Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản khảo cổ học ở Hội An: Thành tựu, thách thức và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.51 KB, 9 trang )

DI SẢN VĂN HÓA

NGHIÊN CỨU, BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN KHẢO CỔ HỌC Ở HỘI AN:
THÀNH TỰU, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG
LÂM THỊ MỸ DUNG
ĐỒN VĂN LN

Tóm tắt
Hội An nằm ở lưu vực sông Thu Bồn, là nơi tập trung đậm đặc nhất các di tích văn hóa Sa Huỳnh
(được biết cho tới nay). Các di tích khảo cổ học Tiền, Sơ sử ở Hội An có giá trị nổi bật về quá trình liên
tục (kế thừa và phát triển) văn hóa, chứng tỏ mảnh đất này hội tụ đầy đủ các điều kiện thiên thời - địa
lợi - nhân hịa và có những chuyển biến bước ngoặt về chính trị, tư tưởng,… trong suốt mấy ngàn năm
(từ cách đây 3.500 năm đến hiện nay). Các di sản khảo cổ học ở Hội An đã và đang được quản lý một
cách bài bản, đúng luật và thực sự đã phát huy giá trị qua hệ thống bảo tàng tổng hợp và chuyên đề
ngay trong di sản phố cổ, qua các hoạt động lễ hội hay hoạt động văn hóa lồng ghép vật thể với phi vật
thể. Có thể nói, Hội An là một điển hình về sử dụng giá trị của quá khứ cho phát triển hiện tại và tương
lai. Tuy nhiên, giống như nhiều đô thị du lịch khác trên thế giới cũng như Việt Nam, các di sản khảo cổ
học ở Hội An đang đối mặt với rất nhiều thách thức và nguy cơ từ đơ thị hóa, gia tăng dân số, q tải
du lịch, tồn cầu hóa, biến đổi khí hậu,… địi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu, đưa ra những giải pháp tiên
tiến khả thi trong việc bảo vệ và phát huy giá trị của những tài ngun “khơng tái tạo” này.
Từ khóa: Di sản khảo cổ học, tài nguyên văn hóa, bảo tồn phát huy, Hội An
Abstract
Hoi An is located in the Thu Bon river basin, which has the most condensed concentration of Sa
Huynh cultural relics (up to present). Archaeological vestiges of pre-history and early history in Hoi An
have a remarkable value on the continuous process (inheriting and developing) of culture, proving
that this land has full converges of conditions and making significant changes in politics, ideology,...
during thousands of years (from 3,500 years ago to present). The archaeological heritages in Hoi An
have been methodically and legally managed and really promoted their values through the system of
integrated and thematic museums right in the heritage of the old town, through festival activities or
cultural activities that integrate tangible objects with intangible objects. It can be said that Hoi An is a


typical example of using the value of the past for present and future development. However, like many
other tourist cities in the world as well as in Vietnam, the archaeological heritage in Hoi An has been
facing many challenges and risks from urbanization, population growth, globalization and overloaded
tourism, climate change, etc. It requires further research and proposals of feasible advanced solutions
to protect and promote the value of these “non-renewable” resources.
Keywords: Archaeological heritage, cultural resources, conservation, promotion, Hoi An
1. Quá trình nghiên cứu di sản khảo cổ học

với những cuộc khảo sát toàn diện khu vực nội

ở Hội An

thị và ngoại thị đô thị cổ của Trung tâm Nghiên

V

iệc nghiên cứu khảo cổ học (KCH) ở
Hội An, đặc biệt là các di tích Tiền,
Sơ sử thật sự bắt đầu từ năm 1989

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

cứu liên văn hóa lịch sử, Khoa Lịch sử, Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

5



VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Quốc gia Hà Nội) phối hợp cùng Ban Quản
lý di tích Hội An. Từ đó đến nay, việc nghiên
cứu KCH vẫn được duy trì lúc liên tục, lúc ngắt
quãng. Kết quả nghiên cứu KCH Hội An đóng
góp đáng kể vào việc xây dựng hồ sơ đệ trình
ghi danh di sản thế giới UNESCO và luôn được
phát huy giá trị trong đời sống hiện nay dưới
các hình thức trưng bày bảo tàng, du lịch văn
hóa… Những nghiên cứu KCH ở Hội An ln là
sự kết hợp hài hịa và chặt chẽ, bình đẳng giữa
Trung ương và địa phương. Từ những cuộc
nghiên cứu này, đội ngũ cán bộ KCH, dân tộc
học và bảo tàng học Hội An được hình thành
và lớn mạnh không ngừng.
Kết quả khai quật và nghiên cứu cho thấy
tại Hội An một diễn trình văn hóa khảo cổ của
các thời kỳ lịch sử như sau: Từ cách đây 3.500
năm (văn hóa Tiền Sa Huỳnh); từ cách đây
2.300 năm đến cuối thế kỷ I TCN (văn hóa Sa
Huỳnh); thời kỳ Quận Nhật Nam; thời kỳ Lâm
Ấp; thời kỳ Champa.
1.1. Thời kỳ Tiền Sa Huỳnh - Sa Huỳnh
Dấu tích Tiền Sa Huỳnh ở Hội An được phát
hiện tại Bãi Ông, được đào thám sát tháng
3/1999 và khai quật tháng 6/2000. Địa điểm

nằm tại cồn cát trong, sát núi, phía sau khu
vực Lăng Ơng - Bãi Ơng - Hịn Lao Chàm, có
diện phân bố rộng, bao phủ phần lớn diện tích
của cồn cát trong, nằm kẹp giữa hai khe nước.
Di vật Bãi Ơng điển hình cho giai đoạn Long
Thạnh tìm thấy cả trên đất liền và trên các đảo.
Điều này cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa
các cộng đồng cư dân từ cách đây trên 3.000
năm. Di tích đã được khoanh vùng bảo vệ,
nhưng trên thực tế đã bị phá hủy khá nhiều do
các yếu tố tự nhiên cũng như xã hội.
Các di tích và di vật văn hóa Sa Huỳnh ở Hội
An được phát hiện khá muộn so với nhiều địa
bàn khác, từ 1989. Bên cạnh những nét chung,
có nhiều điểm riêng, độc đáo, đó là tính chất
giao lưu, giao thương mạnh mẽ thể hiện qua
sự hiện diện của các cộng đồng cư dân giàu
có của lãnh địa Sa Huỳnh ở lưu vực sông Thu
Bồn, sinh sống và buôn bán tại những điểm
6

