi, với tỷ lệ tăng từ 22%
lên 30% và châu Âu với tỷ lệ tăng từ 10% lên 19%. Ở châu Mỹ Latinh và Caribean
ngoại trừ Mexico và Brazil, tỷ lệ trẻ sơ sinh được bú mẹ hoàn toàn tăng từ 30% đến
45% [43], [45], [46].
Cịn theo báo cáo tình hình trẻ em thế giới năm 2009 của UNICEF cho thấy,
chỉ có 38% trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn; 55% trẻ từ 6 - 9 tháng tuổi
và 50% trẻ từ 20 - 23 tháng tuổi được tiếp tục cho bú sữa mẹ. Trong đó, tỷ lệ trẻ
dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn ở các nước đang phát triển là 39% và
tỷ lệ này ở nhóm các nước kém phát triển là 37%. Tương tự, tỷ lệ trẻ được tiếp tục
bú sữa mẹ cho đến 24 tháng tuổi ở các nước đang phát triển là 51% và tỷ lệ này
trong nhóm các nước kém phát triển là 64% [41].
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã thừa nhận vai trị quan trọng của việc ni
con bằng sữa mẹ và cho con bú sớm sau sinh. Tuy nhiên tỉ lệ cho con bú sớm sau
sinh ở một số nơi trên thế giới cịn rất thấp: ở các nước Đơng Âu và Trung Á là
17%, ở các nước Châu Á Thái Bình Dương là 33% và cao nhất là ở khu vực Mỹ La
tinh, Caribe, Bắc và Đông Phi với 50% [29].
Theo cuộc khảo sát sức khỏe gia đình quốc gia của Ấn Độ, tỷ lệ trẻ em bú sữa

mẹ trong vịng 1 giờ sau sinh ở nơng thơn Ấn Độ là 21,5% và ở nông thôn Tây
Bengal là 24,5% ; trong khi đó trong nghiên cứu tại Singur, Hooghly (Tây Bengal)
năm 2009 là 34,2%. Tương tự như vậy, một tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi từ 0 - 5 tháng
tuổi được bú sữa mẹ là hơn 48,3% tại nông thôn Ấn Độ và 57,1% tại nông thôn Tây
Bengal [31].
2.2. Ở Việt Nam
Số liệu từ các điều tra tại Việt Nam trong giai đoạn gần đây cho thấy tỷ lệ cho
con bú sớm khá cao nhưng tỷ lệ NCBSM hoàn tồn trong 6 tháng đầu là khá thấp và
khơng tăng lên [20]. Một nghiên cứu về thực hành của các bà mẹ người dân tộc


12
Mường huyện Lương Sơn cho thấy 21,6 % cho con bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng
đầu; 66,2% bà mẹ cho con bú trong nửa giờ đầu sau đẻ, một trong những yếu tố liên
quan đến tình trạng khơng được bú mẹ hoàn toàn của trẻ trong 4 tháng đầu là tác
động của gia đình (P < 0,05) [8].
Kết quả điều tra của Dự án A&T tại 4 tỉnh năm 2010 cho thấy, tỷ lệ trẻ được
BSSS là 58,5%; tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 18,4%; tỷ
lệ trẻ được bú sữa mẹ là chủ yếu trong 6 tháng đầu là 44,7% [39]. Kết quả điều tra
tại 11 tỉnh dự án năm 2011 cũng cho kết quả tương tự, tỷ lệ NCBSM hoàn toàn
trong 6 tháng đầu thấp (20,2%), tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ là chủ yếu trong 6 tháng đầu là
54,6%; tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ trong l vòng giờ đầu sau sinh là 50,5% [19].
Một nghiên cứu khác tiến hành tại khu vực nông thôn Việt Nam – Huyện
Quỳnh Bảng, tỉnh Nghệ An cho thấy nuôi con bằng sữa mẹ chiếm tỉ lệ cao, 70% các
bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh. Tuy nhiên, khơng có nhiều bà
mẹ ni con hồn tồn bằng sữa mẹ từ 4 đến 6 tháng đầu: 36% các bà mẹ cho con ăn
dặm trước khi con 4 tháng tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cho con ăn dặm
sớm là do bà mẹ phải quay lại với cơng việc đồng áng sớm, thậm chí chỉ sau vài ngày
sinh, họ hầu như không nhận được sự trợ giúp, chia sẻ của người chồng. Nam giới
cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của họ là công việc khai thác đá hoặc ni tơm, chính vì

