Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.88 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề bài : Nghiên cứu về cơ sở Triết học về quan điểm của Đảng ta “Phát
huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN” ở
Việt Nam hiện nay?
Họ và tên : Phan Văn Đoàn
Sinh ngày : 24/08/1983
Lớp : CH14B
Trường : Học viện Hành chính Quốc gia
Giảng viên bộ môn : TS. Hoàng Quang Đạt
Hà Nội ngày 24 tháng 08 năm 2009
By Teacher : Phan Diep Doan
Đề bài : Nghiên cứu về cơ sở Triết học về quan điểm của Đảng ta “Phát
huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN” ở
Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
Thuật ngữ dân chủ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, “demos” có nghĩa là nhân
dân. Ở các nền dân chủ, nhân dân là người có quyền tối cao đối với các nhà lập
pháp và chính phủ.
Mặc dù các nền dân chủ trên thế giới mang sắc thái khác nhau nhưng vẫn có
những nguyên tắc và thực tiễn nhất định để phân biệt một chính phủ dân chủ với
các hình thức chính phủ khác.
• Dân chủ là chính phủ trong đó tất cả công dân sử dụng quyền lực và thực
hiện trách nhiệm công dân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
những đại diện được bầu lên một cách tự do.
• Dân chủ là một loạt các nguyên tắc và thực tiễn bảo vệ quyền tự do của
con người; đó là sự thể chế hoá quyền tự do.
• Dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số, cùng với quyền của cá nhân và các
nhóm thiểu số. Tất cả các nền dân chủ khi tôn trọng ý chí của đa số cũng
đồng thời bảo vệ nghiêm chỉnh các quyền cơ bản của cá nhân và các


nhóm thiểu số.
• Các nền dân chủ chống lại các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập
trung hoá chính quyền ở cấp độ khu vực và địa phương, vì rằng nhân dân
phải được tiếp cận chính quyền địa phương và chính quyền địa phương
phải đáp ứng nhân dân một cách tốt nhất có thể.
• Các nền dân chủ hiểu rằng một trong những chức năng cơ bản của họ là
bảo vệ những quyền cơ bản của con người như tự do ngôn luận và tôn
giáo; quyền được bảo vệ bình đẳng theo pháp luật; được tổ chức và tham
gia đầy đủ vào đời sống chính trị, kinh tế và văn hoá của xã hội.
2
• Các nền dân chủ tiến hành đều đặn các cuộc bầu cử công bằng và tự do
cho tất cả công dân. Các cuộc bầu cử ở một nền dân chủ không thể là vỏ
bọc che đậy cho những kẻ độc tài hay một đảng nào mà bầu cử là những
cuộc cạnh tranh đích thực nhằm dành được sự ủng hộ của nhân dân.
• Dân chủ buộc các chính phủ phải tuân thủ pháp quyền và đảm bảo rằng
tất cả công dân đều được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật và các quyền
của họ được hệ thống pháp luật bảo vệ.
• Các nền dân chủ rất đa dạng, phản ánh đời sống chính trị, xã hội và văn
hoá riêng biệt của mỗi nước. Các nền dân chủ dựa trên những nguyên tắc
cơ bản chứ không phải những thực tiễn mang tính đồng nhất.
• Công dân ở một nền dân chủ không những có quyền mà còn có nghĩa vụ
tham gia vào hệ thống chính trị và đổi lại hệ thống chính trị đó bảo vệ các
quyền và tự do cho họ.
• Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thoả
hiệp. Các nền dân chủ nhận thấy rằng để đạt được sự đồng thuận đòi hỏi
phải thoả hiệp và điều đó không phải lúc nào cũng có thể đạt được. Theo
lời của Mahatma Gandhi “bản thân sự không khoan dung là một hình thức
bạo lực và là cản trở đối với sự phát triển tinh thần dân chủ thực sự”.
Dân chủ có thể là một từ quen thuộc với nhiều người, nhưng nó là một khái
niệm vẫn bị hiểu sai và sử dụng sai khi các chế độ chuyên chính và các chính thể