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

nút quan trọng trong giao thương, giao lưu và
cho thấy những chứng cứ chứng minh sự nối
tiếp giữa Sa Huỳnh - Lâm Ấp - Champa.
Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An có hai giai đoạn
đều thuộc thời kỳ muộn và thời kỳ kết thúc
của nền văn hóa này. Nhóm muộn gồm những
địa điểm mộ chum giai đoạn phát triển của

văn hoá Sa Huỳnh, với loại quan tài gốm, chủ
đạo là chum hình trụ có kích thước lớn, đồ tuỳ
táng có cơng cụ sắt, trang sức bằng thuỷ tinh,
mã não. Loại hình mộ đất vẫn được thực hành
bên cạnh mộ chum, trong nhiều địa điểm đã
xuất hiện đồ đồng (gương, lục lạc, đồ đựng,
đồ dùng) có nguồn gốc từ Trung Hoa (Hán),
bắt đầu xuất hiện một số loại hình và trang trí
gốm và kim loại xem ra chịu ảnh hưởng của
Hán như dao sắt có chi hình vành khăn kiểu
Tây Hán, qua đồng, qua sắt, bát có chân trổ lỗ
tam giác kiểu “đậu” ở Động Cườm… Những
địa điểm điển hình: An Bang, Hậu Xá, (tương
đương với các địa điểm như Bình Yên, Gò Dừa,
Lai Nghi, Tiên Lãnh, Đại Lãnh, Động Cườm,… ở
các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định).
Nhóm muộn nhất thuộc giai đoạn kết thúc của
văn hoá Sa Huỳnh và kéo dài tới những thế kỷ
đầu Công nguyên. Chum mai táng nhiều loại
hình. Đồ tuỳ táng bằng sắt và bằng đồng, đồ
trang sức bằng mã não, thủy tinh, vàng. Bộ đồ
tuỳ táng này vẫn tiếp tục phản ánh quan hệ
giao lưu văn hố mạnh mẽ với bên ngồi như
Trung Hoa và Ấn Độ. Sưu tập hiện vật Hậu Xá II
cho thấy ở Hội An có những cộng đồng cư dân
thuộc thời kỳ kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh.
Hội An nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, lưu vực
sông này cùng các chi lưu là nơi tập trung đậm
đặc nhất các di tích văn hóa Sa Huỳnh (được
biết cho tới nay) và có thể xác định những cụm

di tích lớn tại vùng thượng lưu, trung lưu và hạ
lưu các sông Thu Bồn, sơng Vu Gia. Điển hình
là cụm từ Hội An đến Điện Bàn với những khu
mộ chum lớn Hậu Xá I, Hậu Xá II, An Bang, Lai
Nghi; cụm Gò Mả Vơi - Gị Miếu Ơng - Thơn
Tư; Gị Dừa… ở Duy Xuyên; cụm di tích tại các
huyện Đại Lộc, Tiên Phước; cụm di tích huyện


DI SẢN VĂN HÓA

Hiệp Đức… Đặc biệt là những khu mộ địa giàu
có của những cộng đồng thu gom sản vật núi
rừng Quế Lộc, Đại Lãnh, Bình An, Gị Đình,…
hay khu mộ địa của cộng đồng thương nhân
Lai Nghi, Hậu Xá… cửa sơng ven biển. Trong
số đó có cụm mộ chum Cẩm Hà (Hội An) và
Lai Nghi (Điện Bàn), những khu mộ địa giàu
có nhất có nhiều khả năng là của cộng đồng
thương nhân Sa Huỳnh buôn bán tại cảng thị
sơ khai tiền thân của Đại Chiêm Hải khẩu Lâm
Ấp Phố sau này, với các đồ tùy táng đồ nghi
lễ bằng đồng như gương, đỉnh, chậu, bát,…
mang phong cách đồ đồng hậu kỳ Tây Hán,
sơ kỳ Đông Hán và những hàng hóa có nguồn
gốc từ Ấn Độ [2, tr.80-83].
Những cộng đồng cư dân Sa Huỳnh lưu
vực sông Thu Bồn chắc chắn đóng góp nguồn
lực đáng kể vào sự hình thành của tiểu quốc
Lâm Ấp từ những thế kỷ đầu Công nguyên và

Amaravati với kinh thành Simhapura từ thế kỷ
IV, V trở về sau.
1.2. Thời kỳ Lâm Ấp Champa
* Những dấu tích khảo cổ học từ thế kỷ I, II CN
trở về sau
Trong q trình thi cơng Dự án Tu bổ tơn tạo
di tích Lai Viễn Kiều năm 2006 ở địa điểm Chùa
Cầu, trong khi thi cơng hồ điều hịa, người ta
đã phát hiện một vò gốm tương đối nguyên
vẹn cũng như rất nhiều mảnh gốm thuộc loại
hình vị, nồi, hũ, nắp,… và xương thơ, hơi thơ,
mịn, hoa văn trang trí khá đa dạng. Trong đó
có 01 bình hình trứng khá nguyên vẹn, kích
thước rất lớn (lớn nhất cho tới nay trong số
bình hình trứng đã phát hiện ở miền Trung
Việt Nam), nhiều mảnh miệng, thân và đáy của
một số cá thể bình hình trứng khác. Ngồi ra
cịn có những mảnh nồi, vị, bình,... gốm thuộc
loại gốm mịn và thơ, trang trí văn in ơ vng,
văn khắc chìm hình vịng trịn bao quanh vai
và hoa văn hình cánh sen, hình con vật (có
thể là hình con voi)… Dựa vào ảnh chụp hiện
trường phát hiện và số lượng mảnh, số lượng
cá thể gốm, chúng tơi cho rằng, tại khu vực
Chùa Cầu có 01 di chỉ Champa sớm, tầng văn
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

hóa dày từ 0,5m đến 1m. Về thời gian, có thể
tương đương với lớp dưới Trà Kiệu khai quật
năm 1990 hay lớp dưới cùng, lớp dưới và bắt