vậy cơng việc đồng ruộng dường như được xem là cơng việc chính của phụ nữ, bất kể
họ mới sinh hay đang nuôi con nhỏ, trong thời kỳ cho con bú [12].
Nghiên cứu về thực hành của các bà mẹ về NCBSM, một số kết quả cho thấy
tỉ lệ này vẫn còn hạn chế. Tác giả Đinh Thị Phương Hòa nghiên cứu 540 bà mẹ tại 4
bệnh viện ở Hà Nội năm 2006 kết luận chỉ có 44,1% bà mẹ thực hành cho con bú
sữa non trong ngày đầu sau đẻ[17].
Theo nghiên cứu của Trần Thị Hải Dung tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm
2013 thì tỉ lệ bà mẹ thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh chỉ đạt 33,8%. Ngun nhân
chính khơng cho bú sớm là mẹ đau, mệt sau đẻ (81,3%). Toàn bộ sản phụ mổ đẻ (75
trong tổng số 290 bà mẹ nghiên cứu, chiếm 25,9%) không cho trẻ bú sớm [7]. Một
nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy tỉ lệ cho con bú sớm sau sinh
khá cao, cụ thể tỉ lệ cho trẻ bú ngay 30 phút đầu ngay sau sinh là 75,2% và tỉ lệ các
bà mẹ cho con bú hoàn toàn là 82%. Tuy nhiên chỉ có 16,9% trẻ được bú mẹ hồn
tồn trong vòng 6 tháng đầu, 38,7% các bà mẹ cho trẻ ăn thức ăn khác ngay trong


13
tuần đầu, 7% trẻ được cai sữa sớm trong vòng 12 tháng và có tới 21,9% trẻ được
ni sữa bình [21].
Một nghiên cứu của Nông Thị Thu Trang được tiến hành tại bệnh viện PSTƯ
năm 2009 cho thấy kiến thức của bà mẹ trong việc cho trẻ bú sớm là chưa cao. Kiến
thức của bà mẹ về sữa non và tác dụng của sữa non đối với trẻ sơ sinh tương đối tốt
nhưng chỉ gần một nửa bà mẹ có kiến thức đúng về thời gian cho con BSSS. Nghiên
cứu này cũng cho thấy tỷ lệ bà mẹ cho bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh thấp, chỉ
đạt 31%. Tỷ lệ bà mẹ có tư thế cho con bú đúng, con ngậm bắt núm bú đúng rất
thấp, tương ứng là 25,4% và 24,4%. Tuy nhiên tỉ lệ bà mẹ không cho con ăn hoặc
uống thứ khác trước khi bú mẹ lần đầu theo đúng khuyến nghị về NCBSM khá cao,
chiếm 76,9% [18].
2.3. Tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Trong kế hoạch hành động quốc gia vì sự sống cịn trẻ em giai đoạn 2009 –

