Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG BỘ MÁY QUẢN LÝ TẠI CÔNG TYVẬN TẢI Ô TÔ SỐ 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.94 KB, 24 trang )

THỰC TRẠNG BỘ MÁY QUẢN LÝ TẠI CÔNG TYVẬN TẢI Ô TÔ SỐ 3
I- GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY VẬN TẢI Ô TÔ SỐ 3.
1 – Quá trình hình thành và phát triển của Công ty vận tải ô tô số 3
Công ty vận tải ô tô số 3 là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập
tháng 4 năm 1983. Theo quyết định số 2223ngày 29 –12 – 1982 của Bộ giao
thông vận tải. Công ty được thành lập từ một chi cục đại lý hàng quá cảnh số
8 và 3 xí nghiệp vận tải:
* Xí nghiệp vận tải hàng quá cảnh số 1;
* Xí nghiệp vận tải ô tô số 20;
* Xí nghiệp vận tải ô tô sô 2;
Công ty được Nhà nước giao nhiệm vụ và được phép kinh doanh các
ngành nghề sau :
- Vận tải hàng hoá đường bộ trong và ngoài nước;
- Vận tải hàng hoá theo tuyến chủ yếu Tây Bắc;
- Bảo dưỡng, sửa chữa các phương tiện vận tải đường bộ;
- Đại lý vận tải hàng hoá;
- Xuất nhập khẩu trực tiếp các phương tiện giao thông đường bộ;
- Kinh doanh bãi gửi xe và dịch vụ nhà nghỉ;
- Đại lý buôn bán xăng dầu.
Là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có đủ tư cách pháp nhân, có
tài khoản riêng tại ngân hàng Công thương Hà Nội. Nên Công ty hoàn toàn
chủ độnh trong việc ký kết các hoạt động kinh tế với khách hàng và thực hiện
trực tiếp các khoản giao nộp cho ngân sách Nhà nước.
Công ty được thành lập với quy mô khá lớn gồm 3 xí nghiệp thành viên
có 21 đội xe với 1078 xe và trên 2200 cán bộ công nhân viên, sản lượng hàng
năm đạt 350000 tấn hàng vận chuyển, trên 58 triệu tấn hàng luân chuyển trên
1km và tổng khối lượng hàng vận chuyển cho các tỉnh tuyến Tây Bắc bình
quân hàng năm đạt trên 60 ngàn tấn.
Tháng 7 năm 1986 thực hiện quyết định số 531 của Bộ giao thông vận
tải chuyển Công ty vận tải ô tô số 3 thành xí nghiệp vận tải ô tô số 3. Cho đến
năm 1992 lại có quyết định đổi thành Công ty vận tải ô tô số 3.


Khái quát tình hình hoạt động của Công ty từ năm 1983 đến nay.
Là một doanh nghiệp luôn luôn hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao,
Công ty có truyền thống nhất trí cao trong đảng uỷ và cán bộ công nhân viên
trong Công ty. Luôn khắc phục khó khăn và là doanh nghiệp dẫn đầu trong
công tác đổi mới phương thức quản lý kinh doanh, có phong trào thi đua
thường xuyên liên tục.
Từ năm 1983 – 1988 là thời kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ
chế tập trung bao cấp, Công ty đã nhanh chóng triển khai các định hướng sản
xuất kinh doanh theo cơ chế tập trung. Khi Nhà nước giao các kế hoạch cho
Công ty, Công ty đã nhanh chóng bố trí thực hiện các kế hoạch đúng tiến độ.
Trong thời kỳ này hiệu quá sản suất kinh doanh đạt thấp, đời sống của cán bộ
công nhân viên rất khó khăn, tỷ lệ người có việc làm ổn định thấp. Tình trạng
chờ điều động đã làm cho Công ty rơi vào thế thụ động trong sản xuất kinh
doanh. Không phát huy được tính năng động sáng tạo trong sản xuất kinh
doanh của cán bộ công nhân viên và người lao động.
Từ năm 1989 sau khi có quyết định 271 –Hội Đồng Bộ Trưởng . Công
ty đã triển khai tổ chức sắp xếp lại sản xuất theo cơ chế mới, đó là sản xuất
kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tự chủ trong
sản xuất kinh doanh, từng bước trang trải một phần về tài chính, đồng thời
đưa phương án khoán vào áp dụng trong tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh.
Đây là một bước ngoặc trong quá trình hoạt động và phát triển của
Công ty vận tải ô tô số 3 đưa Công ty bước sang một giai đoạn mới, hiệu quả
sản xuất kinh doanh không ngừng được nâng cao, trở thành đơn vị tiên tiến
trong ngành vận tải ô tô. Là đơn vị được Nhà nước chọn làm đơn vị tiến hành
các phương pháp quản lý mới.
Đầu năm 1990 Công ty chỉ có một xe dùng nguyên liệu diezel còn lại là
toàn bộ là xe Zin 130 dùng nguyên liệu xăng hiệu quả kinh tế thấp mà hầu
hết trong tình trạng cũ nát xuống cấp nghiêm trọng.
Năm 1991 Nhà nước xoá bỏ hẳn cơ chế bao cấp với vận tải ô tô, Công
ty được Bộ giao thông vận tải chọn làm đơn vị giao vốn trách nhiệm, bảo toàn