đầu chuyển sang lớp trên ở hố khai quật Trà
Kiệu của đoàn công tác Việt - Anh - Nhật. Niên
đại chung của sưu tập gốm Hồ Điều Hòa từ thế
kỷ I đến thế kỷ IV, V CN.
Dấu tích cư trú Champa sớm phân bố liền
kề khu mộ địa văn hoá Sa Huỳnh Hậu Xá. Các
nhà địa chất của Đoàn 206 đã xác định, cách
đây 2.000 năm địa điểm này là vùng đầm phá.
Những hiện vật khảo cổ và những vết tích sinh
hoạt của người xưa nằm trên trầm tích sơng
biển. Đại diện cho thời kỳ sớm này là di chỉ Hậu
Xá I. Đây là địa điểm cư trú có thời gian tồn tại
kéo dài và có thể xác định q trình văn hoá
phát triển liên tục từ sớm đến phát triển của
Champa, những tích tụ văn hố - dấu tích của
người cổ cịn ngun vẹn. Tầng văn hố dưới
dày 1,1m (từ độ sâu 1,2m đến 2,3m), tầng văn
hoá trên dày 0,6m (từ độ sâu 0,6m đến 1,2m).
Cụm gốm gồm 3 hiện vật gốm xám mốc lồng
vào nhau: 01 nồi gốm nhỏ ở trong cùng; bên
ngồi là đồ gốm hình cái cối hay chng có lỗ
trịn thủng ở đáy; ngồi cùng là nồi gốm giống
với nồi gốm trong cùng nhưng lớn hơn, nằm
sát sinh thổ.
* Những dấu tích khảo cổ học từ thế kỷ III, IV
CN trở về sau
Ruộng Đồng Cao trước thuộc Khu vực I,
phường Cẩm Phơ (xưa là xóm Hậu Xá, làng
Thanh Hà), hiện thuộc khối Lâm Sa, phường
Cẩm Phô, thành phố Hội An. Tọa độ của di tích

15°52’59.35’’ Bắc và 108°19’08.21’’ Đơng, cao
5m so với mực nước biển. Di tích được phát
hiện năm 1998, thám sát và khai quật các năm
1999 và 2009, xác định di tích cư trú Champa
dạng các cụm ven sông, niên đại thế kỷ III, IV
CN. Di tích nằm trong khu vực có nhiều địa
điểm mộ chum văn hóa Sa Huỳnh và cư trú giai
đoạn Lâm Ấp, Champa. Qua ba lần khai quật
và thám sát, có thể thấy, trên sườn nam của
Ruộng Đồng Cao lệch về phía đơng có những
tích tụ dấu tích văn hóa cổ tập trung thành

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

7


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

từng đám, kiểu sinh hoạt hay cư trú ven dịng
chảy của các nhóm cư dân từ sau thế kỷ III.
Khu vực này đã bị san ủi làm cơ sở hạ tầng
cho khu dân cư mới. Hậu quả của đơ thị hóa
đã làm cho hầu hết các dấu tích văn hóa cổ đã
bị xúc ủi, di chỉ nay chỉ còn lại tên trong danh
mục và bản đồ KCH. Khảo sát những ụ đất do
máy xúc hất lên, đoàn khai quật năm 2018 đã
thu nhặt được nhiều đồ gốm, bán sứ, đất nung

có niên đại kéo dài từ thế kỷ I, II đến thế kỷ IX,
X. Đáng chú ý là sự phát hiện một số mảnh
bình hình trứng, loại hình gốm tiêu biểu cho
tầng văn hóa sớm nhất, niên đại thế kỷ I, II ở Gò
Cấm, Trà Kiệu (huyện Duy Xuyên). Di chỉ Ruộng
Đồng Cao nằm sát Hậu Xá I là nơi tìm thấy dấu
tích văn hóa diễn biến liên tục trong suốt thiên
niên kỷ I CN.
Di tích và di vật từ thế kỷ I, II đến thế kỷ VIII,
IX tại Hồ Điều Hòa (Chùa Cầu), Hậu Xá, Trảng
Sỏi,… chứng minh tại khu vực Hội An có diễn
trình lịch sử văn hóa tương đương, tương đồng
với khu vực Trà Kiệu và cả hai khu vực này có
những mối quan hệ tương hỗ với nhau, làm
cơ sở vững chắc cho một dạng tiền nhà nước
(lãnh địa) thời Sa Huỳnh và nhà nước sớm thời
Lâm Ấp - Champa.
* Những dấu tích khảo cổ học từ thế kỷ IX, X
trở về sau
Địa điểm KCH Bãi Làng trên đảo Cù Lao
Chàm được phát hiện trong đợt điều tra KCH
năm 1993, được tiến hành khai quật bốn
lần trong các năm 1998, 1999, 2017 và 2018,
phát hiện nhiều gốm sứ Trung Hoa từ các lò
Trường Sa, Việt Châu, Quảng Đông và các di
vật gốm sứ, hạt chuỗi, thủy tinh có nguồn gốc
Tây Á, Trung Cận Đơng… Bên cạnh đó là một
số lượng lớn các loại hình đồ gốm vật dụng
thường ngày như nồi, bát, cốc, bình, hạt chuỗi
thủy tinh sản xuất tại chỗ... trong tầng văn

hóa, cho thấy Bãi Làng là một khu cư trú của
người Champa. Bên cạnh đó, những sản phẩm
mang đặc trưng của con đường buôn bán trên
Biển Đông như gốm Islam, thủy tinh Islam, hạt
8

