Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Thực trạng chăm sóc, phục hồi chức năng người bệnh tổn thương tủy sống điều trị tại bệnh viện phục hồi chức năng tỉnh sơn la năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.07 KB, 43 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
--------

VŨ THỊ NAM HỒNG

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
NGƯỜI BỆNH TỔN THƯƠNG TỦY SỐNG CỦA ĐIỀU DƯỠNG ĐIỀU
TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TỈNH SƠN LA
NĂM 2019

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH – 2019


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
--------

VŨ THỊ NAM HỒNG

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
NGƯỜI BỆNH TỔN THƯƠNG TỦY SỐNG CỦA ĐIỀU DƯỠNG ĐIỀU
TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TỈNH SƠN LA
NĂM 2019

Chuyên ngành: Điều dưỡng Nội người lớn

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Giảng viên hướng dẫn: TS.BS Vũ Văn Thành



NAM ĐỊNH – 2019



4


i
LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, em xin chân thành cảm ơn q Thầy, Cơ trong Ban giám hiệu, Phịng
đào tạo, Khoa điều dưỡng trường đại học Điều dưỡng Nam Định đã tận tình truyền
đạt kiến thức trong hai năm em học tập tại trường. Với vốn kiến thức tiếp thu trong
quá trình học khơng chỉ là nền tảng cho q trình hồn thành chun đề tốt nghiệp
mà cịn là hành trang q báu để em có thể hồn thành tốt hơn sự nghiệp mà em
đang theo đuổi.
Em tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.BS Vũ Văn Thành đã tận tình giúp đỡ em
trong quá trình viết chuyên đề tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn Ban giám đốc bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Sơn La
đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để em thực tập tại bệnh viện.
Em chân thành cảm ơn toàn thể Điều dưỡng, Bác sỹ trong khoa Ngoại - Chỉnh
hỉnh Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Sơn La đã hướng dẫn chỉ bảo, tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong suốt quá trình viết chuyên đề.

Sơn La, ngày 20 tháng 6 năm 2019
Học viên

Vũ Thị Nam Hồng



ii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Vũ Thị Nam Hồng xin cam đoan đây là cơng trình của riêng tơi, do
chính tơi lần đầu thực hiện, các số liệu trong báo cáo là trung thực, chính xác và đáp
ứng các quy định về trích dẫn.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về cam đoan này.

Nam Định, ngày 20 tháng 6 năm 2019
Người cam đoan

Vũ Thị Nam Hồng


MỤC LỤC
Lời cảm ơn………………………………………………………………………..i
Lời cam đoan…………………………………………………………………….ii
Mục lục………………………………………………………………………….
Danh mục chữ viết tắt…………………………………………………………..iii
Danh mục bảng…………………………………………………………………..iv
Danh mục hình ảnh……………………………………………………………...v
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..................................................... 3
1.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................................... 3
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 8
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN ………………………………………………..16
2.1. Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu .................................................................... 166
2.2. Thực trạng công tác chăm sóc người bệnh TTTS tại Khoa Ngoại – Chỉnh hình
bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Sơn La 6 tháng đầu năm 2019…………………17

2.3. Chăm sóc phục hồi chức năng 32 người bệnh TTTS tại khoa Ngoại – Chỉnh hình
bệnh

viện

Phục

hồi

chức

năng

tỉnh

Sơn

La

…………….……………………….……260
2.4. Mức độ hài lịng của người bệnh……………………………..………………….26
2.5. Những ưu điểm và tồn tại…………………………………………………..……27
2.6. Nguyên nhân.........................................................................................................27
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP …………………………………………28
Kết luận ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


- CLCS:

Chất lượng cuộc sống.

- TTTS:

Tổn thương tủy sống.

- NB:

Người bệnh.

- PHCN:

Phục hồi chức năng.


iv
DANH MỤC BẢNG

Trang
Bảng 2.2.1. Phân bố người bệnh theo tuổi và giới
Bảng 2.2.2. Điểm trung bình chất lượng cuộc sống qua các thời điểm

19
19

Bảng 2.2.3. Sự thay đổi CLCS của bệnh nhân sau 1 tháng được PHCN.


19

Bảng 2.2.4. Mối liên quan giữa tuổi và sự thay đổi CLCS sau 1 tháng được
PHCN.

20

Bảng 2.2.5. Mối liên quan giữa mức độ tổn thương ASIA và sự thay đổi CLCS
sau 1 tháng được PHCN.

20

Bảng 2.2.6. Mức độ hài lòng của người bệnh TTTS điều trị tai khoa Ngoại –
Chỉnh hình

21


v
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1. Người bệnh lt vùng cùng cụt, mấu chuyển lớn xương đùi do tì đè....24
Hình 2: Vết loét vùng cùng cụt, mấu chuyển lớn xương đùi sau một thời gian điều trị
và chăm sóc...............................................................................25
Hình 3: Tập phục hồi chức năng cho người bệnh tổn thưởng tủy sống..............28