và phát huy nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao.
Năm 1992 Công ty tập trung vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho
người lao động. Là năm đầu tiên thực hiện tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng
lấn thứ VII đã đề ra. Công ty đã có một số tiến bộ về mọi mặt trong sản xuất
kinh doanh.
Những bước đi dò dẫm, những khó khăn nhất của quá trình chuyển đổi
cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường sau 3 năm đã đi vào ổn định.
Năng lực sản xuất đã tăng lên bằng chương trình diezel hoá, chỉ trong 2
năn (90-91) từ chỗ chỉ có một xe chạy diezel Công ty đã có gần 160 xe chạy
diezel chiếm 54% tổng phương tiện hiện có của Công ty. Điều này tạo điều
kiện thuận lợi để giảm chi phí nhiên liệu, năng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
Bên cạnh đó Công ty còn tiếp thu các định hướng kinh tế xã hội của
nghị quyết đề ra và được sự giúp đỡ trực tiếp của Bộ giao thông vận tải và
bưu điện …
Năm 1993-1995, tình hình kinh tế vẫn tiếp tục biến động. Việc xác lập
kế hoạch cho thời kỳ (93-95) gặp khó khăn. Tuy vậy Công ty vẫn đạt được
các chỉ tiêu kinh tế do Nhà nước giao cho.
Công ty đã hoàn thành toàn diện các mục tiêu đổi mới, đưa Công ty
thực sự ổn định và tiếp tục phát triển lâu dài, đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ
xã hội, đảm bảo nộp ngân sách đầy đủ, tăng tích luỹ, đới sống của cán bộ
công nhân viên trong Công ty không ngừng được cải thiện.
Từ năm 1996-2000 Công ty đã mạnh dạn đổi mới các phương tiện,
nhượng bán các xe Zin 130 cũ nát đầu tư mua sắm các loại xe mới như
Kamaz, Chung long, Huyndai, Hino có trọng tải lớn, hiệu quả kinh tế cao,
tiêu hao ít nhiên liệu.
Mặt khác Công ty còn phải tự khai thác hàng hoá vận chuyển, vật liệu
phụ tùng thay thế không được Nhà nước cấp như trước đây. Điều này đòi hỏi
ban lãnh đạo Công ty phải năng động trong cơ chế mới trong công tác thị
trường.

