Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

skkn GIÁO dục LÒNG yêu QUÊ HƯƠNG đất nước CHO học SINH TRONG GIẢNG dạy LỊCH sử địa PHƯƠNG và TRUYỀN THỐNG NHÀ TRƯỜNG tại TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.87 MB, 73 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:

GIÁO DỤC LÒNG YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
CHO HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ
ĐỊA PHƯƠNG VÀ TRUYỀN THỐNG NHÀ TRƯỜNG
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUỲNH THÚC KHÁNG

MÔN: LỊCH SỬ

NGHỆ AN - 2020


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:

GIÁO DỤC LÒNG YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
CHO HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ
ĐỊA PHƯƠNG VÀ TRUYỀN THỐNG NHÀ TRƯỜNG
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUỲNH THÚC KHÁNG
MÔN: LỊCH SỬ

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG
Tổ bộ môn:


Xã hội
Điện thoại:
0919.555.157

NGHỆ AN - 2020


MỤC LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................... 1
PHẦN II. NỘI DUNG ......................................................................................... 4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................................ 4
1. Khái niệm lòng yêu quê hương nước .......................................................... 4
2. Tầm quan trọng của việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước ............... 5
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN................................................................................... 6
III. NHỮNG YÊU CẦU CHUNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TIẾN
HÀNH GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT
NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA
PHƯƠNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ................................ 8
1. Yêu cầu chung ............................................................................................. 8
1.1. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục lòng yêu quê hương với lịng
u đất nước..................................................................................................... 8
1.2. Đảm bảo tính tồn diện, tính khoa học..................................................... 9
1.3. Đảm bảo tính sư phạm ............................................................................ 10
1.4. Đảm bảo sự thống nhất giữa nội dung kiến thức lịch sử địa phương
với mục đích giáo dục của nhà trường .......................................................... 10
2. Một số biện pháp cụ thể............................................................................. 11
2.1. Giáo dục lịng u q hương thơng qua các nhân vật lịch sử điển
hình của địa phương ...................................................................................... 11
2.2. Sử dụng thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương để làm phong
phú bài học đồng thời giáo dục tình yêu quê hương cho học sinh ................ 20

2.3. Giáo dục lịng u q hương thơng qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp .. 25
2.4. Giáo dục truyền thống trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng.... 31
3. Kết quả đạt được ........................................................................................ 33
PHẦN III. KẾT LUẬN ..................................................................................... 34
1. Kết luận...................................................................................................... 34
2. Kiến nghị ................................................................................................... 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 36
PHẦN PHỤ LỤC


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam đã được hình thành suốt
hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, nổi trội hơn cả là tinh
thần yêu nước. Theo giáo sư Trần Văn Giàu: tình cảm, tư tưởng yêu nước là tình
cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa yêu
nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại.
Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của dân tộc ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định mục tiêu của ngành giáo dục là “bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu
nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhân
ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học…”. Tiếp đó, chỉ thị số
14/2011/CT-TTG ngày 11/06/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới
chương trình và sách giáo khoa phổ thơng có mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, tăng cường cho thế hệ trẻ lịng u nước, u q hương, gia
đình, tinh thần tự tôn dân tộc”. Như vậy, giáo dục thế hệ trẻ hiện nay phải giáo
dục con người có lịng u q hương, đất nước.
Trong thời kỳ hội nhập phát triển, vấn đề hình thành hệ giá trị và chuẩn
mực xã hội phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại là
một trong những vấn đề các nhà trường đều quan tâm coi trọng. Khi học sinh
được bồi dưỡng, giáo dục tốt về truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, đền