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

chuỗi Indopacific, gốm Đường,... cho thấy Bãi
Làng còn là một thương cảng trên con đường
buôn bán Trung Quốc - Đông Nam Á - Tây Á.
Dựa trên tổ hợp loại hình gốm Champa,
gốm men thời Đường, gốm Islam và đặc biệt
là các hạt chuỗi thủy tinh Indopacific và thủy
tinh Tây Á, các nhà KCH trong cả bốn lần khai
quật đã xác định niên đại thế kỷ IX, X cho di
tích Bãi Làng.
* Các dấu tích đền tháp và điêu khắc Champa
Ngồi những dấu tích cư trú, bến cảng, ở
khu vực Hội An cịn có nhiều dấu tích kiến trúc,
điêu khắc có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ
XII và một loạt những giếng Champa được xác
định có liên quan đến những hoạt động của
Lâm Ấp Phố, một trung tâm thương mại quan
trọng của vương quốc Champa giai đoạn Lâm
Ấp và giai đoạn Champa.
Khu vực Hội An, từ những năm 90 của thế
kỷ XX, bắt đầu được biết đến như là địa bàn
phân bố dày đặc các di tích cư trú và mộ táng
(làng - bến chợ ven sông, làng cư trú, nơi thờ

tự, nghĩa địa,… thời kỳ từ thế kỷ III TCN đến thế
kỷ VII - X. Có một quy luật phổ biến là những
di tích Champa sớm thường phân bố ngay
trên những di tích văn hố Sa Huỳnh muộn.
Các địa điểm phân bố chủ yếu trên dải cồn cát
Cẩm Hà, cồn này có nguồn gốc tích tụ sơng biển, cao 2m - 3m, phân bố dọc sông Thu Bồn
và đã bị dòng Thu Bồn đào khoét, phá huỷ và
chia cắt nên chỉ cịn lại những chỏm sót. Theo
những nghiên cứu địa chất, địa mạo, tuổi của
bề mặt này có niên đại từ 2.000 đến 4.000 năm.
Đa số các di tích có tầng văn hoá phát triển liên
tục qua nhiều thế kỷ, bao trùm suốt giai đoạn
hình thành (nửa đầu thiên niên kỷ I) và cực
thịnh của vương quốc Champa (thế kỷ VII - X).
Như vậy, về tính chất, đây là những di tích giai
đoạn Lâm Ấp và Champa. Hội An, với tính chất
cửa ngõ giao lưu sơng biển, đã là nơi tiếp xúc
văn hoá mạnh mẽ và cũng là nơi tiếp thu, thâu
nhận đầu tiên nhiều yếu tố văn hoá ngoại sinh.
Chính những điều này đã làm cho văn hố Sa


DI SẢN VĂN HĨA

Huỳnh và văn hố Champa sớm ở Hội An có
tính tiên phong, đổi mới mạnh mẽ và sâu rộng.
Những nhóm di tích Champa giai đoạn Lâm
Ấp và Champa ở khu vực Hội An có mối liên
quan mật thiết với nhóm di tích cùng thời ở
vùng Duy Xun, đặc biệt là Trà Kiệu, tạo thành

một khu vực văn hố - kinh tế - chính trị có quy
mơ lớn và quan trọng ở hạ lưu sông Thu Bồn
trong những thế kỷ đầu Cơng ngun. Sự có
mặt của những di tích này càng củng cố thêm
vị trí quan trọng của lưu vực sông Thu Bồn
những thế kỷ trước và sau Công nguyên cũng
như giúp khẳng định chắc chắn hơn Trà Kiệu là
trung tâm hành chính - chính trị của Champa
thời kỳ Lâm Ấp.
2. Giá trị của các di sản/tài nguyên văn hóa
khảo cổ học ở Hội An
Mỗi di tích KCH dù dưới đất, trên mặt đất
hay dưới nước đều là sở hữu của nhà nước và
được bảo vệ theo Luật Di sản nước CHXHCN
Việt Nam. Việc nghiên cứu để bảo vệ và phát
huy giá trị của những tài nguyên “không tái
tạo” này là nhiệm vụ và trách nhiệm của tất
cả các bên liên quan: Người quản lý - người
nghiên cứu khoa học - cộng đồng cư dân sở
hữu/sống tại nơi có di sản và cộng đồng cư
dân thụ hưởng di sản. Trong đó, người quản lý
có vai trị quan trọng trong hoạch định và triển
khai chính sách, điều luật, giải pháp ở tầm vĩ
mô đến vi mô. Người nghiên cứu có vai trị
quyết định trong xác định trữ lượng, phân loại
loại hình, đánh giá giá trị, dự báo tiềm năng, rủi
ro, thách thức và đưa ra những mơ hình khả thi
bảo tồn và phát huy giá trị các tài nguyên KCH.
Cộng đồng cư dân có vai trị mang tính sống
cịn đối với bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị.