Tuy được thành lập và quá trình hoạt động trong thới gian không dài,
song được sự giúp đỡ của Bộ giao thông vận tải và các ngành các cấp có liên
quan, Công ty vận tải ô tô số 3 đã không ngừng phấn đấu để phát triển trong
cơ chế thị trường, khẳng định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà
nước nền kinh tế.
Hiện nay Công ty có 480 lao động trong đó có 33 kỹ sư và cử nhân, 50
trung cấp, 90 thợ, 200 lái xe và gần 200 đầu xe với cơ sở vật chất, nhà xưởng
khang trang hiện đại. Năm 2000 vừa qua mặc dù gặp nhiều khó khăn do môi
trường kinh tế biến động, giá nguyên-nhiên liệu tăng cao trong khi đó giá
cước vận tải không có xu hướng tăng nhưng Công ty vẫn đạt và hoàn thành
mức kế hoạch đề ra với tổng doanh thu đạt 47.262.115.000 đồng đạt 143,21
% kế hoạch.
Trong tình hình chung chuyển sang cơ chế thị trường dẫn đến tình
trạng các doanh nghiệp Nhà nước gặp nhiều khó khăn, song cũng là cơ hội
cho các doanh nghiệp thực sự có khả năng vươn lên và khẳng định mình.Với
truyền thống và khả năng của mình Công ty vận tải ô tô số 3 đã và đang phát
huy hết năng lực của mình để tồn tại và không ngừng phát triển trong cơ chế
thị trường.
2. Tình hình tài chính của Công ty và một số chỉ tiêu cơ bản đạt được qua
các năm hoạt động :
(Bảng báo cáo kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế từ năm 1991-1996)
Trang bên
Báo cáo kết quả tổng hợp sản xuất kinh doanh giai đoạn (1991- 1996)
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
1991 1992 1993 1994
Phương tiện vận tải Xe 276 278 278 277
Tổng tấn trọng tải Tấn 16.92 17.04 17.16 17.1
2 Vốn sản xuất kinh

doanh
đồng 5.289.888.045 5.569.970.719 9.409.732.098 9.961.574.891
3 Sản lượng
Tấn hàng vận chuyển Tán 96.454 91.38 97.936 101.2
Tấn hàng luân
chuyển
TKm 25.515.000 24.249.000 24.501.000 24.567.000
Doanh thu 8.352.887.831 8.732.721.258 8.163.489.000 28.888.247.374
Vận tải đồng 8.352.887.832 8.000.800.000 8.085.569.000 8.942.336.000
XNK-DV đồng 0 731.921.258 77.920.000 19.945.911.374
Nộp ngân sách đồng 279.462.715 420.054.373 1.065.920.491 5.503.750.288
Lợi nhuận đồng 15.065.976 38.557.926 137.047.300 692.814.793
Thu nhập bình quân đồng 117.097 142.4 186.159 321.5

Trích : Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh
năm 2000
Chỉ tiêu tổng doanh thu :
Từ năm 1991 đến năm 1993 tổng doanh thu đều đạt trên 8 tỉ đồng một năm,
thời kỳ này là thời kỳ củng cố doanh nghiệp lúc mới chuyển sang cơ chế mới.
Từ năm 1994 đến năm1996 doanh thu tăng trưởng mạnh từ 3 đến 5 lần các
năm trước, cụ thể :
Năm 1994 tổng doanh thu đạt 28.888.347.374 đồng,
Năm 1995 tổng doanh thu đạt 42.432.039.590 đồng,
Năm 1996 tổng doanh thu đạt 38.569.473.000 đồng,
Chỉ tiêu nộp ngân sách thực hiện qua 6 năm không ngừng tăng :
Năm 1992 nộp ngân sách tăng 50% so với năm 1991,
Năm 1993 nộp ngân sách tăng153% so với năm 1992,
Năm 1994 nộp ngân sách tăng 416% so với năm 1993,
Năm 1995 nộp ngân sách tăng 127% so với năm 1994,
Lãi xuất kinh doanh :