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tổn thương tủy sống (TTTS) là tình trạng bệnh lý gây rối loạn trầm trọng chức

năng của nhiều cơ quan khác nhau: Liệt hoặc giảm vận động tứ chi hoặc hai chi dưới
kèm theo những rối loạn khác như cảm giác, bàng quang, ruột, sinh dục... [13].
Theo số liệu thống kê hàng năm trên thế giới, tỷ lệ tổn thương tuỷ sống ngày
càng có xu hướng gia tăng. Năm 2013 tại Mỹ có khoảng 12.000 trường hợp tổn
thương tuỷ sống mắc mới, tỷ lệ hiện mắc khoảng 73.000 người, trong đó nam giới
chiếm 80,6%, nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông và ngã cao [17].
Tại Việt Nam, hiện chưa có số liệu thống kê và đầy đủ và đại diện cho cả nước
về tỷ lệ tổn thương tuỷ sống, tuy nhiên qua một số số liệu báo cáo của các bệnh viện
lớn trên cả nước cho thấy tỷ lệ tổn thương tủy sống ngày một gia tăng, đặc biệt do tai
nạn giao thông, tai nạn lao động và tai nạn sinh hoạt, độ tuổi thường gặp là 20-59 tuổi,
đây là lứa tuổi lao động chính, cống hiến nhiều nhất cho xã hội [8], [11].
Do vậy tổn thương tuỷ sống không những làm người bệnh mất khả năng độc lập
trong cuộc sống mà còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Trước đây tổn thương tuỷ
sống được coi là một bệnh không thể chữa trị, tuy nhiên hiện nay sự phát triển vượt
bậc của y học cho thấy rằng những người bệnh tổn thương tuỷ sống nếu được chăm
sóc và phục hồi chức năng kịp thời thì có thể có một cuộc sống như bình thường [9].
Mục tiêu của phục hồi chức năng là đảm bảo cho người bệnh được tái hội nhập xã hội,
có cơ hội bình đẳng tham gia các hoạt động gia đình và xã hội, đồng thời cải thiện
được chất lượng cuộc sống ở mức cao nhất cho người bệnh [13].
Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của các bệnh viện, đặc biệt là nhân viên y tế trong
công tác chăm sóc, phục hồi chức năng cho người bệnh. Ở các nước phát triển đã sớm
hình thành những trung tâm phục hồi chức năng chuyên biệt và mạng lưới chăm sóc
người bệnh tổn thương tuỷ sống. Tuy nhiên tại Việt Nam, người bệnh tổn thương tuỷ
sống thường chỉ được quan tâm điều trị trong giai đoạn cấp sau đó xuất viện mà chưa
chú trọng đúng mức đến giai đoạn phục hồi chức năng, giai đoạn sẽ góp phần quyết
định đến sự hồi phục và chất lượng cuộc sống của người bệnh [9].
Hiệu quả cải thiện tình trạng sức khỏe của người bệnh nói chung và người bệnh
nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào cơng tác chăm sóc phục hồi chức năng của đội ngũ
nhân viên y tế tại bệnh viện. Hiện nay ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về thực trạng



2
chăm sóc, phục hồi chức năng cho người bệnh tổn thương tuỷ sống. Do đó, để góp
phần vào cơng tác điều trị và chăm sóc phục hồi chức năng, nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người bệnh tổn thương tuỷ sống, tôi tiến hành nghiên cứu chuyên đề:
“Thực trạng chăm sóc, phục hồi chức năng người bệnh tổn thương tủy
sống điều trị tại bệnh viện phục hồi chức năng tỉnh Sơn La năm 2019”
Với 2 mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng chăm sóc, phục hồi chức năng người bệnh tổn thương
tủy sống điều trị tại Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Sơn La năm 2019.
2. Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả chăm
sóc người bệnh tổn thương tủy sống tại bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Sơn La.


3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Định nghĩa tổn thương tủy sống
Tổn thương tủy sống là tình trạng bệnh lý gây liệt hoặc giảm vận động tứ chi
hoặc hai chân kèm theo các rối loạn khác như: Cảm giác, hô hấp, tim mạch, bàng
quang, đường ruột, loét do tì đè... do nguyên nhân chấn thương hoặc do các bệnh lý
khác của tủy sống, thường để lại nhiều di chứng nặng nề và dẫn tới tàn tật nếu khơng
được điều trị, chăm sóc và phục hồi chức năng tốt [3].
1.1.2. Nguyên nhân tổn thương tủy sống [3]
Có nhiều nguyên nhân gây TTTS:
-

Do chấn thương: chiếm 65% trường hợp bao gồm: tai nạn giao thông, tai

nạn lao động, tai nạn sinh hoạt, tai nạn thể thao, chiến tranh, bạo lực....

-

Các bệnh tủy sống: ung thư, xơ tủy rải rác, nhiếm trùng...

-

Các biến dạng cột sống: gù, vẹo, thốt vị, gai đơi cột sống...

-

Bệnh mạch máu hay huyết khối mạch tủy...

1.1.3. Phân loại tổn thương tủy sống [3]
1.1.3.1. Phân loại theo tổn thương thần kinh
+ Tổn thương tủy hồn tồn: khi khơng có chức năng vận động cảm giác ở
đoạn tủy cùng thấp nhất.
+ Tổn thương tủy khơng hồn tồn: nếu cịn bảo tồn một phần chức năng cảm
giác và/hoặc bên dưới mức thương tổn và bao gồm đoạn tủy cùng thấp nhất
1.1.3.2. Phân loại theo ASIA (Hiệp hội chấn thương tủy sống Mỹ)
Dựa vào sự chi phối thần kinh của tứ chi để kiểm tra, đánh giá TTTS theo tổng
điểm vận động và cảm giác, chia làm 5 mức:
+ ASIA A = Tổn thương tủy hồn tồn :khơng cịn chức năng vận động, cảm
giác tại vùng tủy cùng S4-S5.
+ ASIA B = Tổn thương tủy khơng hồn tồn: Cịn cảm giác nhưng mất chức
năng vận động dưới mức thần kinh tổn thương.
+ ASIA C = Tổn thương tủy khơng hồn tồn: cịn chức năng vận động dưới
mức thần kinh tổn thương và hơn một nửa số cơ chính dưới mức tổn thương có bậc cơ
dưới 3.