Khơng có sự tham gia một cách có ý thức của
cộng đồng cư dân, khơng di sản nào có thể giữ
được và sử dụng được trong đời sống đương
đại. Các chính sách về văn hóa và luật văn hóa
Việt Nam đều nhấn mạnh đến vị trí, vai trị và
sự tham gia của cộng đồng như những yếu tố
tiên quyết đảm bảo sự thành công của công
cuộc bảo tồn. Nếu coi di sản là tài nguyên thì
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

theo chiều thời gian, giá trị của tài nguyên di
sản KCH gồm giá trị quá khứ, giá trị hiện tại và
giá trị tương lai; theo nguồn gốc và tính chất,
giá trị của tài nguyên di sản KCH gồm giá trị tự
thân được kế thừa, giá trị tái tạo, giá trị sáng
tạo của cộng đồng chủ nhân hay sở hữu di
sản và giá trị chia sẻ/với các cộng đồng khác.
Di sản KCH khơng chỉ là di sản vật thể mà cịn
chứa đựng khía cạnh phi vật thể, bao gồm
những giá trị tinh thần và biểu tượng, những
câu chuyện và ký ức, những kỹ thuật, kỹ năng
bí truyền, những tri thức dân gian, những dấu
ấn có thể cả tích cực và tiêu cực của q trình
lịch sử, chính sách văn hóa của mỗi thời kỳ, mỗi
cộng đồng dân cư. Như vậy, việc đánh giá giá
trị di sản KCH để từ đó đưa ra chiến lược bảo
tồn, sử dụng và phát huy sẽ cần đề cập tới cả
hai khía cạnh vật thể và phi vật thể [3].
Các di tích KCH Tiền, Sơ sử ở Hội An, khu
vực hạ lưu sơng Thu Bồn, có giá trị nổi bật về

quá trình liên tục (kế thừa và phát triển) văn
hóa. Điều này chứng tỏ mảnh đất này hội tụ
đầy đủ các điều kiện thiên thời - địa lợi - nhân
hịa, và có những chuyển biến bước ngoặt về
chính trị, tư tưởng,… từ cách đây 3.500 năm
đến hiện nay. Những di sản KCH cho thấy khả
năng thích ứng bằng những phương thức/
mơ hình mưu sinh đa dạng với những điều
kiện tự nhiên và môi trường sinh thái, những
cộng đồng cư dân Sa Huỳnh Champa ở đây
đã mở rộng mạng lưới quan hệ trao đổi nội
vùng, liên vùng và quốc tế, gia tăng mức độ
ứng dụng và sản xuất cơng cụ, vũ khí kim loại
và phát triển nơng nghiệp (trồng lúa nước) để
đạt được những thành tựu to lớn tạo ra những
chuyển biến sâu sắc trong đời sống kinh tế,
xã hội. Những di sản KCH ở lưu vực sông Thu
Bồn, đặc biệt là vùng hạ lưu, cho thấy rõ quá
trình chuyển biến trong cả hạ tầng cơ sở và
thượng tầng kiến trúc của những nhà nước
ven biển được thành lập dựa trên những trung
tâm buôn bán chợ thường tọa lạc ở cửa những
hệ thống sơng chính và duy trì mối quan hệ
chặt chẽ với những làng trên thượng nguồn,

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

9



VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

đóng vai trị những điểm thu thập/mua bán
sản phẩm rừng núi với miền xuôi. Những di vật
và di tích khảo cổ Sa Huỳnh Champa ở lưu vực
sơng Thu Bồn mang những giá trị tiêu biểu,
giúp chúng ta hình dung về một cơ cấu kinh tế
đa ngành, đa lĩnh vực theo thế chân vạc, trong
đó nơng nghiệp và thủ cơng nghiệp đóng vai
trị nền tảng, đảm bảo “an ninh lương thực”
trong khi thương mại đường sông và đường
dài trên biển tạo ra những thặng dư vật chất
duy trì và thúc đẩy những khía cạnh đời sống
tơn giáo phát triển, mà chứng cứ là những khu
mộ địa rộng lớn với những chum quan tài kích
thước lớn, đồ tùy táng phong phú, giàu có thời
Sa Huỳnh và thành lũy, đền tháp và điêu khắc
Phật giáo và Hidu giáo thời Champa [2].
Tóm lại, giá trị tài nguyên văn hóa KCH
Hội An bao gồm những khía cạnh khác nhau
từ vật thể, những di tích và di vật KCH từ thời
Tiền Sa Huỳnh - Sa Huỳnh - Champa - Đại Việt
đến những giá trị phi vật thể liên quan đến
tín ngưỡng, tơn giáo, nghệ thuật, bí quyết
các nghề thủ cơng, lối sống,… của các cộng
đồng cư dân thời cổ và trung đại; giá trị ứng xử
khéo léo mềm mại thích ứng với mơi trường
tự nhiên, xã hội; giá trị thẩm mỹ và giá trị về

vai trò tiên phong của nhiều cộng đồng dân cư
trong q trình lịch sử.
Từ góc độ liên kết sức mạnh và trách nhiệm
của bộ ba trong thiết lập bản đồ phân bố
các loại hình di tích và di vật của các thời kỳ,
khoanh vùng bảo vệ các di tích KCH, lập kế
hoạch nghiên cứu dài hơi và từng năm, phối
hợp nghiên cứu giữa trung ương, địa phương,
trong nước và nước ngoài, Hội An ngay từ
những ngày đầu thành lập Ban Quản lý di tích
đã thực hiện rất hữu hiệu những chính sách,
giải pháp có sự tham gia hiệu quả của cả ba
bên. Những giá trị tài nguyên di sản Hội An
được đánh giá đầy đủ, và từ năm 1989 đến nay,
những hiệu quả phát huy giá trị đã đóng góp
hữu hiệu để Hội An ghi danh Di sản văn hóa
thế giới và đóng góp đáng kể vào phát triển
kinh tế - xã hội của thành phố.
10