Năm 1991 đạt 15.065.976 đồng,
Năm 1992 đạt 38.557.926 đồng,
Năm 1993 đạt 137.047.300 đồng,
Năm 1994 đạt 692.814.793 đồng,
Năm 1995 đạt 882.014.023 đồng,
Năm 1996 đạt 557.713.800 đồng,
Năm 1996 tổng lợi nhuận đạt thấp hơn so với năm 1995 do kinh doanh xuất
nhập khẩu gặp khó khăn, các khoản về chế độ tiền lương, tiền thuê đất đều
tăng cao, tiền nhiên – nguyên liệu tăng 4 lần trong năm.
Thu nhập bình quân đầu người củng không ngừng tăng lên :
Năm 1991 thu nhập bình quân đầu người một tháng đạt 117.907 đồng, năm
1992 tăng lên 142.832đồng, cho đến năm 1996 bình quân đầu người đã tăng
lên 482.000 đồng.
Đánh giá tổng quát giai đoạn này
Quá trình đổi mới trong 6 năm, Công ty đã bước đầu thích nghi với cơ
chế mới, đáp ứng được yêu cầu mới của sản xuất kinh doanh và trong chừng
mực nhất định Công ty đã phát huy được vai trò chủ đạo của một doanh
nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị trường.
Trình độ quản lý của cán bộ công nhân viên được nâng cao, khả năng
tiếp thị nhanh với thị trường, năm 1996 Công ty có 36 kỹ sư 30 trung cấp,bậc
thợ bình quân của thợ sửa chữa là 4, lái xe là 2,3 và Công ty đang có kế hoạch
gửi đi đào tạo lại một số cán bộ viên chức.
Trang thiết bị công nghệ, phươnh tiện đã được nâng cao. Từ chỗ 100%
là xe Zin 130 dùng nhiên liệu xăng đến năm 1996 đã đạt 100% dùng nhiên
liệu diezel.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được Công ty vẫn còn tồn tại một số
vướng mắc khó khăn cần khắc phục :
Thứ nhất trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh đã làm cho giá cước vận
tải giảm xuống thấp,trong khi đó giá nhiên liệu ngáy một tăng cao làm ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ hai là hoạt động sản xuất kinh doanh vận tải ngoài xã hội hết sức
phức tạp, tiêu cực rủi ro ngày càng nhiều gây khó khăn trong việc xây dựng
đội ngũ cán bộ công nhân viên trong sạch.
Thứ ba là trình trạng dư thừa lao động do hậu quả nhiều năm bao cấp
chưagiải quyết được, số lao động gián tiếp còn khá nhiều, trên 100 lao động
trực tiếp không có việc làm.
Thứ tư là sau hơn 10 năm hoạt động Công ty không được cấp bổ xung
vốn ngân sách (số vốn ngân sách chỉ chiếm khoảng 10% tổng số vốn của
Công ty) trong khi giá phương tiện vận tải cao nên ảnh hưởng đến công tác
đầu tư đổi mới trang thiết bị vận tải mới.
Bảng báo cáo kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế các năm 1996 đến năm
1999. ( trang bên)
Báo cáo kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế
( các năm 1996 đến 1999)
CHỈ TIÊU Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998
I- Sản
lượng
vận tải
Thực hiện % Thực hiện % Thực hiện
Tấn hàng vận chuyển Tấn 96.033 108.4 92.046 100.4 90.555
Tấn hàng luân chuyển TKm 24.531.633 107.2 22.161.704 101.3 22.940.874
II- Doanh thu
Tổng doanh thu Triệu đ 38.569 109.8 58.246 116.6 44.802
Doanh thu vận tải Triệu đ 10.325 107.4 9.13 102.1 10.716
(Dẫn theo giáo trình
Lịch sử văn học Nga –
NXBGD Hà Nội,
1998) XNK+DV
Triệu đ 28.244 110.5 49.222 163.3 34.085
III- Nộp ngân sách

Tổng số Triệu đ 10.356 16.461 12.164
IV- Lợi nhuận
Tổng số Triệu đ 578 105 286 95.3 970
V – Huy động vốn Triệu đ 640 1.143 3.214
VI- Thu nhập bình
quân
Đồng 420 472 541
VII- Lao động bình
quân
Người 581 501 476
Trích : Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh
năm 2000
Tổng doanh thu trong thời kỳ này có sự biến động không ổn định, nguyên
nhân chủ yếu là do số lượng đầu xe liên tục giảm, công việc sản xuất kinh doanh
ngày càng gặp khó khăn.
Năm 1997 doanh thu đạt 58.346.000.000 đồng đạt 146.6% kế hoạch.
Năm1998 doanh thu đạt 44.802.000.000 đồng đạt 106.1% kế hoạch.
Năm 1999 doanh thu đạt 22.408.000.000 đồng đạt 114.3% kế hoạch.
Do sự thụt giảm về doanh thu dẫn đến khoản nộp ngân sách cũng giảm
xuống:
Năm 1997 nộp ngân sách đạt 16.461.000.000 đồng, năm 1998 đạt 12.164.000.000
đồng,năm 1999 đạt 1.057.000.000 đồng.
Lợi nhuận cũng không ổn định qua các năm :
Năm1997 tổng lợi nhuận đạt 286 triệu đồng, năm1998 tổng lợi nhuận đạt 323 triệu
đồng.
Với tổng mức huy động vốn :
Năm 1997 tổng mức huy động vốn đạt 1.143 tỷ, năm 1998 đạt mức 3.214 tỷ, năm
1999 đạt mức 2.059 tỷ.
Thu nhập bình quân đầu người một tháng hàng năm: Năm1997 là 472.000
đồng, năm 1998 đạt 541.000 đồng, năm 1999 đạt 496.000 đồng.