4
+ ASIA D = Tổn thương tủy khơng hồn tồn: còn chức năng vận động dưới
mức tổn thương thần kinh và ít nhất một nửa số cơ chính dưới mức tổn thương có bậc
cơ lớn hơn hoặc bằng 3.
+ ASIA E = Bình thường: Chức năng vận động, cảm giác bình thường.
1.1.4. Biểu hiện lâm sàng của liệt tủy [3]
1.1.4.1. Các dấu hiệu lâm sàng
Dấu hiệu lâm sàng phụ thuộc vào hai yếu tố sau:
- Vị trí tổn thương.
- Mức độ tổn thương.
Khi tủy sống bị tổn thương gây nên hội chứng liệt tủy biểu hiện:
-

Rối loạn vận động:

+ Liệt vận động: mất hoặc giảm vận động dưới mức tổn thương.
+ Liệt tứ chi: có thể kèm liệt hơ hấp và cơ hồnh. Khó khăn khi thở, ho và khạc
đờm.
+ Liệt hai chân: kèm liệt cơ thân mình.
- Rối loạn cảm giác:
+ Rối loạn cảm giác nơng: đau, sờ mị, cảm giác nóng lạnh ...
+ Rối loạn cảm giác sâu: vị trí, tư thế...
+ Rối loạn dị cảm: tê bì, kiến bò ...
+ Rối loạn cơ tròn: đại tiểu tiện không tự chủ.
+ Tăng phản xạ hoặc co cứng.
+ Giảm khả năng tình dục.
1.1.4.2. Diễn biến lâm sàng
Gồm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn choáng tủy:
Choáng tủy là hậu quả của việc cắt đứt về mặt sinh lý và giải phẫu của tủy sống,

là hiện tượng mất hoàn toàn tạm thời tất cả hoặc hầu hết các hoạt động phản xạ tủy tại
mức tổn thương và dưới mức tổn thương. Giai đoạn này thường xảy ra ngay sau tai
nạn, biểu hiện lâm sàng như sau:
+ Liệt mềm nhẽo hoàn toàn dưới mức tổn thương.
+ Mất hồn tồn cảm giác nơng và cảm giác sâu dưới mức tổn thương.


5
+ Mất các phản xạ gân xương, dấu hiệu Babinski (phản xạ da bàn chân) không
đáp ứng hai bên.
+ Đại tiểu tiện khơng tự chủ.
Trong giai đoạn này khó xác định vị trí, mức độ tổn thương. Thời gian từ khi bị
thương đến khi xuất hiện hồi phục đầu tiên càng ngắn thì kết quả hồi phục chức năng
càng tốt.
- Giai đoạn hồi phục:
Bắt đầu từ khi có sự xuất hiện trở lại của bất kỳ dấu hiệu thần kinh nào bao
gồm: phản xạ, vận động, cảm giác ở dưới mức tổn thương. Lúc này bệnh cảnh lâm
sàng sẽ rõ rệt tùy theo vị tri và mức dộ tổn thương, với các hội chứng rối loạn vận
động, rối loạn cảm giác, rối loạn cơ tròn, rối loạn dinh dưỡng, rối loạn thần kinh thực
vật.
1.1.4.3. Tổn thương thứ cấp thường gặp
Tổn thương thứ cấp là các biến chứng xáy ra sau quá trình bệnh lý, do người
bệnh nằm bất động lâu hoặc khơng được chăm sóc đúng. Tổn thương thứ cấp có thể
xảy ra ở nhiều cơ quan, bộ phận khác nhau của cơ thể như vận động, hơ hấp, tuần
hồn, tiết niệu... như teo cơ, tụt huyết áp tư thế, nhiễm trùng tiết niệu, lt...
1.1.5. Chăm sóc phục hơì chức năng cho người bệnh tổn thương tủy
sống
1.1.5.1. Định nghĩa



Chăm sóc NB trong bệnh viện:

Theo Thông tư số 07/2011/TT-BYT ngày 26 tháng 1 năm 2011 của Bộ Y tế về
việc “Hướng dẫn cơng tác điều dưỡng về chăm sóc NB trong bệnh viện”, chăm sóc
NB trong bệnh viện bao gồm hỗ trợ, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của mỗi NB nhằm
duy trì hơ hấp, tuần hồn, thân nhiệt, ăn uống, bài tiết, tư thế, vận động, vệ sinh cá
nhân, ngủ, nghỉ; chăm sóc tâm lý; hỗ trợ điều trị và tránh các nguy cơ từ môi trường
bệnh viện cho người bệnh [12].


Phục hồi chức năng người bệnh TTTS là dùng các biện pháp y học, xã

hội học, giáo dục học, kinh tế và kỹ thuật PHCN nhằm đảm bảo cho người bệnh tái
nhập xã hội, có cơ hội bình đẳng tham gia các hoạt động trong gia đình, xã hội, có
cuộc sống bình thường tối đa so với hồn cảnh của họ [6].
1.1.5.2. Các bước chăm sóc phục hồi chức năng cho người bệnh TTTS [3]


6


Nhận định

- Hỏi, khám người bệnh liệt 2 chân hay tứ chi.
- Đại, tiểu tiện khơng tự chủ hay bí đại, tiểu tiện. Xem cơ teo hay phù nề, da đã
có dấu hiệu lt chưa, có sốt khơng? Có khó thở khơng?


Lập kế hoạch chăm sóc


- Vệ sinh cơ thể, phòng chống loét, chế độ ăn uống.
- Thực hiện y lệnh:
+ Tiêm thuốc.
+ Uống thuốc.
+ Truyền thuốc.
+ Xét nghiệm.
+ Theo dõi dấu hiệu sinh tồn.
- Phục hồi chức năng và chăm sóc các hệ thống cơ quan đề phịng nhiễm khuẩn
và biến chứng.
- Giáo dục sức khỏe.