quân sự độc tài lợi dụng để kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng bằng cách tự gắn
cho mình cái mác dân chủ. Tuy thế, sức mạnh của tư tưởng dân chủ cũng đã tạo
nên những biểu hiện sâu sắc nhất và nhanh chóng nhất trong lịch sử của ý chí và
trí tuệ con người: từ Pericles thời Aten cổ đại tới Vaclav Havel ở Cộng hòa Séc
hiện đại, từ Tuyên ngôn Độc lập của Thomas Jefferson năm 1776 tới các bài
diễn văn cuối cùng của Andrei Sakharov năm 1989.
Theo định nghĩa trong từ điển, dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi nhân
dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi
nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do”. Theo
Abrham Lincoln, dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và vì dân”.
Tự do và dân chủ thường hay được sử dụng thay lẫn nhau nhưng hai từ này
không đồng nghĩa với nhau. Dân chủ thực tế là một tập hợp những tư tưởng và
nguyên tắc về tự do và cũng bao gồm một tập hợp các thông lệ và các thủ tục đã
được đúc kết lại từ quá trình lâu dài, thường không bằng phẳng, của lịch sử. Một
cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa tự do. Trên cơ sở này chúng ta có thể
3
định rõ được các nguyên tắc cơ bản đã được thử thách qua thời gian đối với một
chính phủ lập hiến, vấn đề nhân quyền, vấn đề bình đẳng trước pháp luật mà bất
cứ một xã hội nào được gọi là dân chủ theo đúng nghĩa của nó cũng cần phải có.
CÁC CỘT TRỤ CỦA NỀN DÂN CHỦ
• Quyền tối cao của nhân dân.
• Chính phủ được thành lập dựa trên sự nhất trí của người dân.
• Nguyên tắc đa số.
• Các quyền thiểu số.
• Đảm bảo các quyền cơ bản của con người.
• Bầu cử tự do và công bằng.
• Bình đẳng trước pháp luật.
• Thực hiện đúng luật.
• Hiến pháp đặt ra các giới hạn quyền lực của chính phủ.
• Đa nguyên về chính trị, kinh tế và xã hội.

Thúc đẩy các giá trị của dung hòa, thực dụng, hợp tác và thỏa hiệp
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Đảng thông qua Nhà nước để lãnh đạo xã hội và quản lý đất
nước; Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ
chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng cầm quyền. Mọi chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân,
phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn
có trách nhiệm, không chỉ là người thụ hưởng mà còn góp phần tích cực, quan
trọng vào việc xây dựng, hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới lạ, mà là một
phạm trù có nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và phát triển của tư
tưởng: “Nhà nước pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của dân chủ,
của tư tưởng loại trừ sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp
luật với hình thức pháp lý của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Đó là hai
yếu tố không thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp quyền nói chung. Trong
khoa học pháp lý bàn về khái niệm Nhà nước pháp quyền vẫn còn nhiều quan
điểm và cách tiếp cận khác nhau. Song khái niệm đã được hiểu tập trung theo
hai khía cạnh chủ yếu sau:
Ở nghĩa chung nhất, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp luật
(đạo luật) thống trị trong xã hội. Nhà nước phải điều chỉnh được các quan hệ xã
4
hội bằng pháp luật, một quốc gia nào đó chủ yếu điều chỉnh bằng văn bản dưới
luật thì quốc gia đó chưa đủ về chất của Nhà nước pháp quyền. Mặt khác, Nhà
nước pháp quyền cũng được hiểu là một hình thức tổ chức Nhà nước và hoạt
động chính trị quyền lực công khai (công quyền), thể hiện mối quan hệ bình
đẳng giữa các cá nhân và Nhà nước dựa trên cở sở của pháp luật.
Trong cuốn tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng

có định nghĩa: Nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải là một
kiểu nhà nước, trong lịch sử chỉ có bốn kiểu nhà nước: chủ nô, phong kiến, tư
sản, xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền nói một cách khái quát là hệ thống
các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của
bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước
quản lý xã hội theo pháp luật. Đương nhiên, bao giờ pháp luật cũng mang tính
giai cấp, phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Như vậy, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm, tư
tưởng rất phức tạp, phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng
chung quy lại Nhà nước pháp quyền là khái niệm bao hàm những nội dung rất
phong phú, chứa đựng những đặc trưng, những mặt cơ bản, ghi nhận một trạng
thái phát triển, một trình độ phát triển của Nhà nước và tiến bộ xã hội. Nhà nước
pháp quyền hiểu chung nhất là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
pháp luật, trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nước đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính phổ biến cao (đề cao tính tối cao của
Hiến pháp và luật), phù hợp với ý chí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất
của xã hội, của con người.
Nhà nước pháp quyền có các đặc trưng cơ bản sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo tính tối cao của pháp luật,
trong đó pháp luật là ý chí chung của nhân dân. Đảm bảo sự thống trị của pháp
luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Là nhà nước có hệ thống pháp luật
hoàn thiện, trong đó đề cao vai trò của Hiến pháp và các đạo luật. Tính bắt buộc
của pháp luật đối với bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân.
Pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội.
Nhà nước trong thiết chế của nhà nước pháp quyền là nhà nước tuân thủ pháp
luật, mặc dù nhà nước là người ban hành ra pháp luật đó.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự
do, dân chủ của công dân. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên
bố các quyền tự do của công dân mà cũng phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các
quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì mà

