Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT LAO ĐỘNG VIỆC LÀM TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.04 KB, 29 trang )

THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VÀ THỰC TRẠNG
GIẢI QUYẾT LAO ĐỘNG VIỆC LÀM TẠI VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
1. Đánh giá tình hình lao động và giải quyết việc làm trong nông thôn thời kỳ
1990-2000
1.1. Đặc điểm nguồn lao động nông thôn
Việt Nam thuộc loại hình dân số trẻ, có tốc độ tăng dân số cao, quy mô
tương đối lớn nên lực lượng lao động rất dồi dào, đặc biệt là khu vực nông thôn,
lao động chiếm tỷ trọng lớn. Cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn tuổi
từ 15-24 chiếm 34,25%, tuổi từ 25-44 chiếm 50,75%, còn lại nhóm từ 45 đến hết
tuổi lao động (nữ tới 55, nam tới 60) chỉ chiếm 15%.
Hàng năm, nguồn lao động cả nước vẫn tiếp tục gia tăng ở mức cao, khoảng
3% với trên 1,3 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, trong đó có khoảng 80-90
vạn người ở khu vực nông thôn. Ngoài ra ở khu vực này còn có hàng triệu lao động
trên và dưới tuổi có khả năng làm việc và có nhu cầu làm việc. Đó là điều kiện cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế trong tương lai, khi tăng tính toàn dụng nguồn
nhân lực và năng suất lao động ở nông thôn. Song áp lực việc làm cũng đặt ra rất
lớn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, bất lợi cả về mặt kinh tế và xă hội. Điều này
đòi hỏi chúng ta phải phân tích, đánh giá kỹ đặc điểm nguồn lao động nông thôn,
tạo cơ sở cho việc định hướng và đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm sử dụng có
hiệu quả nguồn lực này.
Dưới đây là một số đặc điểm cơ bản của nguồn lao động nông thôn nước ta
hiện nay.
1.1.1. Nguồn lao động nông thôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng nhanh
Với quy mô dân số khá lớn, tốc độ tăng còn cao (quy mô dân số đứng hàng
thứ 12 trên thế giới và tốc độ tăng gấp 1,5 lần tốc độ tăng của toàn thế giới) nên
Việt Nam thuộc loại dân số trẻ và tăng nhanh. Cụ thể dân số nước ta dã tăng từ 66
triệu người (năm 1990) lên trên 78 triệu người (năm 1998). Bình quân mỗi năm
tăng khoảng 1,5 triệu người, tỷ lệ tăng dân số ở mức 2%. Đến năm 1998, nguồn lao
động xã hội có trên 43 triệu, chiếm 55,23% dân số cả nước. Trong đó nữ chiếm
51%, khu vực nông thôn có 33,49 triệu người chiếm 77,6%.


Bảng 1: Cơ cấu dân số trong tuổi lao động chia theo nam, nữ, thành thị,
nông thôn giai đoạn 1990-1999.
Chỉ
tiêu
1991 1994 1996 1997 1998
Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
%
Dân số
toàn
quốc
67774 72692 75340 76709 78059
Dân số
trong
tuổi LĐ
35978 100 39107 100 41044 100 42020 100 43112 100
Thành
thị
7271 20,21 8264 21,13 9075 21,11 9508 21,2 9657 22,4
Nông
thôn
28707 79,79 30843 78,87 31969 78,89 32512 78,8 33455 77,6

Nguồn: - Số liệu điều tra lao động - việc làm toàn quốc 1996 (Bộ lao động thương
binh xã hội và Tổng cục Thống kê)
- Luận cứ khoa học chính sách dân số - lao động nông thôn Việt Nam
(KX0604).
Qua số liệu trên ta thấy, lao động nông thôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng
số lao động cả nước, tuy có xu thế giảm nhưng vẫn tăng nhanh về số tuyệt đối.
Bảng 2: Tổng hợp một số chỉ tiêu chủ yếu về dân số - lao động
1990 1993 1996 1999
Dân số(nghìn người) 66233,0 71025,6 75355,2 76327.8
Tỷ lệ tăng/năm 2,3 2,33 1,88
- Thành thị, % 20,4 19,5 20,3
- Nông thôn, % 79,6 80,5 79,7
- Nam,% 48,8 48,7 49,0 49.15
- Nữ, % 51,2 51,3 51,0 50.857
Lao động, nghìn người 30286 32718 36791,9 46146.4
- Lao động N-L-N 25771 - 28623