ơn đáp nghĩa… sẽ giúp các em được phát triển toàn diện, là nền tảng không thể
thiếu để bước vào cuộc sống.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn
thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam… bồi dưỡng các giá trị văn hoá
trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng
lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang ảnh hưởng xấu
tới nhiều mặt trong đời sống xã hội của Việt Nam. Ngành giáo dục khơng thể
đứng ngồi cuộc. Có rất nhiều ý kiến mang nặng sự lo lắng, trăn trở về những
thách thức hiện nay mà ngành giáo dục đang phải đối mặt. Đâu đó vẫn cịn tình
trạng học sinh vi phạm nội quy, thiếu lễ độ với người lớn, thầy cô giáo, ham
chơi, thờ ơ vô cảm hoặc phai nhạt lý tưởng, đặc biệt là tình trạng bạo lực học
đường gây nên sự bức xúc lớn trong dư luận xã hội.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục truyền thống cùng những
đạo lý về đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn… là vô cùng quan trọng
trong nội dung giáo dục của các nhà trường để hình thành nên phẩm chất cho
những chủ nhân tương lai của đất nước.
Làm sao để sau khi ra trường mỗi học sinh đều phải có lý tưởng đẹp, có
1


tình u Tổ quốc, u q hương và lịng tự hào tự tơn dân tộc, phát triển về trí
tuệ và thể chất, kỹ năng sống tốt, năng động, sáng tạo, là nguồn nhân lực chất
lượng cao, đóng góp tích cực vào sự phát triển của thủ đô, đất nước, hướng tới
cơng dân tồn cầu.
Nhà văn Nga Ilia Erenbua đã từng chia sẻ rằng: “Lịng u nước bắt
nguồn từ tình u những vật tầm thường, yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái
phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu cái thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ
thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Điều đó suy rộng ra, muốn giáo dục cho các em
lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào thì đầu tiên phải giáo dục tình u gia đình,

làng xóm, q hương, u những gì thân thương gần gũi nhất”. Bởi lẽ, trong trái
tim mỗi người dân Việt, dù ở nơi đâu trên hành tinh này đều ln mang trong
mình tình cảm sâu nặng, sắc son, thủy chung đối với nơi “chôn rau cắt rốn”,
“nơi quê cha đất tổ”, nơi sinh ra, ni dưỡng ý chí, chắp cánh ước mơ và giúp ta
khôn lớn trưởng thành.
Khi nhắc đến việc giáo dục lòng yêu nước cho học sinh, nhà giáo dục Xô
Viết Sukhomlinski đã viết: “Đối với mỗi con người chúng ta, Tổ quốc bắt đầu
từ một cái nhỏ bé dường như không lộng lẫy lắm và khơng có gì nổi bật. Cuộc
sống của mỗi chúng ta, vĩnh viễn đến hơi thở cuối cùng chứa đựng một cái gì đó
duy nhất và khơng gì thay thế được như bầu sữa mẹ, như sự âu yếm của mẹ, như
lời nói thân yêu. Đó là miền quê thân yêu của chúng ta, nơi thể hiện hình ảnh
sinh động của Tổ quốc”.
Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Dạy và học
lịch sử địa phương không chỉ giúp học sinh hiểu về mảnh đất, con người nơi
mình sinh ra và lớn lên, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền thống, trách
nhiệm công dân mà còn nhận thức sâu sắc thêm lịch sử dân tộc, có ý thức phấn
đấu, học tập tu dưỡng góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp.
Như vậy, giáo dục lòng yêu nước cho học sinh phải bắt đầu từ việc giáo
dục cho các em nhận thức được tình yêu quê hương, đất nước, ý thức xã hội chủ
nghĩa gắn chặt với nhau, tạo nên sức mạnh của con người Việt Nam trong thời
đại mới.
Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ bức thiết quyết định
đến sự tồn vong và phát triển của dân tộc. Trong lĩnh vực giáo dục, nhiệm vụ
này muốn hoàn thành tốt cần đến sự tác động tổng thể của tất cả các mơn học,
trong đó mơn lịch sử giữ một vai trò quan trọng. Tuy nhiên những năm gần đây,
thực trạng giáo dục truyền thống dân tộc cho học sinh trong mơn Lịch sử ở
trường phổ thơng có rất nhiều bất cập, hiệu quả thấp. Học sinh đa phần ngán và
sợ đối với môn lịch sử bởi sự hàn lâm, khô khan.
Nhiệm vụ đó địi hỏi nhà trường một mặt phải chuẩn bị tình cảm và năng
lực để học sinh tham gia sự nghiệp cách mạng chung của cả nước, mặt khác phải