Thực hiện kế hoạch chăm sóc

Người bệnh bị liệt khơng tự vận động được, người bệnh rất buồn, lo lắng, nên
khi đón tiếp người bệnh người điều dưỡng cần có thái độ, cử chỉ ân cần thơng cảm với
tình trạng bệnh của họ, giúp họ vào giường. Chú ý tư thế toàn thân cũng như các chi
đề phòng biến dạng, loét sớm xảy ra.


Vệ sinh cơ thể, phòng chống loét:

- Hàng ngày vệ sinh mặt mũi, răng, miệng, đầu tóc, vệ sinh da, chú ý vùng tỳ đè,
bộ phận sinh dục cần khô ráo, sạch sẽ.
- Ga giường người bệnh luôn luôn sạch sẽ, khơng có nếp gấp.
- Thay đổi tư thế người bệnh 2 giờ một lần, thường xuyên kiểm tra các vùng tỳ
đè, dễ gây loét như vùng chẩm, xương bả vai, khuỷu tay, xương cùng cụt, vùng mông,
gai chậu, mất cá chân...
- Dấu hiệu của nguy cơ loét là da vùng đó đỏ lên khơng mất đi sau 15 phút. Nếu
có vết trợt điều trị ngay, tránh nhiễm khuẩn.

- Cho người bệnh nằm đệm chống loét như vòng hơi cao su hay phao giường
bơm nước…


7
- Đảm bảo dinh dưỡng cho người bệnh đủ số lượng và chất lượng, tăng protid
như: trứng, sữa, thịt, cá và đầy đủ các vitamin có trong quả tươi.


Thực hiện y lệnh:

Khi cho người bệnh uống thuốc, tiêm thuốc, truyền thuốc đúng theo y lệnh. Chú
ý khi truyền thuốc phải theo dõi sát đề phịng thuốc truyền ra ngồi tĩnh mạch, vì
người bệnh có rối loạn cảm giác nên khơng nhận biết đau.
* Làm các xét nghiệm chính xác kịp thời. Phụ giúp bác sĩ chọc dò thắt lưng để
xét nghiệm dịch não tủy.
- Xét nghiệm máu, phân, đờm, nước tiểu, ngoáy họng.
- Xquang thần kinh: Chụp cột sống,chụp tủy sống, chụp tủy cản quang…
- Thăm dò chức năng: Ghi điện cơ, điện tim.
- Khám các chuyên khoa ngoại, sản khoa, mắt, tai mũi họng, da liễu.
* Theo dõi dấu hiệu sinh tồn: Lấy mạch, nhiệt độ, đếm mạch nhịp thở.
Chú ý theo dõi nhịp thở, đối với người bệnh có biểu hiện triệu chứng tổn thương
tủy lan lên thường gây khó thở, lo sợ vật vã phải báo cáo bác sĩ để cấp cứu vì rất dễ
liệt trung tâm hơ hấp.


Chăm sóc, phục hồi chức năng vận động:

Để tránh tình trạng người bệnh co cứng, co rút, đặt người bệnh nằm đúng tư thế,
nên đặt gối và đệm lót để giữ chân thẳng, bàn chân vng góc với cẳng chân.

Tập và cử động khớp háng, khớp vai.
Xoa bóp cơ thể tăng cường lưu thơng máu, tránh teo cơ.


Chăm sóc, phục hồi chức năng tiết niệu:

Người bệnh bí tiểu khi có cầu bàng quang cần đặt thơng tiểu bàng quang.
Đề phịng nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Khi thơng tiểu đảm bảo đúng kỹ thuật,
vô khuẩn, không thông nhiều lần trong ngày, lưu thông tại bàng quang không để lâu
quá 3 ngày thay thông khác, hàng ngày bơm rửa bàng quang bằng dung dịch NaCl
0,9% .
Cho người bệnh uống đủ nước trung bình 2 lít trong một ngày. Uống nước hoa
quả có nhiều vitamin, vì vi khuẩn khó phát triển khi nước tiểu có mơi trường axid.
Ln giữ vệ sinh ống thông, túi đựng nước tiểu, rửa bộ phận sinh dục ngồi
sạch sẽ, khơ ráo hàng ngày.


Chăm sóc, phục hồi chức năng đường ruột:


8
Luyện tập cho người bệnh có thói quen đại tiện hàng ngày vào thời gian nhất
định.
- Xoa bóp khung đại tràng theo chiều nhu động ruột.
- Kích thích đại tiện "bằng cách đặt thuốc đạn vào hậu mơn".


Chăm sóc, phục hồi chức năng đường hơ hấp:

- Đề phịng bội nhiễm viêm phổi, xẹp phổi.

- Rung vỗ lồng ngực.


Giáo dục sức khỏe:

Khi bị tổn thương tủy bệnh thường tiến triển kéo dài, tâm lý người bệnh và
người thân của họ rất bi quan nên người điều dưỡng cần có thái độ ân cần, động viên
nâng đỡ an ủi người bệnh tin tưởng vào chun mơn, có ý chí quyết tâm cao kiên trì
tập luyện phục hồi chức năng, hịa nhập vào xã hội và cộng đồng.
- Nâng cao thể trạng đảm bảo dinh dưỡng.
- Đề phịng các sang chấn để khơng ảnh hưởng thêm cho cột sống và tủy.