2015, bệnh viện Phụ sản Trung ương cùng với bệnh viện Nhi Trung ương, chịu
trách nhiệm chỉ đạo tuyến, hỗ trợ xây dựng, phổ biến kế hoạch, theo dõi, giám sát
các hoạt động về chăm sóc, điều trị bà mẹ và trẻ em tồn quốc. Việc nâng cao tỉ lệ
cho trẻ bú sớm sau sinh, tạo tiền đề vững chắc cho giảm tỉ lệ tử vong sơ sinh cũng
một trong những mục tiêu của kế hoạch hành động này [5].
Bên cạnh đó, bệnh viện Phụ sản Trung ương là một trong những bệnh viện
tham gia chương trình “Bệnh viện bạn hữu trẻ em” của Việt Nam. Sáng kiến Bệnh
viện bạn hữu trẻ em (Baby friendly Hospital Initiative) là một chương trình tồn cầu
của WHO và UNICEF, ra mắt vào năm 1991. Sáng kiến này là một trong những nỗ
lực toàn cầu để nâng cao vai trị của dịch vụ thai sản đối với việc ni con bằng sữa
mẹ, đảm bảo cho một sự khởi đầu tốt của cuộc sống [40].
Bệnh viện Phụ sản Trung ương được công nhận danh hiệu Bệnh viện Bạn hữu
Trẻ em vào năm 2000. Ban điều hành Chương trình ni con bằng sữa mẹ của Bệnh
viện đã phát huy vai trò và trách nhiệm, thường xuyên kiểm tra, giám sát thực hiện
công tác nuôi con bằng sữa mẹ tại các khoa, đặc biệt phát hiện và xử lý kịp thời
những tổ chức, cá nhân quảng cáo, bán sữa cho người bệnh trong bệnh viện. Bệnh
viện đã tổ chức các lớp tập huấn thường kỳ cho toàn thể cán bộ viên chức theo
Chương trình Ni con bằng sữa mẹ của Bộ Y tế. Để tăng cường nhận thức của phụ
nữ mang thai, người bệnh và người nhà, 10 quy định về NCBSM đã được niêm yết


14
tại các khoa, phòng trong Bệnh viện; tờ rơi hướng dẫn NCBSM (cách cho con bú,
phát hiện xử trí và dự phòng một số bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh, hướng dẫn ni
con hồn tồn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu,…) được đặt tại Khoa Khám bệnh và
phát cho các phụ nữ mang thai đợi khám thai, người bệnh đến khám, người nhà
người bệnh [9].
Như vậy các hình thức cung cấp kiến thức cho người mẹ tại bệnh viện là khá
đa dạng. Tuy nhiên tại sao tỷ lệ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn tại bệnh viện
vẫn thấp? Liệu người cha, người sát cánh bên các bà mẹ sau sinh có vai trị và liên

quan với thực hành NCBSM, NCBSM hoàn toàn và bú sớm sau sinh tại bệnh viện
hay không? Thực trạng kiến thức, thái độ của những nam giới có vợ sinh từ các
tuyến có gì khác nhau? Với nguồn kiến thức và thông tin mà bệnh viện cung cấp
liệu họ đã tiếp thu được những gì? Từ đó giúp lãnh đạo bệnh viện có kế hoạch cung
cấp thơng tin và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp với thực trạng và yêu cầu
của bệnh nhân và người nhà. Đặc biệt nghiên cứu này mong muốn sẽ rút ra được vai
trò của các kênh thông tin cho người cha, đặc biệt là lớp tiền sản. Hiệu quả của hình
thức hoạt động này trong việc cung cấp thông tin cho người cha về NCBSM.
Đặc điểm khoa Sản thường: Khoa Sản thường tiếp nhận các trường hợp sản
phụ khơng có bệnh kèm theo, đẻ thường và mổ đẻ, với nội quy như sau: giờ vào
thăm sản phụ buổi sáng từ 10 giờ 30 đến 13 giờ, buổi chiều từ 15 giờ 30 đến 7 giờ
sáng hôm sau. Với những trường hợp mổ đẻ ngày đầu tiên người nhà được ở bên
cạnh 24/24 giờ.
Một điểm cần lưu ý nữa là tại bệnh viện PSTƯ hiện nay đã thực hiện theo
hướng dẫn của Bộ Y tế về chăm sóc thiết yếu sau sinh dành cho mẹ và con. Trong
đó có nội dung cho con tiếp xúc da kề da với mẹ ngay sau sinh.
2.4. Kết quả thu thập số liệu
Theo thống kê được tiến hành trên 369 người cha trả lời phát vấn 56 câu hỏi
(phụ lục 2), có cách tính điểm cụ thể (Phụ lục 3) tại khoa sản Thường Bệnh viện
Phụ sản Trung ương, trong khoảng thời gian từ tháng 6/2020 đến tháng 8/2020 cho
thấy:
2.4.1. Thơng tin chung
Từ phân tích mơ tả ĐTNC, chúng tôi thu được một số thông tin chung của
người cha, người mẹ, trẻ và đặc điểm hộ gia đình như sau:


15
Bảng 2.1. Thông tin chung về người cha
Đặc điểm


Tần suất

Tỉ lệ (%)

– 24

26

7,0

25 – 34

252

68,3

≥ 35

91

24,7

Tiểu học, trung học cơ sở

21

5,6

Trung học phổ thông, trung cấp


167

45,3

Cao đẳng, đại học

159

43,1

Trên đại học

22

6,0

Nông nghiệp

37

10,0

Công nhân, thợ thủ công

56

15,2

Buôn bán, dịch vụ


60

16,3

Cán bộ/ cơng chức

146

39,5

Lao động tự do

69

18,7

Khác

1

0,3

Thành thị

176

47,7

Nơng thơn


193

52.3

Kinh

362

98,1

Khác

7

1,9

Nhóm tuổi cha
18

Trình độ học vấn

Nghề nghiệp

Nơi cư trú

Dân tộc

Bảng 2.1 cho thấy trong 369 người cha tham gia nghiên cứu thì người cha có
độ tuổi từ 25 đến 34 chiếm tỉ lệ cao nhất với 68,3%, tiếp đến là độ tuổi từ 35 trở lên
với 24,7%, thấp nhất là độ tuổi từ 18 đến 24 với 7%. Số người cha có trình độ học

vấn trung học phổ thơng, trung cấp có tỉ lệ cao nhất với 45,3%, tiếp đến là cao đẳng,
đại học với 43,1%, người cha có trình độ trên đại học chỉ chiếm 6%.
Số người cha là cán bộ, công chức chiếm tỉ lệ lớn nhất là 39,5%; tiếp đến là
lao động tự do với 18,7%; công nhân, thợ thủ công chiếm 15,2%; còn lại là các
nghề khác.


16
Trong số 369 cặp vợ chồng tham gia nghiên cứu thì có đến 52,3% sống ở
nơng thơn, chỉ có 47,7% sống ở thành thị. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là người
cha dân tộc kinh với 98,1%. Ngoài ra là các dân tộc khác như Tày, Mông đến từ các
tỉnh như Cao Bằng, Lạng Sơn.
Bảng 2.2. Thông tin chung về bà mẹ
Đặc điểm

Tần suất

Tỉ lệ

18 – 24

60

16,3

25 – 34

261

70,7


≥ 35

48

13,0

Tiểu học + Trung học cơ sở

24

6,5

Trung học phổ thông, trung cấp

173

46,9

Cao đẳng, đại học

167

45,3

Trên đại học

5

1,3


Nông nghiệp

38

10,3

Công nhân, thợ thủ cơng

72

46,6

Bn bán, dịch vụ

55

14,9

Cán bộ/ cơng chức

156

42,2

Lao động tự do

48

13,0


Nhóm tuổi mẹ

Trình độ học vấn

Nghề nghiệp

Kết quả bảng 2.2 cho thấy trong số 369 bà mẹ tham gia nghiên cứu, kết quả
thu được là mẹ lứa tuổi từ 19 – 24 chiếm tỉ lệ cao nhất (70,7%), thấp nhất là lứa tuổi
từ 35 trở lên (13%). Số bà mẹ học hết trung học phổ thông, trung cấp là 173 chiếm
tỉ lệ cao nhất (46,9%), số bà mẹ học trên đại học chiếm tỉ lệ thấp nhất với 1,3%.
Kết quả bảng này cũng cho thấy bà mẹ làm nghề công nhân, thợ thủ công
(46,6%) chiếm tỉ lệ cao nhất, tiếp đến là cán bộ công chức (42,2%), tỉ lệ thấp nhất là
làm nông nghiệp (10,3%).


×