chú ý đến giáo dục các em lòng yêu quê hương, yêu những con người và truyền
2


thống tốt đẹp của địa phương có ý thức và năng lực sẵn sàng tham gia lao động
sản xuất và chiến đấu để xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Giáo dục lòng yêu quê hương cho học sinh phổ thông được thực hiện
thông qua các hoạt động của nhà trường nói chung, hoạt động giảng dạy các
mơn học nói riêng; trong đó việc dạy học lịch sử, hoạt động ngoài giờ lên lớp,
đặc biệt là biết kết hợp giữa hoạt động ngoài giờ lên lớp với lịch sử địa phương.
Đây là hoạt động có nhiều ưu thế hơn cả.
Giảng dạy lịch sử địa phương sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết về
thiên nhiên, xã hội, con người ở địa phương trong lịch sử đấu tranh dựng nước
và cứu nước, hiểu biết về các di tích lịch sử, di tích văn hóa, nghệ thuật và
những kinh nghiệm lao động của nhân dân địa phương. Từ đó các em có nhận
thức đúng đắn về cuộc sống của địa phương trong quá khứ và hiện tại.
Trên cơ sở hiểu biết đó, xây dựng cho các em niềm tự hào về truyền thống
đấu tranh bất khuất, lao động cần cù, thông minh sáng tạo; tự hào về những cảnh
đẹp thiên nhiên bình dị và thơ mộng, tự hào về những phong cách sinh hoạt văn
hóa mang bản sắc độc đáo của địa phương. Chính niềm tự hào đó làm cho các
em gắn bó với mảnh đất quê hương, có ý thức bảo vệ và phát huy những truyền
thống tốt đẹp vốn có của địa phương một cách tự giác.
Như vậy, nghiên cứu giảng dạy lịch sử địa phương cần được tiến hành
một cách thường xuyên với nội dung, phương pháp phù hợp sẽ giúp ích rất
nhiều cho việc giáo dục lịng u nước cho thế hệ trẻ, kích thích được lòng yêu
quê hương, lòng tự hào dân tộc. Xuất phát từ thực tiễn dạy học, từ chủ trương
đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục của Đảng và vai trị, vị trí của mơn
Lịch sử, tơi lựa chọn đề tài: “Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học
sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại
trường Trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kháng” làm đề tài sáng kiến kinh

nghiệm của mình.

3


PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Khái niệm lịng u q hương nước
Từ xưa đến nay, tình u quê hương đất nước là sợi chỉ đó xuyên suốt
trong các tác phẩm văn học từ cổ kim đông tây. Ta đã bắt gặp “Nam quốc sơn
hà” của Lý Thường Kiệt đến Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và hồn thiện
phát triển tới “Bình ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi. Bác Hồ đã từng nói, lịng u
nước của nhân dân ta giống như một làn sóng nhấn chìm lũ bán nước và lũ cướp
nước. Đó là hào khí của dân tộc, càng ngày càng qua các thời kì lịch sử tinh thần
yêu nước và tinh thần tự hào, tự tôn của dân tộc
Một trong những truyền thống tốt đẹp của người Việt từ xưa đến nay
chính là truyền thống yêu quê hương, đất nước: “Cá quen sông, chim luyến tổ,
con người sao không yêu quê hương”. Yêu quê hương, đất nước là tình cảm tự
nhiên của con người ở bất cứ dân tộc nào chứ khơng riêng gì ở Việt Nam. Song
ở Việt Nam tình cảm ấy trở thành ý thức, tư tưởng, và cao hơn là chủ nghĩa
yêu nước.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là “nguyên tắc
đạo đức về chính trị mà nội dung là tình u, lịng trung thành, ý thức phục vụ
Tổ quốc. Xã hội nguyên thủy đã có mầm mống của chủ nghĩa yêu nước, dựa trên
tình cảm máu mủ giữa các thành viên của thị tộc hay bộ lạc. Từ khi xã hội
nguyên thủy tan rã, tình cảm tự nhiên gắn bó với quê hương, tiếng mẹ đẻ, các
truyền thống… kết hợp với nhận thức về nghĩa vụ của người dân đối với cả cộng
đồng xã hội đã được thiết lập. Cùng với sự hình thành dân tộc và nhà nước dân
tộc, chủ nghĩa yêu nước từ chỗ chủ yếu là một yếu tố trong tâm lý xã hội, đã trở