Nguồn: Niên giám thống kê các năm 1994-1997, NXB Thống kê, HN,
1995,1996,1997,1998, 1999. Số liệu Thống kê Nông - lâm nghiệp, thuỷ sản Việt Nam
và dự báo năm 2000; Thực trạng lao động và việc làm ở VN, NXB Thống kê, HN,
1999.
Qua bảng trên ta thấy trong khoảng 8 năm từ 1990 đến 1998, dân số nước ta
tăng thêm 10-11 triệu người. Như vậy mỗi năm dân số trung bình tăng khoảng trên
1 triệu người. Trong đó tỷ lệ dân cư nông thôn vẫn tiếp tục tăng cao và giảm không
đáng kể, tỷ lệ nữ vẫn trên dưới 51% (Bảng 2).
Tỷ lệ tăng dân số cao làm tăng nguồn lao động xã hội. Giai đoạn 1989-1995,
lao động tăng trung bình 1,45 triệu người/năm, dẫn đến tổng lực lượng lao động cả
nước là 28,744 triệu người năm 1989 và 34,599 triệu năm 1995. Giai đoạn 1995-
1997, lao động tăng trung bình 1,17 triệu người/năm. Kết quả là tổng lực lượng lao
động xã hội năm1997 là 36,994 triệu với tốc độ tăng tương ứng, đến năm 1999 lực

lượng lao động xã hội đạt con số trên 46 triệu.
Đặc biệt, tỷ lệ tăng dân số ở các vùng nông thôn luôn luôn cao hơn ở khu
vực thành thị. Trong giai đoạn 1989-1999, tổng số hộ nông thôn tăng bình quân
2,6% đến năm 1998, tổng số hộ nông thôn là 11,97 triệu hộ, tăng 13,4% so với năm
1989. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của chính sách giao đất nông nghiệp
cho hộ sử dụng lâu dài dân đến việc tách hộ và hai là số cặp vợ chồng trẻ muốn
sống độc lập với bố mẹ đã tách hộ để thành lập gia đình riêng.
1.1.2. Nguồn lao động nông thôn phân bố giữa các vùng và các ngành không
hợp lý
Về mặt phân bố dân cư và lao động theo vùng ở nước ta thể hiện một sự
tương phản rõ nét. Năm 1993, trong khi mật độ dân số chung của cả nước là 214
người/km
2
thì ở Đồng bằng sông Hồng có mật độ dân cư cao nhất là trên 1104
ngưòi/km
2
, trong khi đó ở Tây Nguyên nơi có mật độ dân cư thấp nhất là 52
người/km
2
. Mật độ dân số nông nghiệp chung của cả nước năm 1993 là 149,7
nghười/km
2
. Trong khi ở Đồng bằng Bắc Bộ tới 815,3 người/km
2
, ở Tây Nguyên
33 người/km
2
. Đồng bằng sông Cửu Long 318 người/km
2
, miền núi trung du Bắc