Lao động bình quân năm 1997 là 501 người, năm 1998 là 476 người,
năm1999 là 412 người.
Nhận xét :
Trong thời kỳ 1996-1999 là thời kỳ có nhiều thay đổi trong sản xuất kinh
doanh của Công ty. Tổng doanh thu liên tục giảm, tuy nhiên doanh thu vận tải lại
tăng lên 10.325 triệu năm 1996 tăng lên 12.868 triệu năm 1999, trong khi đó doanh
thu xuất nhập khấu lại giảm từ 28.244 triệu năm1996 xuống 9.539 triệu năm 1999.
Sự không ổn định trong doanh thu và sự giảm sút trong doanh thu xuất nhập khẩu
là do sự biến động trong môi trường kinh tế và sự thay đổi trong chính sách của
Nhà nước.
Do sự giảm sút trong doanh thu dẫn đến sự giảm sút trong các khoản khác :
nộp ngân sách giảm từ 10.356 triệu năm1996 xuống 1.057 triệu năm 1999, các
khoản đầu tư cho trang thiết bị phương tiện giảm, tổng lợi nhuận giảm đáng kể so
với giai đoạn trước. Tuy nhiên thu nhập bình quân đầu người không ngừng được
cải thiện, đời sống của cán bộ công nhân viên đã được tăng lên.Phương án khoán
đã tạo ra sức sống cho Công ty.
Năm 2000, thực hiện kế hoạch năm cuối cùng của thế kỷ 20 Công ty gặp
không ít khó khăn, phương tiện vận tải liên tục giảm dần từ 139 xe xuống còn
117xe (giảm 22 xe). Việc dầu tư xe mới do có nhiều lý do không triển khai được,
dẫn tới năng lực vận tải giảm và chậm được đổi mới, hàng hoá vận chuyển liên tục
biến động cả về khối lượng và giá cước vận chuyển, chi phí vận tải tăng do giá
nguyên liệu tăng trong khi đó giá cước vận tải chưa có dấu hiệu tăng. Vì vậy hiệu
quả sản xuất kinh doanh đạt thấp không đạt được mục tiêu dặt ra đầu năm.
Kinh doanh thương mại; mũi nhọn là xuất nhập khẩu không triển khai được
do một số chính sách xuất nhập khẩu thay đổi, kinh doanh vật tư lỏng tiền hoả
hồng giảm gần một nửa kinh doanh vật tư rắn tồn đọng lớn không bán được.
Lao động, việc làm, thu nhập và đời sống của cán bộ công nhân viên vẫn
luôn là vấn đề bức xúc của Công ty.
Bên cạnh những khó khăn trên, năn 2000 Công ty cũng có một số những
thuận lợi cơ bản;

Ngay từ đầu năm lãnh đạo Công ty đã đề ra được một số giải pháp chỉ đạo
cụ thể phù hợp phấn đấu duy trì được nhịp độ sản xuất kinh doanh vận tải và các
ngành nghề kinh doanh dịch vụ khác.
Tiếp tục đổi mới về công tác tổ chức, sắp xếp lại lực lượng lao động là việc
làm thường xuyên có ý nghĩa quan trọng đến kết quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh, phát huy được vai trò chủ động sáng tạo của các cá nhân trong tập thể Công
ty.
Kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh dịch vụ năm 2000
A-Sản lượng tấn :

×