Đánh giá:

Người điều dưỡng cần đánh giá:
- Thể trạng người bệnh tốt lên: ăn ngủ được.
- Cơ thể, quần áo, giường chiếu được vệ sinh sạch sẽ.
- Khơng có dấu hiệu bội nhiễm và các di chứng như: Loét da, viêm đường tiết
niệu, cứng khớp, teo cơ…
- Tinh thần người bệnh an tâm tin tưởng chuyên môn.
Dựa trên các triệu chứng lâm sàng để xem xét, đánh giá kịp thời tình trạng bệnh
từ đó điều chỉnh kế hoạch chăm sóc đáp ứng nhu cầu của người bệnh.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình chăm sóc người bệnh Tổn thương tủy sống trên thế giới
Chấn thương tủy sống tác động đến hàng nghìn người mỗi năm, gây ảnh hưởng
lớn tới sức khỏe, làm mất chức năng vận động, rối loạn cảm giác và các cơ quan khác
như bàng quang, đường ruột, hô hấp, tim mạch và loét do tỳ đè dẫn đến giảm CLCS.
Nghiêm trọng hơn, CTTS làm người bệnh mất cơ hội việc làm, mất khả năng độc lập
trong cuộc sống và thay đổi tâm lý sức khỏe nặng nề.Theo số liệu điều tra dịch tễ học

cho thấy hàng năm trên thế giới tỷ lệ CTTS thay đổi theo vùng và có xu hướng gia
tăng, đặc biệt ở các nước có mật độ giao thông đông đúc, ngay cả ở các nước phát


9
triển, với 80% nạn nhân là nam giới, đang trong độ tuổi lao động. Điều này cho thấy
CTTS không những ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, mà
còn ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống của chính người bệnh. Ngồi việc điều
trị bằng thuốc thì chăm sóc và Phục hồi chức năng là yếu tố quyết định nâng cao chất
lượng cuộc sống của người bệnh. Nếu người bệnh Tổn thương tủy sống được chăm
sóc tốt sẽ làm giảm các biến chứng thứ cấp [10].
1.2.1.1. Một số nghiên cứu liên quan đến thực trạng chất lượng cuộc sống của
người bệnh chấn thương tủy sống
- PH Smith và RM Decter (2015) sử dụng bộ công cụ đánh giá CLCS của người
bệnh sau CTTS (FIQL) để xác định mức độ rị rỉ phân ngồi ý muốn ảnh hưởng đến
CLCS của người bệnh. Điểm CLCS (FIQL) được thể hiện ở 4 lĩnh vực: cách sống,
cách ứng phó, sự buồn chán/tự nhận thức hay sự xấu hổ. Bộ câu hỏi được phát trước
và sau phẫu thuật. Sử dụng T-test để so sánh trước và sau phẫu thuật. Kết quả cho thấy
từ 2003-2010, nghiên cứu được thực hiện trên 17 người bệnh CTTS, bao gồm 10
người bệnh liệt 2 chân và 7 NB liệt tứ chi có thời gian trung bình là 33 năm sau phẫu
thuật. Có tới 85% người bệnh CTTS trải qua các mức độcủa phân bón nặng, việc điều
trị ban đầu của táo bón liên quan đến thần kinh ruột rối loạn chức năng nói chung bao
gồm sự kết hợp của phương pháp điều trị răng miệng , thuốc đạn và dung dịch thụt
tháo, phương pháp điều trị như vậy có lợi ích của việc không xâm lấn. Các ACE
(Antegrade continence enema) cho phép người bệnh quản lý hiệu quả việc kiểm soát
phân, các (ACE) cung cấp cải thiện đáng kể ở người bệnh. (FIQL) là bộ công cụ đáng
tin cậy và hợp lệ để đo CLCS liên quan đến khơng kiểm sốt phân. Hơn nữa, khi phân
tích tính cho thấy mối tương quan của (FIQL) phù hợp với bộ công cụ đánh giá CLCS
tồn cầu SF-36 và nó đã được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về CLCS ở người
bệnh chấn thương tủy sống [18].

- V. Bochkezanian, J Raymond, de Oliveira và cộng sự (2015) dùng kết hợp bài
tập aerobic và những bài tập tăng sức mạnh theo vòng tròn đối với NB CTTS. Chất
lượng cuộc sống của người bệnh sau CTTS được đánh giá thông qua khả năng độc lập
với việc sử dụng thang PEDro (Physiotherapy Evidence Database); nghiên cứu thực
nghiệm bởi hai nhà nghiên cứu khác nhau. Kết quả: Nghiên cứu phân tích 7981 NB,
trong đó 9 thử nghiệm đạt tiêu chuẩn lựa chọn. Từ 9 thử nghiệm trên, 7 cho kết quả
của việc tập aerobic, và 2 trong số đó cho thấy sự cải thiện có ý nghĩa thống kê. 5


10
nghiên cứu cho kết quả tăng sức mạnh cơ, 4 trong số đó có kết quả có ý nghĩa thống
kê. 2 nghiên cứu khác xem xét chất lượng cuộc sống và 1 trong 2 nghiên cứu cho thấy
sự khác nhau có ý nghĩa giữa các nhóm. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi có sự can thiệp
tập thể dục kết hợp NB sẽ có sự suy yếu về thể chất do đó nó ảnh hưởng đến khả năng
tập thể dục, dẫn đến CLCS ở những NB CTTS giảm theo [9].
- D. M. Cushman, K. Thomas, D. Mukherjee (2015) đã sử dụng bảng câu hỏi
điều tra của các bác sĩ PM&R (Physical Medicine and Rehabilitation) và EM
(Emergency Medicine). Người tham gia nghiên cứu là các bác sĩ có chứng chỉ thuộc
Hiệp hội PHCN Mỹ và giảng viên tại các trường đại học Y khoa của Mỹ và Canada.
Nghiên cứu nhằm đánh giá các khía cạnh trong CLCS của người bệnh CTTS bao gồm
hoạt động giải trí, quan hệ xã hội, hạnh phúc, cơng việc có ý nghĩa, đời sống tình dục
và chất lượng sống nói chung. Kết quả cho thấy trong tổng số 91 bác sĩ cấp cứu và 89
bác sĩ PHCN được hỏi, thì số lượng bác sĩ PHCN nhiều hơn so với bác sĩ cấp cứu cho
rằng người bệnh sẽ có CLCS tốt hơn khơng kể đến mức độ chấn thương hay khía cạnh
cuộc sống nào được nói đến (p<0.01). Bác sĩ nữ, không kể đến chuyên ngành, chọn
mức thấp hơn cho câu hỏi liệu người bệnh có muốn kết thúc cuộc sống nếu bị CTTS
không (p = 0.03). Cả hai nhóm bác sĩ đều có xu hướng khơng đồng ý với nhận định
mức độ chấn thương thấp hơn thì cho CLCS cao hơn. Thái độ của bác sĩ có thể có một
tác động đáng kể về y tế chăm sóc, và nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các bác sĩ đánh
giá thấp chất lượng cuộc sống đối với của người sống khuyết tật [16].