Bộ 93 người/km
2
.
Như vậy, dân cư nước ta phân bố tại các vùng không đồng đều, đại bộ phận
tập trung tại các vùng đồng bằng, trong khi đó ở các vùng miền núi có tiềm năng
đất đai lớn thì dân cư lại thưa thớt. Đặc biệt là hai đồng bằng: sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu Long - hai vựa lúa chủ yếu của Việt Nam có mật độ dân cư cao
nhất. Hai đồng bằng chỉ chiếm 15,7% lãnh thổ của cả nước song chiếm tới 45,51%
hộ nông nghiệp cả nước, 49,95% số khẩu nông nghiệp và 47,29% lao động cả
nước.
Mật độ dân cư và lao động nông nghiệp phân bố giữa các vùng quá chênh
lệch, chưa tạo được sự gắn kết tối ưu trong việc khai thác các nguồn tiềm năng to
lớn này ở nông thôn.
Mặt khác, nguồn lao động nông thôn phân bố giữa các ngành nghề cũng
không đồng đều và năng suất lao động thấp. Thực tế cho thấy sự phân công lao
động ở nông thôn tới nay mặc dù đã có sự chuyển biến nhưng chậm, lao động vẫn
tập trung vào sản xuất nông nghiệp trong điều kiện đất đai chật hẹp, trình độ thâm
canh thấp. Tuy nhiên, việc mở mang các ngành nghề phi nông nghiệp còn rất hạn
chế. Năm 1996, cả nước có gần 12 triệu hộ nông dân thì có tới 9,5 triệu hộ thuần
tuý nông nghiệp , chiếm tỷ lệ 79,58% tổng số hộ nông thôn. Nếu kể cả hộ nông
nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, tỷ lệ hộ phi nông nghiệp trong nông thôn chỉ
chiếm 18,35%. Trong số hộ phi nông nghiệp này, số hộ hoạt động công nghiệp, thủ
công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm tỷ lệ thấp, chỉ 1,61% so với tổng số hộ nông
thôn; số hộ hoạt động thương nghiệp, dịch vụ cũng chỉ chiếm tỷ lệ thấp 4,39% so
với hộ nông thôn, trong khi đó số hộ khác chiếm tỷ lệ 12,35%.
Lao động nông nghiệp vẫn chiếm đại đa số trong cơ cấu lao động (76%), so
với năm 1996 là 81,52%, công nghiệp dịch vụ năm 1999 là 8,3% và 14,7% giảm
không đáng kể so với năm1996. Cụ thể việc phân bố lực lượng lao động nông thôn
theo vùng và theo ngành kinh tế năm1996 như sau:
Bảng 3: Cơ cấu ngành nghề của lao động nông thôn theo vùng:

1996 1999
N-L-N CN-XD DV N-L-N CN-XD DV
Tổng số 81.523 6.870 11.607 76.844 8.396 14.760
ĐB sông Hồng 85.206 6.290 8.504 75.649 10.750 13.602
Núi và Trung du 93.303 2.035 4.662 83.030 5.908 11.062
Bắc Trung Bộ 86.302 5.513 8.185 79.424 8.417 12.159
Nam Trung Bộ 79.836 7.274 12.890 75.235 8.990 15.775
Tây Nguyên 88.105 3.765 8.129 88.934 2.231 8.836
Đông Nam Bộ 57.228 19.693 23.079 63.869 13.826 22.269
ĐB S. Cửu Long 73.210 8.191 18.600 71.185 8.469 20.347
Nguồn: Thực trạng lao động và việc làm Việt Nam 1996,1999, NXB Thống kê.
So với cơ cấu lao động chung của cả nước, cơ cấu lao động ở nông thôn thể
hiện sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, nhất là ở các vùng núi và trung du có điều
kiện khó khăn về cơ sở hạ tầng phát triển công nghiệp. Đặc biệt có vùng như Tây
Nguyên, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong nông thôn hầu như không giảm mà
lại tăng thêm. Đồng bằng sông Hồng với những nỗ lực rất lớn trong phát triển các
ngành nghề phi nông nghiệp, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm đáng kể (10%).
Chung cho các vùng nông thôn, lao động nông nghiệp trong thời gian từ
1996 đến 1999 tăng với tốc độ 2,6%; công nghiệp, dịch vụ tăng 11% và 13%. Điều
này cho thấy mặc dù chủ trương chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang các hoạt
động phi nông nghiệp nhưng trong nông thôn khả năng tiếp nhận lao động của các
ngành công nghiệp, dịch vụ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Trong 3 năm
vẫn có tới 1,69 triệu lao động tăng thêm trong ngành nông nghiệp, chỉ có trên 750
ngàn lao động tăng thêm trong ngành công nghiệp xây dựng và ở khu vực dịch vụ
là 1,4 triệu lao động.
1.1.3. Chất lượng nguồn lao động nông thôn
Chất lượng nguồn lao động nông thôn là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh
nhiều yếu tố: trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật, tay nghề, thể trạng sức khoẻ của
những người lao động, v.v…
Theo báo cáo thực trạng lao động và vệc làm năm 1999, nhìn chung trình độ