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

3. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản khảo cổ
học ở Hội An
3.1. Kết quả và thành tựu
Nghiên cứu đi liền với bảo tồn và phát
huy giá trị, sau những phát hiện KCH, giúp
điểm danh tên Hội An như một địa chỉ quan
trọng trên bản đồ những di tích KCH Tiền, Sơ
sử Champa Đại Việt. Một số bảo tàng đã được

thành lập ngay trên những tuyến du lịch quan
trọng của đô thị cổ, tạo thành những điểm
tham quan quan trọng trên chuỗi các điểm
du lịch tham quan phố cổ. Số lượng bảo tàng
trưng bày các loại hình di vật KCH và văn hóa
ngày càng gia tăng giúp người tham quan có
lựa chọn vừa rộng và vừa chuyên sâu những
chủ đề mình quan tâm. Hiện nay, Trung tâm
Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (mà
tiền thân là Ban Quản lý Di tích Hội An) đang
quản lý và vận hành chuỗi bảo tàng gồm Bảo
tàng Hội An, Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh, Bảo
tàng Gốm sứ Mậu dịch, Bảo tàng Văn hóa Dân
gian, Bảo tàng Y học Cổ truyền Hội An,… và
trong tương lai, chắc chắn sẽ có một vài bảo
tàng nữa được thành lập.
Bảo tàng đầu tiên thụ hưởng các kết quả
nghiên cứu KCH là Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh
(thành lập năm 1994), tọa lạc ngay gần Chùa
Cầu. Bảo tàng trưng bày các chum mộ và
những di vật chôn theo phát hiện từ các khu
mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An
như An Bang, Hậu Xá, Xuân Lâm… Những di
vật từ địa điểm Tiền Sa Huỳnh Bãi Ơng Cù Lao
Chàm có niên đại cách đây trên 3.000 năm
cũng được bổ sung vào trưng bày. Như vậy với
khoảng gần 1.000 hiện vật thật có bối cảnh
khảo cổ học rõ ràng, được nghiên cứu một cách
hệ thống, khoa học và trưng bày kèm tài liệu
minh họa đã cung cấp cho người xem một bức

tranh khá đầy đủ về cuộc sống của các cộng
đồng cư dân được coi là chủ nhân của một
cảng thị sơ khai sầm uất vào bậc nhất thời sơ
sử cách ngày nay trên 2.000 năm, có mối quan
hệ bn bán đường trường với Đông Nam Á,
Ấn Độ và Trung Hoa. Bộ sưu tập hiện vật về văn


DI SẢN VĂN HĨA

hố Sa Huỳnh ở Hội An tại Bảo tàng được các
nhà khoa học đánh giá là phong phú và độc
đáo vào bậc nhất của Việt Nam. Bảo tàng Văn
hóa Sa Huỳnh ở Hội An là địa chỉ hấp dẫn cho
công chúng và cho các nhà nghiên cứu.
Mặc dù phía ngồi bảo tàng chưa thực sự
gây ấn tượng và thu hút khách tham quan, nội
dung trưng bày còn một số vấn đề cần cải tiến
và hoàn thiện, song những thay đổi gần đây
trong cách thức trưng bày khá hấp dẫn người
xem, đặc biệt là cách trưng bày kết hợp với tài
liệu minh họa như pano ảnh phong cảnh của
di tích, mơ hình phân bố chum mộ, minh họa
cách chơn cất người chết và những atlat về
loại hình đồ gốm, hoa văn đồ gốm với hiện vật
thật vừa làm tăng tính chân xác khoa học vừa
tăng mức độ thu hút sự chú ý của người xem.
Một điểm cần lưu ý về vai trị của bảo tàng
này, đó là, trong khi chưa có một bảo tàng
chuyên về một nền văn hóa khảo cổ nói chung

và về văn hóa Sa Huỳnh nói riêng (thực ra đã
có ở Quảng Ngãi nhưng chưa thể phát huy
vai trò do nhiều nguyên nhân khác nhau), thì
việc thành lập và đưa vào khai thác bảo tàng
chuyên đề này từ rất sớm ở một đô thị đông
khách du lịch vào bậc nhất Việt Nam đã cho
thấy tầm nhìn cũng như trách nhiệm của bộ
ba quản lý - nghiên cứu - chủ nhân như đã nói
ở trên.
Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch Hội An (80 Trần
Phú) ra đời sau một chút so với Bảo tàng Văn
hóa Sa Huỳnh lại là kết quả của quá trình hợp
tác nghiên cứu trong và ngoài nước, đặc biệt
với sự trợ giúp về vật chất và khoa học của một
số chuyên gia Nhật Bản. Bảo tàng minh chứng
cho những hoạt động buôn bán tấp nập ở một
vị trí giao thương quan trọng từ thời cổ, trung
đến cận đại. Bảo tàng được xây dựng trong
một căn nhà/cửa hiệu truyền thống, do đó thu
hút khách tham quan cả về phương diện sưu
tập trưng bày lẫn về cấu trúc nhà truyền thống.
Bảo tàng Hội An (số 10B đường Trần
Hưng Đạo) với triết lý Appreciating the past Connecting the present - Looking towards the
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

future (Trân trọng quá khứ - Kết nối hiện tại Hướng tới tương lai). Bảo tàng sử dụng một
phần diện tích (khoảng 800m2) để trưng bày
880 tư liệu, hiện vật, gồm các phịng: Lịch sử
- Văn hóa, Truyền thống Cách mạng, Hội An từ
gian khó đi lên và Tranh về Hội An. Phần trưng