pháp luật không cấm trong khuôn khổ pháp luật, không xâm phạm đến tự do của
người khác, pháp luật chỉ cấm những người có hành vi gây hại cho xã hội.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà
nước và công dân; quyền của công dân là trách nhiệm của nhà nước và ngược lại
quyền của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải chịu trách
nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình cũng công dân phải thực hiện
5
nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những hành vi vi
phạm pháp luật của mình.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước phải có hình thức tổ chức quyền lực
nhà nước thích hợp và có cơ chế hữu hiệu giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý
vi phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, chống chuyên quyền,
lạm quyền.
Suốt trong cả chiều dài lịch sử của sự phát triển tư tưởng về nhà nước pháp
quyền cho thấy những đặc trưng của nhà nước pháp quyền thể hiện những tư
tưởng, quan niệm tiến bộ trong quá trình tìm tòi hình thức tổ chức, hoạt động
của quyền lực công cộng trong một “xã hội công dân” thay thế “xã hội thần
dân”.
Dựa trên các Văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam và Hiến pháp nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản
thuộc nội hàm khái niệm nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như sau:
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước phải có hệ thống
pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao thể hiện được ý chí, lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với hiện thực
khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến pháp và các đạo luật phải giữ
vị trí tối cao. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cán bộ, công chức nhà
nước và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước bảo đảm tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông

qua hình thức dân chủ đại diện (qua cơ quan nhà nước do mình bầu ra) và hình
thức dân chủ trực tiếp.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực hiện được quản lý xã hội
bằng pháp luật, tăng cường được pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh mọi
vi phạm pháp luật, bảo đảm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do và lợi ích
chính đáng, hợp pháp của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi
hoạt động của mình.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước tổ chức theo nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp,
nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công
dân từ phía Nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng cộng sản
Việt nam lãnh đạo. Đây là đặc điểm đặc trưng, cơ bản, rất quan trọng mang tính
lý luận và đó được kiểm chứng bằng thực tế lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện
những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh ước mơ và khát vọng của
nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội có giai cấp. Trong
6
điều kiện đổi mới hiện nay, chúng ta đặt vấn đề đẩy mạnh cải cách tổ chức và
hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam, thực chất là tiếp thu những quan điểm tích cực, tiến bộ và khoa học
về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đoàn kết dân tộc
mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân - nông dân - trí thức do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là, Nhà nước đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân, nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân, quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là, Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh,

kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do
dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện từ phía cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan,
vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đó
là, Nhà nước mà mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng, cán
bộ, công chức đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ
chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Trong tình hình mới của cách mạng Việt nam, Đảng và nhà nước ta đó sáng
suốt khẳng định nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế là xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân. Nói cách khác việc xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt nam là một tất yếu khách quan. Nhận thức này được coi là
một thắng lợi của quá trình đổi mới trong tiến trình xây dựng nhà nước XHCN ở
nước ta. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhà
nước pháp quyền XHCN Việt nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực
nhân dân. Hiến pháp 1992 khẳng định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dõn. Trong thực tế, qua hơn 20 năm đổi mới, thực tiễn đó chứng minh quỏ trình
cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Đây phải được coi là thành
công quan trọng đầu tiên của thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
ở nước ta.
Quá trinh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam gắn liền với
quá trình phỏt triển lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và
vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Ngay từ khi ra đời Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa và nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đó là Nhà nước mang bản chất của nhà nước kiểu mới được xây dựng trên

nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tính pháp quyền trong tổ chức, hoạt động
của nhà nước đó thể hiện trong nhiều văn kiện Đảng và thể hiện ngày càng rõ rệt
7

×