thành hệ tư tưởng. Nó trở thành lực lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, động
viên mọi người đứng lên bảo vệ tổ quốc chống lại mọi cuộc xâm lược. Chủ
nghĩa u nước chân chính thể hiện ở lịng trung thành với tổ quốc vì lợi ích của
dân tộc, của nhân dân, bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc và đấu tranh cho sự phồn
vinh của đất nước”.
Đối với người dân nước ta, tình cảm đối với quê hương là thứ tình cảm
thiêng liêng, cao đẹp trở thành máu thịt, lẽ sống của con người “Quê hương mỗi
người chỉ một, quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người”.
Nhưng nếu nói thế thì dường như con người chỉ yêu quê hương thì phải. Thực ra
tình u q hương, tình u đất nước ln quyện chặt với nhau khơng tách biệt.
Nói đến q hương là nói đến đất nước và ngược lại bởi trong lòng người Việt
Nam thì quê hương và đất nước là một. Quê hương hay q hương nhỏ chính là
xóm làng, là nơi có cha mẹ, anh chị em, họ hàng, mồ mả ơng bà, là nơi có mái
đình, cây đa, bến nước. Là nơi có những gì gần gũi, thân thuộc nhất.
4


2. Tầm quan trọng của việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước
Trong giai đoạn hiện nay, với xu thế “Tồn cầu hóa”, mọi giá trị truyền
thống đang bị thay đổi thì việc giáo dục lịng u q hương, đất nước càng có
vai trị và ý nghĩa quan trọng. Tại Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu của ngành giáo dục là “bồi
dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân
tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần
hiếu học…”. Tiếp đó, chỉ thị số 14/2011/CT-TTG ngày 11/06/2001 của Thủ
tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thơng có
mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường cho thế hệ
trẻ lịng u nước, u q hương, gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc”. Như vậy,
giáo dục thế hệ trẻ hiện nay phải giáo dục con người có lịng u quê hương,
đất nước.