học vấn của lực lượng lao động thường xuyên ngày càng được nâng cao, tỷ lệ số
người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học ngày càng giảm. Năm 1996, tỷ lệ
lao động biết chữ của nước ta đạt 94,25%. Riêng khu vực nông thôn là 93,43%,
trong khi đó người chưa tốt nghiệp PTCS là 40%, tốt nghiệp PTTH là trên 9%.
Bảng 4: Trình độ văn hoá của lực lượng lao động
Thành thị Nông thôn Chung
Lực lượng lao động (%) 100 100 100
Chưa biết chữ 1,43 4,89 4,12
Chưa tốt nghiệp tiểu học 10,51 20,11 17,97
Đã tốt nghiệp tiểu học 22,73 30,65 28,89
Đã tốt nghiệp PTCS 27,91 33,09 31,94
Đã tốt nghiệp PTTH 37,42 11,26 17,09
Nguồn: Thực trạng lao động và việc làm Việt Nam, NXB Thống kê 1999.
So sánh giữa khu vực thành thị và nông thôn: lực lượng lao động ở khu vưc
nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn hẳn khu vực thành thị. Lực lượng lao động
ở thành thị đã tốt nghiệp cấp II và cấp III chiếm 65,33% cao hơn tỷ lệ chung của
toàn quốc là 16,3%. Trong khi đó, ở khu vực nông thôn tỷ lệ này chỉ chiếm 44,35%
thấp hơn tỷ lệ chung toàn quốc là 4,68%. Điều đó cho thấy mức chênh lệch trình
độ văn hoá giữa nông thôn và thành thị là rất lớn, bên cạnh đó trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và tay nghề của người lao động ở nông thôn cũng ở mức độ thấp. Hầu
hết là lao động giản đơn, với công cụ lao động thủ công, lạc hậu, quá trình sản xuất
dựa vào kinh ngiệm là chính. Lực lượng lao động lành nghề, lao động chất xám
không đáng kể, lại phân bố không đều, chưa gắn với sản xuất, với phát triển kinh tế
xã hội ở nông thôn. Đây cũng là một trong những nhân tố gây cản trở rất lớn đến
việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động vào sử dụng
hợp lý, có hiệu quả nguồn lao động theo hưóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nông thôn ở nước ta hiện nay.
Về trình độ chuyên môn của lao động nông thôn, theo số liệu điều tra
năm1997, số lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 92,7%, cao
hơn mức cả nước là 5, có chuyên môn kỹ thuật là 9,3%. Trong đó, công nhân kỹ

thuật (có bằng và không có bằng) và sơ cấp chiếm 4,2%, trung học chuyên nghiệp
chiếm 2,65%, cao đẳng và đại học 0,94% và trên đại học 0,006%. Đến năm 1998,
con số này đã được cải thiện với 87,71% số lao động không có chuyên môn kỹ
thuật và 12,29% được đào tạo. Song qua số liệu ta thấy, hầu hết lao động nông thôn
vẫn chưa được đào tạo nghề, chưa có chuyên môn kỹ thuật.
Bảng 5: Cơ cấu lao động chia theo trình độ chuyên môn .
Trình độ chuyên môn
Cả nước Thành thị Nông thôn
Chung Nữ Chun
g
Nữ Chun
g
Nữ
1. Không có CMKHKT 87,71 90,05 61,24 72,06 92,70 94,48
2. Sơ cấp 1,50 1,53 2,49 3,16 1,25 1,13
3. CNKT có bằng 2,04 0,63 5,92 2,14 1,60 0,25
4. CNKT không có bằng 2,33 1,60 6,21 4,65 1,35 0,85
5.Trung học chuyên
nghiệp
3,80 3,98 8,34 10,08 2,65 2,48
6. Cao dẳng - Đại học 2,50 2,15 8,69 7,75 0,94 0,78
7. Trên đại học 0,05 0,02 0,20 0,08 0,006 0,005
8. Khác 0,04 0,02 0,11 0,06 0,02 0,01
Nguồn: Thực trạng lao động việc làm năm 1997 - NXBTK 1998.
ở khu vực thành thị, lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 28,76% gấp
2,4 lần so với tỷ lệ chung của cả nước và gấp so với khu vực nông thôn 3 lần.
Trong đó, công nhân kỹ thuật và sơ cấp chiếm 12,14%, trung học chuyên nghiệp
chiếm 8,34%, cao đẳng và đại học 8,69%, trên đại học chiếm 0,2%. Như vậy, nếu
chỉ xét riêng tỷ lệ lao động theo trình độ chuyên môn ta đã thấy mức chênh lệch về
trình độ chuyên môn giữa thành thị và nông thôn là khá lớn và ngày càng tăng.