bày các di sản KCH chiếm một tỷ trọng lớn
trong không gian trưng bày lịch sử - văn hóa.
Phịng này có diện tích 200m2, trưng bày hơn
400 tư liệu, hiện vật phản ánh diễn trình lịch sử
văn hóa Hội An qua 3 thời kỳ tương ứng với 3
chủ đề trưng bày:
Chủ đề 1: Thời kỳ Tiền - Sơ sử (từ thế kỷ III
TCN - thế kỷ I CN)
Chủ đề 2: Thời kỳ Champa (thế kỷ II - thế kỷ
XV)
Chủ đề 3: Thời kỳ Đại Việt - Đại Nam - Việt
Nam (từ cuối thế kỷ XVI - giữa thế kỷ XIX), Hội
An nổi tiếng là một thương cảng quốc tế quan
trọng của khu vực Đông Nam Á.
Bảo tàng có rất nhiều hoạt động liên quan
đến phổ biến kiến thức văn hóa - lịch sử. Ngồi
những trưng bày thường xun, bảo tàng cịn
có trưng bày chun đề và những hình thức
linh động khác đưa hình ảnh và hiện vật của
bảo tàng đến với công chúng, tổ chức hướng
dẫn công chúng sử dụng hiện vật của bảo
tàng… Những hoạt động này luôn được cập
nhật trên trang web của bảo tàng https://
hoianmuseum.com và tại địa chỉ facebook
/>3.2. Thách thức , khó khăn và triển vọng
Di sản chịu nhiều tác động của môi trường
tự nhiên và môi trường nhân tạo. Mỗi loại di
sản chịu các tác động tự nhiên, con người khác
nhau với mức độ gây hại khác nhau. Đối với
di sản KCH, đó là sự xuống cấp, huỷ hoại hồn

tồn hay từng phần do nhiều nguyên nhân,
trong đó có những ngun nhân khách quan
như khí hậu, mơi trường thời tiết khắc nghiệt,
khó lường, chiến tranh, xung đột tơn giáo, tín
ngưỡng, hoặc đứt gãy truyền thống do những
quan điểm sai lầm của một giai đoạn lịch sử,
nhiều cơng trình tơn giáo bị phá huỷ một cách

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

11


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

cố ý. Hiện nay, mức độ huỷ hoại di sản nhanh
hơn do chưa có quy hoạch đồng bộ giữa cái
cần bảo tồn với xây dựng mới [3]. Đối với Hội
An một “di sản sống”, một đô thị nơi mà truyền
thống luôn biến đổi và những yếu tố mới ùa
vào như những cơn bão, nơi mà những yếu tố
vật thể không tách rời yếu tố phi vật thể, nơi
đời sống đô chỉ chuyển biến hàng ngày, chủ
thể của di sản biến đổi không chỉ về thành
phần, nguồn gốc mà cả trong thái độ, trách
nhiệm và cách ứng xử với di sản,… thì vấn đề
bảo vệ, bảo tồn, bảo tồn và sử dụng giá trị
di sản một cách bền vững gặp bội phần thách

thức và trở ngại.
Dự báo được mức độ đơ thị hóa, ngay từ
những năm 90 của thế kỷ XX, những người
làm công tác quản lý và nghiên cứu di sản ở
Hội An đã kịp thời xây dựng bản đồ phân bố
các di tích KCH Hội An, cắm mốc di tích và
khoanh vùng bảo vệ một diện tích nhất định.
Có thể nhận thấy, ít nơi nào làm được một quy
hoạch khảo cổ cụ thể và đầy đủ như Hội An.
Tuy nhiên, dưới áp lực đơ thị hóa nhanh chóng
những năm gần đây, một số di tích đã khơng
cịn giữ được, điển hình là di tích cư trú văn
hóa Champa Ruộng Đồng Cao. Hiện tồn bộ di
tích đã nằm trọn trong Dự án Khu dân cư khối
Lâm Sa - Tu Lễ - Xuân Hòa, theo quyết định phê
duyệt quy hoạch chi tiết tại văn bản số 283/
QĐ-UBND ngày 19/01/2016 của UBND tỉnh
Quảng Nam. Do có quy hoạch KCH từ trước,
di tích này đã được khai quật và nghiên cứu
theo quy định của Luật Di sản và những hiện
vật khai quật được phục vụ cho công tác trưng
bày phát huy giá trị của Bảo tàng Hội An.
Những di tích khác như Trảng Sỏi, An Bang,
Hậu Xá,… đều có vùng bảo vệ, bảo tồn và về
cơ bản hiện vẫn chưa bị xâm hại. Ngoại trừ
trường hợp gần đây nhất ở Trảng Sỏi, người
dân địa phương do thiếu hiểu biết khi trồng
quất cảnh, đã vơ tình xẻ một số rãnh hào trong
phạm vi khoanh vùng bảo vệ. Sự vụ đã được
Ban quản lý và chính quyền địa phương giải

quyết kịp thời. Đây cũng là một kinh nghiệm
12

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

cần rút ra, đó là trong bảo vệ di tích cần có sự
thấu hiểu và tham gia thật sự của người dân
sở tại.
Di tích Tiền Sa Huỳnh hiếm hoi Bãi Ơng ở
Cù Lao Chàm, một trong những di tích cấp tỉnh
cũng bị hủy hoại nghiêm trọng, phần do sạt lở
tự nhiên, phần do các hoạt động kinh tế quốc
phịng khác. Có lẽ một thời gian khơng xa nữa
di tích này sẽ biến mất và chỉ còn tên trong
danh mục.
Bến cảng cổ Bãi Làng, dấu tích hoạt động
kinh tế biển của cư dân vương quốc Champa
trên tuyến buôn bán biển đường trường
(thường được gọi dưới cái tên “Con đường
Tơ lụa trên Biển”), từng được nhắc đến trong
hải trình của thương nhân Ả rập, Ấn Độ, cũng
đang chịu sức ép nặng nề của gia tăng dân số
và nhu cầu xây dựng homestay hiện thời.
Bảo tàng hóa các di tích và di vật KCH luôn
là một cách bảo tồn và sử dụng di sản hữu
hiệu, do vậy, việc tìm phương cách để tăng
cường hiệu quả và vai trị của bảo tàng ln
là nhiệm vụ hàng đầu của những người làm
công tác quản lý và nghiên cứu. Mỗi bảo tàng
trong hệ thống bảo tàng Hội An có nhiệm vụ