- Ravenek K. E. và cộng sự (2012) thực hiện một nghiên cứu tổng quan có hệ
thống sử dụng dữ liệu từ PubMed và CINAHL để tìm hiểu các nghiên cứu sử dụng
cơng cụ đo lường CLCS và đánh giá hiệu quả của hoạt động thể chất hay sử dụng hoạt
động thể chất để xác định mối liên hệ giữa hoạt động thể chất và CLCS. Kết quả cho
thấy, trong 13 nghiên cứu có 9 công cụ đo CLCS được sử dụng. Hai bộ công cụ đánh
giá khách quan (SF-36) và QWB (Quality of Well-being). Bảy công cụ đánh giá chủ
quan: (1) tự đánh giá CLCS PqoL (Perceived Quality of Life), (2) thang điểm thỏa
mãn cuộc sống SWLS (Satisfaction with Life Scale), (3) chỉ số CLCS của NB CTTS phiên bản III, (4) thang thỏa mãn cuộc LISAT (Life Satisfaction), (5) phản hồi chất
lượng cuộc sống, (6) hồ sơ chất lượng cuộc sống: Phiên bản cho người khuyết tật thể
chất và giác quan QOLP-PSD (Quality of Life Profile - Physical and Sensory


11
Disabilities Version) và (7) CLCS theo đánh giá chủ quan SQOL (Subjective Quality
of Life) [15]
- Nghiên cứu phân tích các công cụ cho thông tin về CLCS liên quan đến sức
khỏe HRQoL (Health-related quality-of-life), bao gồm Bản điều tra ngắn (SF-36), Bản
điều tra ngắn 36 dành cho cựu chiến binh (SF-36V), Bản điều tra ngắn 12 (SF-12),
Bản điều tra ngắn 6 dành cho người khuyết tật (SF-6D), Hồ sơ ảnh hưởng của bệnh
thật (SIP-68), Bảng tự đánh giá CLCS (QWB-SA), Qualiveen và Công cụ NB tự đánh
giá ảnh hưởng của co cứng (PRISM). Trong số 22 bài báo với 8 công cụ đánh giá
CLCS liên quan đến sức khỏe của người bệnh cho thấy người bệnh CTTS có CLCS
kém hơn nhiều so với dân số nói chung, đặc biệt là về thể chất [16].
1.2.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh sau
chấn thương tủy sống
- Y Akkoc, M Ersoz và N Yıldız (2013) nghiên cứu các NB CTTS ít nhất 6
tháng sau chấn thương (n = 195, 74.4% nam). Người bệnh trên được chia vào 5 nhóm:
tiểu tiện bình thường, tiểu tiện có hỗ trợ, người bệnh tự thông tiểu ngắt quãng, thông
tiểu ngắt quãng do người khác trợ giúp và thông tiểu lưu. Bảng điều tra câu hỏi King
được sử dụng để đánh giá CLCS của người bệnh sau CTTS. Kết quả là các nhóm

người bệnh quản lý bàng quang giống nhau về tuổi, thời gian sau chấn thương, trình độ
học vấn, tình trạng hơn nhân và nghề nghiệp. Khơng có sự khác biệt nào về sức khỏe
nói chung, mối quan hệ cá nhân, điểm giấc ngủ/năng lượng. Trong khi nhóm tiểu tiện
bình thường có điểm số thấp nhất (nghĩa là có CLCS cao nhất), nhóm có người giúp
đặt thơng tiểu có CLCS tồi nhất. Vậy yếu tố NB khi có sự can thiệp để có thể tiệu tiện
và tiện cho việc chăm sóc và theo dõi có là yếu tố ảnh hưởng đến CLCS của người
bệnh sau CTTS [17].
- Trong nghiên cứu tổng hợp y văn của Leeuwen V, Kraaijeveld S, Lindeman E
và cộng sự (2012), một số hệ thống dữ liệu trực tuyến đã tham khảo PubMed, Embase
và PsychInfo. Tiêu chuẩn lựa chọn các bài báo là các bài báo phải phân tích định
lượng mối quan hệ giữa các biến độc lập liên quan đến chất lượng sống và các yếu tố
tâm lý như các biến phụ thuộc. Nghiên cứu tổng hợp này chỉ xem xét các thử nghiệm
lâm sàng bằng tiếng Anh. Chất lượng phương pháp nghiên cứu cũng được đánh giá.
Kết quả cho thấy có 48 nghiên cứu đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn. Khơng có bằng
chứng nào được tìm thấy về mối liên quan giữa phương pháp giải quyết vấn đề và chất