Thế hệ trẻ ngày nay, ngày ngày được cắp sách đến trường trong hoàn
cảnh đất nước thống nhất, thanh bình, khơng có chiến tranh, kinh tế phát triển,
đời sống no đủ. Chính vì vậy, các em chưa hiểu hết giá trị của những gì mà các
em đang được hưởng thụ, các em có thái độ thờ ơ, lãnh đạm với quá khứ, các
em không hiểu được rằng để có được cuộc sống thanh bình hạnh phúc như ngày
hơm nay, đã có biết bao mồ hơi xương máu của những người đi trước đổ xuống
mảnh đất này. Thực tế trong xã hội hiện nay, do tác động của môi trường xã hội,
một bộ phận học sinh, thanh thiếu niên đang bị suy thối về đạo đức, sống
khơng có lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính trị, rất bàng quan với sự phát triển đi lên
của đất nước, không thấy được vai trị vị trí của mỗi cá nhân trong dịng chảy
lịch sử dân tộc. Khi có một sự việc, vấn đề xảy ra trong xã hội thì khơng tự nhận
định được vấn đề đó đúng hay sai, xử lý như thế nào, dẫn đến những hành vi
thiếu đạo đức đáng tiếc.
Đất nước Việt Nam là dải đất cong cong hình chữ S, chứa trong đó bao
cảnh vật đặc sắc. Mỗi một vùng quê đều mang một màu sắc riêng với những địa
danh, phong tục. lễ hội cho trẻ được khám phá, tìm hiểu. Ở đó cịn có bao vị
q, là vị mặn mòi của biển, là mùi thơm rơm rạ, là mát ngọt bát chè xanh…
Những hình ảnh giản dị, thân thương ấy cứ như dòng suối nhỏ, mát ngọt, là
mạch nguồn ni dưỡng tâm hồn, tình cảm; trở thành cội nguồn sức mạnh của
mọi suy nghĩ, hành động, sáng tạo trong mỗi con người. Thế hệ trẻ hôm nay
đang lớn lên trong một thế giới hội nhập, thế giới của công nghệ thông tin đa
chiều… tiếp xúc những nền văn hóa đa dạng nên nhiều học sinh, sinh viên sống
trong thế giới ảo, vô cảm trước truyền thống văn hóa dân tộc, tình u q
hương, u gia đình… Chính vì thế giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho
thế hệ trẻ luôn là việc làm cần thiết của gia đình, nhà trường và tồn xã hội.
Nghệ An là vùng đất cổ, gắn kết hữu cơ với tiến trình phát triển của dân
tộc. Với tinh thần cần cù trong lao động sản xuất và anh dũng trong các cuộc
đấu tranh chống ngoại xâm, nhân dân Nghệ An đã viết nên những trang sử vàng
chói lọi, góp phần tơ thắm lịch sử hào hùng của dân tộc. Nghệ An cũng là vùng
5



đất có bề dày văn hóa, truyền thống hiếu học và khoa bảng… Chính những điều
đó đã tạo nên bản sắc riêng của con người và lịch sử Nghệ An. Bởi vậy, bên
cạnh những những nội dung của lịch sử dân tộc thì nội dung của lịch sử địa
phương, cũng góp phần quan trọng vào giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, đặc
biệt truyền thống yêu quê hương, đất nước, giáo dục cho học sinh niềm tự hào
về nơi “chơn rau cắt rốn” của mình, tự hào về dân tộc, về đất nước mình. Để từ
đó các em có cái nhìn, ý thức đúng đắn về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình,
nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cần có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, tơn trọng và giữ gìn các di sản văn hóa, di tích của địa phương. Do
vậy, việc giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy
học lịch sử địa phương là hết sức quan trong, cần thiết.
Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, tiền thân là trường Quốc học Vinh,
được thành lập từ năm 1920 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Là ngôi trường
lâu đời và có bề dày truyền thống bậc nhất của tỉnh Nghệ An và có thể xếp
ngang hàng với Quốc học Huế (miền Trung), trường Bưởi (miền Bắc) và
Petrus Ký ở miền Nam. Trong suốt gần 100 năm qua, trường Quốc học Vinh Huỳnh Thúc Kháng chính là một phần quan trọng của lịch sử giáo dục Việt
Nam, đã đào tạo hơn 50.000 học sinh, đóng góp tích cực cho sự nghiệp kiến
thiết, xây dựng và đổi mới của đất nước, là nơi đào tạo và trưởng thành của rất
nhiều thế hệ người Việt Nam, trong đó có những cán bộ lãnh đạo cấp cao của
đất nước, các tướng lĩnh của quân đội, các nhà khoa học, nhà thơ, nhà văn, các
nghệ sĩ nổi tiếng.
Với bề dày truyền thống đó trường đã được Đảng và Nhà nước tặng
thưởng nhiều Bằng khen, cờ thi đua của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy
ban nhân dân tỉnh Huân chương Lao động, Huân chương Độc lập và đặc biệt là
trường THPT đầu tiên của Nghệ An được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
Chính vì thế, việc học tập tìm hiểu về lich sử và truyền thống của nhà
trường sẽ giúp học sinh hiểu, thêm yêu, thêm tự hào từ đó có thêm động lực
phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện để viết tiếp những trang sử vàng của nhà trường

luôn là việc làm hết sức cần thiết và ý nghĩa.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