và vai trị riêng trong khối thống nhất, do vậy,
những kế hoạch phát triển bảo tàng cần dựa
trên những điều tra, đánh giá hệ thống với
những số liệu cụ thể. Ở đây, chúng tôi chỉ đưa
ra một số nhận xét và đề nghị có tính chất cá
nhân dựa trên kinh nghiệm nhiều năm nghiên
cứu của mình tại Hội An.
Mặc dù các bảo tàng ở Hội An đều có mục
giới thiệu riêng trên trang web chung Bảo
tàng Hội An, tuy nhiên nội dung cịn sơ sài và
hình thức khá đơn điệu. Trong bối cảnh xã hội
số hiện nay, website bảo tàng cần trở thành
nơi giới thiệu các trưng bày ảo song hành
cùng trưng bày thật. Mỗi bảo tàng đều có
những chương trình hoạt động gắn với cộng
đồng. Các bảo tàng sử dụng hữu hiệu mạng
lưới thông tin bằng nhiều cách để công bố
và phổ biến các thông tin khoa học. Gần đây,
những phương tiện truyền thông mạng được


DI SẢN VĂN HÓA

ưu tiên sử dụng và cập nhật hàng ngày, do vậy,
kết nối mạng lưới bảo tàng Hội An với các bảo
tàng miền Trung và một số bảo tàng Việt Nam
là cách hữu hiệu nhất để chia sẻ và cung cấp
thông tin.
Trong tương lai, Bảo tàng Hội An nên có
phịng tương tác với cơng chúng, đặc biệt về

Khảo cổ học Cộng đồng để phát huy hiệu quả
hơn nữa những giá trị di sản khảo cổ ở đây
trong cộng đồng cư dân tại chỗ và cho khách
du lịch Việt Nam, quốc tế. Bảo tàng Hội An tọa
lạc trên một vị trí đắc địa và khơng gian trưng
bày ngồi trời rộng rãi, thơng thống nhưng
chưa được sử dụng đúng vai trị. Những đổi
mới về hình thức và nội dung trưng bày của
bảo tàng này nên được tiến hành song song cả
ở bên trong và bên ngoài.
Đối với Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch Hội An,
nên có những bổ sung về nội dung và cách
thức trưng bày theo xu hướng thêm phần
buôn bán mậu dịch thời Tiền và Sơ sử cũng
như sử dụng những bản đồ số, sa bàn, mơ hình
về buôn bán biển và trưng bày ảo về tàu đắm
Cù Lao Chàm mà du khách có thể tương tác
bằng các phương tiện kỹ thuật như nhiều bảo
tàng trên thế giới đã làm.
Trong thời gian tới, Hội An chắc chắn sẽ
chịu nhiều tác động và áp lực của du lịch, đô thị
hóa tăng nhanh, tăng mạnh. Cơng việc bảo vệ,
bảo tồn và phát huy giá trị di sản KCH sẽ phải
đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn, nhưng
đội ngũ người làm công tác di sản với những
kinh nghiệm dày dặn và trách nhiệm cao, sẽ
có những giải pháp khả thi đối với những vấn
đề này. Trước mắt, có một số giải pháp khả thi
như: Tiếp tục nghiên cứu khảo sát phát hiện
các địa điểm mới để đánh giá lại tiềm năng của

các di tích đã biết và dự báo tiềm năng các di
tích mới phát hiện; tìm hiểu mối quan hệ hữu
cơ giữa di sản vật thể và phi vật thể để xây
dựng tuyến du lịch văn hóa và sinh thái; đổi
mới các hoạt động của bảo tàng theo xu thế
thân thiện, cuốn hút và hiện đại. Xây dựng một
số bảo tàng mới, hay đổi mới trưng bày tại các
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

bảo tàng đã có, trong đó, cần bảo tàng hóa các
di sản văn hóa phi vật thể chứ khơng chỉ di sản
văn hóa vật thể. Xây dựng bảo tàng văn hóa Sa
Huỳnh tại một trong những di tích đang được
khoanh vùng bảo vệ, xây dựng bảo tàng biển,
bảo tàng tàu đắm Cù Lao Chàm…; tăng cường
quyền hạn của các công cụ pháp lý để liên hệ
chặt chẽ hơn giữa các cấp quản lý và tìm kiếm
những giải pháp khả thi nhằm tăng cường vai
trò thực sự của cộng đồng; tiếp cận thật sự liên
ngành trong nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và
phát huy nguồn tài nguyên di sản.
L.T.M.D
(GS.TS, Giám đốc Bảo tàng Nhân học,
Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN)
Đ.V.L
(ThS., Bảo tàng Nhân học,
Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN)

Tài liệu tham khảo
1. Arjo Klamer (2014), “The Values of

Archaeological and Heritage Sites Public
Archaeology”, volume 13, Issue 1-3: Archaeology
and Economic Development.
2. Lâm Thị Mỹ Dung (2017), Sa Huỳnh - Lâm
Ấp - Champa thế kỷ 5 trước Công nguyên đến thế
kỷ 5 sau Công nguyên (Một số vấn đề khảo cổ học),
Nxb. Thế giới, Hà Nội.
3. Lâm Thị Mỹ Dung, Chu Lâm Anh (2019),
“Phát huy bền vững giá trị tài nguyên di sản khảo
cổ học Tiền, Sơ sử lưu vực sơng Thu Bồn”, Tạp chí
Nghiên cứu văn hóa, số 29.
4. Hall K (1992), “An Economic History of
Early Southeast Asia”, in trong Tarling (chủ
biên), Cambridge History of Southeast Asia, Vol.1,
Cambridge University Press, Cambridge.
5. />Ngày nhận bài: 6 - 10 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 26 - 11 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 27 - 12 - 2019

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

13



×