12
lượng sống. Những tác động tiêu cực và nhận thức sau chấn thương liên quan đến chất
lượng sống thấp hơn. Chất lượng cuộc sống của người bệnh sau CTTS được cho là liên
quan đến mức độ kiểm soát cuộc sống, nhận thức giá trị bản thân, mục đích sống và hy
vọng [18].
- E Ataoglu, T Tiftik, M Kara, và cộng sự (2013) nghiên cứu tổng cộng 140 NB
CTTS (104 nam và 36 nữ) đã được điều trị nội trú PHCN. Một bảng câu hỏi gồm
nhiều biến số về y tế đã được phát. Điểm số tự chủ vận động được dùng để đánh giá
hoạt động hàng ngày, Bảng hỏi kết quả y tế dạng ngắn 36 mục (SF-36) để đánh giá
CLCS của người bệnh sau CTTS và Bảng liệt kê tình trạng buồn chán BDI (Beck
Depression Inventory). NB sau đó được chia thành nhóm đau mãn tính (Nhóm 1) và
nhóm khơng bị đau (Nhóm 2); hai nhóm sẽ được so sánh dựa trên các biến về kinh tế
xã hội và y tế. Kết quả cho thấy nguyên nhân phổ biến nhất ảnh hưởng đến CLCS của

người bệnh sau CTTS là ngã (35.0%) và tai nạn xe cộ (34.2%), 78% NB bị đau mãn
tính. Người bệnh có việc làm trước khi bị thương và NB tổn thương hồn tồn có điểm
xếp hạng thấp hơn (p< 0,05). Nhóm 1 có điểm đau thể chất và hoạt động xã hội thấp
hơn nhóm 2(p< 0,05) Người bệnhCTTS bị đau mãn tính có tỉ lệ buồn chán và điểm
(BDI) cao hơn tương quan với một vài những lĩnh vực trong bảng SF-36 [16].
- Trong nghiên cứu của N. A. Erosa1, J.W. Berry, T.R. Elliott (2014), một
khung lý thuyết được kiểm tra về ảnh hưởng của khuyết tật chức năng, sự hài lòng
trong cuộc sống gia đình và tình trạng đau khi tham gia hoạt động đối với chất lượng
sống. Kết quả cho thấy khuyết tật chức năng lớn và tình trạng đau làm giảm sự tham
gia hoạt động, sự tham gia hoạt động có giá trị tiên đoán với CLCS đối với người
bệnh sau CTTS vàyếu tố hài lịng trong cuộc sống gia đình có ảnh hưởng gián tiếp
tới CLCS của người bệnh sau CTTS [17].
- WB Mortenson, L Noreau và WC Miller (2010) nghiên cứu một nhóm người
bệnh CTTS. Số liệu được thu thập thông qua chỉ số chất lượng sống QLI (Quality of
Life Index) 197 NB được điều tra, nhưng do bỏ nghiên cứu hay khơng tham gia đầy
đủ, chỉ cịn lại 93 trường hợp. Chất lượng sống được điều tra tại thời điểm 3 và 15
tháng sau khi hết điều trị PHCN. Kết quả là điểm trung bình CLCS khơng khác nhau ở
thời điểm 3 và 15 tháng (p< 0,85). Chỉ số chính dự đốn CLCS ở thời điểm 3 tháng là
tình trạng sức khỏe và trạng thái tâm lý. Chỉ số chính dự đốn CLCS ở thời điểm 15
tháng là mức độ chất lượng sống ở thời điểm 3 tháng, tình trạng sức khỏe và sự hỗ trợ


13
của gia đình. Ở cả 2 thời điểm trên, những yếu tố cá nhân giải thích được gần hết được
CLCS của người bệnh sau CTTS, trong khi đó sự tham gia hoạt động và yếu tố mơi
trường có vai trị ít quan trọng [16].
1.2.2. Tình hình chăm sóc người bệnh Tổn thương tủy sống ở Việt Nam
Trong quá trình điều trị cơng tác Điều dưỡng chăm sóc vơ cùng quan trọng góp
phần đáng kể vào hiệu quả chất lượng điều trị. Công việc xây dựng kế hoạch phù hợp
sát với tình trạng người bệnh là nhu cầu rất cần thiết để đem lại kết quả mong muốn

trong quá trình điều trị phục hồi của người bệnh.
Một số nghiên cứu về người bệnh chấn thương tủy sống ở Việt Nam
- Đỗ Đào Vũ (2006) tiến hành nghiên cứu đánh giá kết quả phục hồi chức năng
vận động cảm giác theo ASIA ở người bệnh chấn thương cột sống cổ và một số yếu tố
ảnh hưởng đến kết quả PHCN. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu
nhiên có đối chứng; kết quả cho thấy: Có sự cải thiện bậc cơ theo ASIA sau 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng lần lượt là 39%, 72% và 72%. Khả năng di chuyển tốt và khá là
16,67% và 44,44%, còn lại 38,89% di chuyển kém so với nhóm chứng di chuyển kém
là 50%. Kết quả cũng cho thấy nhóm NB trẻ tuổi phục hồi chức năng tốt hơn NB lớn
tuổi, sơ cứu ban đầu đúng tỷ lệ phục hồi chức năng tốt hơn sơ cứu sai, tổn thương tủy
cổ cao phục hồi kém hơn tổn thương tủy cổ thấp [10].
- Cầm Bá Thức (2008) nghiên cứu thực trạng người bệnh liệt hai chi dưới do
chấn thương tủy sống tại cộng đồng và đề xuất một số giải pháp can thiệp. Nghiên cứu
80 NB liệt 2 chi dưới do chấn thương tủy sống, sống tại cộng đồng. Kết quả: Liệt tủy
hoàn toàn ASIA A là 52,5%; khơng hồn tồn ASIA B là 5%; ASIA C là 27,5%;
ASIA D là 15%. Khuyết tật rất nặng 12,5%; nặng 72,5%; trung bình 15%. 88,8%
khơng làm được việc gì; 11,2% chỉ làm được việc nhẹ; 77,5% thất nghiệp; 12,5% bỏ
học; 7,5% phải nghỉ việc; 2,5% đang hưởng lương hưu. Trầm cảm 25%, lo sợ 35%;
căng thẳng 37,5%. Hiệu quả phục hồi chức năng: Cải thiện mức độ khuyết tật theo
thang điểm Rankin; cải thiện khả năng tự chăm sóc và di chuyển theo chỉ số Barthel;
cải thiện mức độ tham gia cơng việc gia đình và cộng đồng theo chỉ số Frenchay; cải
thiện của các biến chứng và thương tật thứ cấp [9].
- Nguyễn Phương Sinh (2012) nghiên cứu hiệu quả PHCN hô hấp cho người
bệnh chấn thương cột sống có liệt tuỷ bằng phương pháp tập thở tự điều khiển, trên 61
người bệnh sau chấn thương tủy sống từ mức D6 trở lên. Phương pháp nghiên cứu cắt