Trong các môn học ở bậc trung học, mơn Lịch sử là mơn học có “sở
trường và ưu thế trong việc giáo dục truyền thống dân tộc, nổi bật là lịng u
nước”, có vai trị quan trọng trong việc giáo dục truyền thống dân tộc cho học
sinh. Thông qua những bài học lịch sử, đặc biệt là những trang sử dân tộc học
sinh sẽ nắm được truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của cha ông trong
quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là yếu tố để vun đắp nên nền tảng đạo đức
truyền thống dân tộc cho các thế hệ học sinh.
Để hiểu rõ thực trạng việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước
trong giảng dạy lịch sử, chúng tôi đã tiến hành khảo sát đối với một số giáo viên
dạy lịch sử trong tỉnh và học sinh các trường: THPT Hoàng Mai 2; THPT Tây
Hiếu (Phiếu khảo sát ở Phụ lục).
6


Thu được kết quả như sau: Về phía giáo viên
Câu hỏi khảo sát
Thầy/ cô đã tiến hành việc giáo dục truyền
thống yêu quê hương đất nước cho học sinh
trong giảng dạy lịch sử địa phương cho học
sinh trong dạy học lịch sử địa phương với tần
suất như thế nào?
Thầy/ cô có thường xun sử dụng cơng nghệ
thơng tin trong giờ dạy của mình khơng?
Thầy/ cơ có thường xun hướng dẫn học sinh
tham gia các hoạt động ngoại khóa khơng?
Thầy/ cơ có tiếp cận thêm những phương pháp
dạy học mới để giúp học sinh tích cực hứng thú

hơn trong học tập khơng?
Kết quả thu được về phía học sinh:
THPT Huỳnh
Thúc Kháng
Câu hỏi khảo sát

Khơng
Em có thích học lịch sử
231/250 19/250
địa phương Nghệ An
92%
8%
khơng?
Theo em, trong trường
THPT có cần thiết phải
240/250 10/250
giáo dục truyền thống
96%
4%
yêu quê hương đất
nước không?
Trong giờ học Lịch sử,
giáo viên của các em có
áp dụng đa dạng các
phương pháp dạy học
105/250 145/250
và sử dụng các phương
42%
58%
tiện dạy học để giáo

dục truyền thống yêu
quê hương đất nước
không?
Theo em, để giáo dục
truyền thống yêu quê
200/250 50/250
hương đất nước thì hoạt
80%
20%
động ngoại khóa có
quan trọng khơng?
Em có thường xun
tìm hiểu nhân vật lịch
80/250 170/250
sử và các sự kiện lịch
32%
68%
sử diễn ra trên q
hương mình khơng?

Kết quả khảo sát
Thường Thỉnh
Khơng
xun thoảng bao giờ
15/25
60%

9/25
36%


1/25
4%

8/25
32%
7/25
28%

17/25
68%
16/25
64%

2/25
8%

13/25
52%

11/25
44%

1/25
4%

0

THPT Hồng Mai
THPT Tây Hiếu
2


Khơng

Khơng
225/250 25/250 188/250 62/250
90%
10%
75%
25%
202/250 48/250 228/250 22/250
81%
19%
91%
9%