Song khi xét thêm về quy mô lực lượng lao động của hai khu vực này thì mức
chênh lệch đó lại rất lớn. Điều này đặt ra một yêu cầu cấp bách trong thời gian tới
là Nhà nước phải không ngừng tổ chức công tác đào tạo nghề cho lao động nông
thôn nói riêng và cả nước nói chung để không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các
bước tiếp sau nữa.
Trong 7 vùng lãnh thổ, vùng có tỷ lệ lực lượng lao động có chuyên môn kỹ
thuật cao nhất là Đông Nam Bộ (17,8%); tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng
(12,19%). Vùng có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp là Đồng bằng sông Cửu
Long (7,75%).
Chất lượng nguồn lao động không chỉ thể hiện ở trình độ văn hoá, trình độ
chuyên môn kỹ thuật mà còn ở thể lực, sức khoẻ của người lao động. Thể lực của
ngưòi lao động nông thôn rất hạn chế: chiều cao trung bình của lao động nông
thôn là 156 cm, thấp hơn chiều cao bình quân của thành thị là 6cm. Trọng lượng
trung bình của cư dân nông thôn là 48kg, trong khi đó ở khu vực thành thị là 50kg.
Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở nông thôn còn khá cao, khoảng 50%.
Ngoài những đặc điểm nêu trên, trong nông thôn năng suất lao động và thu
nhập của người lao động thấp, số người ăn theo rất lớn, lao động chưa được sử
dụng còn nhiều.
Theo niên giám thông kê năm 1996, 1997 ta thấy năng suất lao động và thu
nhập của người lao động ở nông thôn rất thấp, năm 1997 là 244.419 đồng/tháng/lao
động; năm 1998 là 297.373 đồng/tháng/lao động, có tăng nhưng rất chậm. So với
một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc năng suất của nước ta tương ứng chỉ bằng
1/4, 1/12 năng suất của họ.
Cũng theo số liệu điều tra của Tổng Cục Thống kê năm1995, tỷ lệ hộ đói
nghèo ở Việt Nam là 25%, chủ yếu tập trung ở nông thôn; có 20,6% số hộ thu nhập
không đủ thanh toán khẩu phần ăn duy trì cuộc sống; có 21,55% số hộ thu nhập
dưới trung bình; có 32,62% số hộ thu nhập trung bình; có 18,13% số hộ thu nhập
khá và số hộ thu nhập cao chỉ có 7,1%. Như vậy số hộ có mức thu nhập dưới trung
bình và số hộ thu nhập không đủ thanh toán khẩu phần ăn chiếm tới 42,15%. Sự

chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo ở nông thôn là5,62 lần.
Bên cạnh đó, số người ăn theo trong nông thôn rất lớn. Theo điều tra lao
động việc làm của Bộ Lao Động - Thương binh Xã hội (năm 1996), số khẩu nông
thôn hiện có 57 triệu người trong đó có 27,38 triệu người có khả năng lao động. Cụ
thể bình quân khẩu, lao động/hộ ở các vùng như sau:
Bảng 6:
Khu vực
Bình quân khẩu/hộ
(người)
Bình quân lao
động/hộ (người)
Chung 4,77 2,29
Trung du miền núi Bắc Bộ 5,00 2,33
Đồng bằng sông Hồng 4,10 1,97
Khu bốn cũ 4,71 2,05
Ven biển miền Trung 7,82 2,32
Tây Nguyên 5,18 2,30
Đông Nam Bộ 4,95 2,51
Đồng bằng sông Cửu Long 5,12 2,67
Mặt khác, ngoài số lao động thất nghiệp hữu hình trong nông thôn còn tồn
tại một bộ phận lao động thất nghiệp dưới dạng trá hình, không sử dụng hết quỹ
thời gian lao động hiện có. Họ chỉ sử dụng khoảng 60-70% thời gian lao động còn
30-40% thời gian là nhàn rỗi.
Qua các đặc điểm nêu trên vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn càng gay gắt bởi không chỉ phải tạo thêm chỗ làm việc mới mà cần có biện
pháp tăng thời gian làm việc trong tổng quỹ thời gian của họ.
2/ Thực trạng việc làm trong nông nghiệp nông thôn Việt Nam
2.1. Vấn đề việc làm với phân bố quỹ thời gian của lao động nông thôn.
Khả năng tạo thêm việc làm ở khu vực nông thôn hàng năm rất hạn hẹp.
Giai đoạn 1987-1998, tỷ lệ gia tăng việc làm mỗi năm vào khoảng 2,1%. Tức là, có

thể tạo việc làm cho khoảng 1,1-1,2 triệu lao động mỗi năm. Hơn nữa, trong 10
năm qua, quá trình cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước nói chung và cải cách
DNNN nói riêng có tác động mạnh đến gia tăng số lao động dôi dư trong nền kinh
tế. Việc sắp xếp lại lao động, tinh giản bộ máy hành chính làm dôi dư gần 1 triệu
lao động. Ngoài ra, thực hiện việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã dôi ra
hàng chục vạn lao động phải đi tìm việc làm ở khu vực ngoài kinh tế quốc doanh,
trong đó một sốlượng lớn lao động chuyển về nông thôn tìm kiếm việc làm từ sản
xuất nông nghiệp. Phần lớn những lao động này chỉ làm những công việc tạm thời,
buôn bán lặt vặt, hoặc làm thuê trong khu vực phi chính thức, công việc không ổn
định, làm cho nhu cầu việc làm ở nông thôn càng tăng lên.
Thời gian vừa qua, việc làm nông thôn phụ thuộc chủ yếu vào đất đai canh
tác. Thiếu đất đai canh tác, ở mức độ nào đó, đồng nghĩa với thiếu việc làm của lao
động nông thôn và đặc biệt là lao động nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp
bình quân một hộ là 4984m
2
. ở đồng bằng sông Cửu Long là 10149m
2
. Tỷ

lệ thấp
nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ: 2284m
2
, chênh lệch nhau tới 4,4 lần, nhiều hộ gia
đình đã kết hợp phát triển nghề phụ hoặc đã chuyển sang hoạt động phi nông
nghiệp nhưng vẫn giữ lại đất nông nghiệp được giao và đăng ký là lao động nông
nghiệp.
Tình trạng thiếu việc làm hay còn gọi là thất nghiệp bộ phận, bán thất
nghiệp, là đặc trưng phổ biến của lao động nông thôn. Khu vực nông thôn chiếm
khoảng 76% lực lượng lao động cả nước, trong đó thường xuyên có gần 30% lao
động thiếu việc làm, trong đó phổ biến nhất là thiếu mang tính thời vụ.

Theo một khảo sát của trung tâm Nghiên cứu Dân số và Nguồn Lao động
năm 1994, tình hình sử dụng thời gian lao động của hộ gia đình nông dân khá thấp.
Phần lớn lao động nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 72-73% thời gian lao
động trong năm (hình ). Tính trung bình một lao động nông nghiệp ở vùng đồng
bằng sông Hồng chỉ sử dụng hết 26 ngày công để thực hiện toàn bộ công việc trên
diện tích một sào đất nông nghiệp được giao trong một vụ. ở một số vùng, tỷ lệ
thời gian chưa sử dụng hết còn khá cao như Tây Nguyên (32%), ven biển Nam
Trung Bộ (30%). Cá biệt có vùng (Châu Giang, Hưng Yên) tỷ lệ thời gian nông
nhàn lên tới 40% thời gian làm việc trong năm.

×