14
ngang mô tả và thử nghiệm lâm sàng so sánh trước sau. Kết quả cho thấy có sự cải
thiện đáng kể độ giãn nở lồng ngực, các thông số chức năng hơ hấp sau 3 tháng, 6

tháng có ý nghĩa thống kê với p<0,05 [7].
- Đỗ Đào Vũ (2014) Đánh giá kết quả phục hồi chức năng bàng quang thần kinh
sau chấn thương tủy sống. Phương pháp tiến cứu can thiệp ngẫu nhiên có đối chứng trên
68 NB có bàng quang thần kinh tăng hoạt do chấn thương tủy sống. Những người bệnh
này được hỏi bệnh, khám lâm sàng, cận lâm sàng, thăm dị niệu động học để chẩn đốn
xác định và điều trị bằng hai phương pháp: Nhóm nghiên cứu tiêm Botox 200 đơn vị vào
thành bàng quang, nhóm chứng uống Driptan 20mg/24 giờ. Người bệnh được theo dõi sau
4 tuần, 12 tuần và 24 tuần tại Trung tâm Phục hồi chức năng Bệnh viện Bạch Mai. Kết
quả nghiên cứu cho thấy Chất lượng sống, mức độ hài lòng của người bệnh có sự cải
thiện tại các thời điểm tái khám so với trước điều trị (p<0,05). Nhóm nghiên cứu cải
thiện tốt hơn hẳn so với nhóm chứng (UDI-6 cải thiện 2-3 điểm; IqoL cải thiện 20
điểm; VAS cải thiện 1-2 điểm) (p<0,05) [13].
- Đỗ Thị Ngọc Anh (2015) đánh giá chất lượng cuộc sống của người bệnh chấn
thương tủy sống giai đoạn tái hòa nhập cộng đồng. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 30
NB TTTS tại cộng đồng, kết quả có hơn một nửa số người bệnh có CLCS ở mức thấp
chiếm 53,3%; CLCS ở mức cao chiếm 23,3%; mức trung bình chiếm 16,7%; mức rất
thấp chiếm 6,7% và khơng có NB nào có CLCS ở mức cao. Có 93,3 % các NB có tình
trạng đau/khó chịu các mức độ từ nhẹ đến nặng, chỉ có 6,7% số NB là khơng đau/khó
chịu [1].
- Nguyễn Anh Tú (2016) nghiên cứu chất lượng cuộc sống của người bệnh sau
chấn thương tủy sống và yếu tố ảnh hưởng trên 65 người bệnh tại Trung tâm phục hồi
chức năng Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Người bệnh sau chấn thương cột sống có
chất lượng cuộc sống khơng tốt chiếm tỷ lệ khá cao 76,9%, mức độ tổn thương tủy
sống và vị trí tổn thương tủy sống có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với chất lượng
sống của người bệnh, cụ thể những NB có mức độ tổn thương liệt tủy hồn tồn (ASIA
– A) có xu hướng cảm nhận chất lượng cuộc sống không tốt cao gấp 10,13 lần so với
nhóm NB tổn thương liệt tủy khơng hồn tồn (ASIA – B – D), những NB bị liệt tứ chi
(tổn thương từ D1 trở lên) có xu hướng cảm nhận chất lượng cuộc sống không tốt cao
gấp 8,58 lần so với nhóm NB bị liệt 2 chân (tổn thương D1 trở xuống) [9].



15
Qua tìm hiểu các nghiên cứu trong nước và ngồi nước, chúng tơi nhận thấy vấn
đề chăm sóc và nhu cầu phục hồi chức năng của người bệnh sau chấn thương tủy sống
dần được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, số lượng các nghiên cứu còn hạn chế, đặc
biệt các nghiên cứu trong nước trên đối tượng sau CTTS. Hầu hết, các nghiên cứu chỉ
mới đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng vận động, cảm giác, rối loạn chức năng
bàng quang, hơ hấp mà ít đi sâu tìm hiểu nhu cầu chăm sóc, phục hồi chức năng của
người bệnh cũng như thực trạng chất lượng cuộc sống của đối tượng người bệnh này
như thế nào, đặc biệt là ở giai đoạn điều trị tại bệnh viện. Người bệnh sau CTTS có
nhiều thay đổi về chức năng vận động, cảm giác, khả năng hội nhập trở lại xã hội và
công việc là khó khăn, các biến chứng rất đa dạng, nghiêm trọng đã tác động rất lớn
đến đời sống của họ sau khi bị bệnh. Với mong muốn góp phần vào các nghiên cứu về
đối tượng người bệnh chấn thương tủy sống chúng tôi thực hiện nghiên cứu này, sử
dụng kết quả thu được để đánh giá nhu cầu phục hồi chức năng của đối tượng, cung
cấp thêm thông tin và góp phần mơ tả bức tranh thực tế của đối tượng, từ đó giúp tìm
ra các giải pháp tăng cường chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu cầu chăm sóc, phục
hồi chức năng cho nhóm đối tượng người bệnh chấn thương tủy sống ngày một gia
tăng.


×