125/250 125/250 158/250 92/250
50%
50%
63%
36%

165/250 85/250 170/250 80/250
66%
34%
68%
32%

95/250 155/250 107/250 143/250
38%
62%

43%
57%

7


Như vậy, khi khảo sát thực tiễn dạy học ở các môi trường khác nhau như
trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT Hồng Mai 2, THPT Tây Hiếu; tơi
nhận thấy đa phần giáo viên thấy được nhận thức đúng về tầm quan trọng và ý
nghĩa của việc dạy học lịch sử địa phương, do đó đã chú ý nhiều hơn đến những
tiết dạy phần lịch sử địa phương, kết hợp nhiều phương pháp trong giảng dạy.
Học sinh hiện nay rất năng động sáng tạo, thích khám phá và trải nghiệm… cơ
sở vật chất của các trường đã có nhiều cải thiện. Đó là những thuận lợi trong
việc áp dụng những phương pháp dạy học tích cực mới. Tuy nhiên cơng tác giáo
dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử
địa phương ở trường THPT hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, những bất cập đó là:
- Nhà trường chưa đặt đúng vị trí và chức năng của môn lịch sử trong hệ
thống các môn học ở trường phổ thông, hầu như chỉ tập trung vào các mơn như
Tốn, Lý, Hóa… khiến học sinh có xu hướng coi nhẹ mơn Lịch sử, khơng thích
học mơn Lịch sử dẫn đến chất lượng môn lịch sử hiện nay rất thấp kém.
- Vẫn cịn một số ít giáo viên và học sinh chưa chú ý đúng mức tới vai trò
và ý nghĩa của việc dạy và học Lịch sử địa phương khiến cho nội dung dạy học
lịch sử địa phương khô khan, không hấp dẫn làm cho hiệu quả giáo dục không
cao. Không những vậy phương pháp dạy học buồn tẻ, truyền thụ một chiều,
nặng về đọc chép là ngun nhân góp phần làm cho học sinh khơng thích học
lịch sử địa phương.
- Lịch sử địa phương với rất nhiều nguồn tư liệu phong phú là cơ sở để
người giáo viên có thể khai thác để giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất
nước song việc giáo dục chỉ có thể thực hiện tốt và thực sự hiệu quả khi người
giáo viên xác định đúng nội dung và phương pháp trong quá trình dạy học.

Bởi vậy, hiệu quả của việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học
sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương còn hạn chế.
III. NHỮNG YÊU CẦU CHUNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH
GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG

1. Yêu cầu chung
1.1. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục lòng yêu quê hương với lịng u
đất nước
Trong q trình dạy học lịch sử địa phương, giáo viên cần chú ý đến mối
quan hệ giữa lòng yêu quê hương và lòng yêu đất nước. Mỗi một địa phương là
một bộ phận của Tổ quốc, vì vậy giáo dục lịng u q hương cần kết hợp chặt
chẽ với giáo dục lòng yêu nước. Giáo dục lòng yêu quê hương phải hướng lên
giáo dục lòng yêu nước và ngược lại, giáo dục lòng yêu nước phải chú ý đến
tình cảm với quê hương. Phải làm sao để bất cứ người dân ở vùng quê nào, khi
Tổ quốc cần sẵn đi bất cứ nơi đâu để chiến đấu, để xây dựng, để bảo vệ dù cho
8


đó khơng phải là q hương mình.
1.2. Đảm bảo tính tồn diện, tính khoa học
Tính tồn diện được thể hiện ở chỗ đảm bảo cung cấp cho học sinh một hệ
thống kiến thức cơ bản về lịch sử địa phương trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Để từ đó, các em có hiểu biết toàn diện về lịch sử, con
người và truyền thống của q hương mình. Tính tồn diện cịn bao hàm cả ở
việc rèn luyện, phát triển ở học sinh những kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nhằm
hình thành cho các em năng lực, phẩm chất, vừa phát triển trí tuệ, tình cảm và ý
chí, vừa phát triển lý luận và khả năng thực tiễn.
Tính khoa học được thể hiện trong việc khai thác, lựa chọn nội dung kiến

thức về lịch sử địa phương phải chính xác, tiêu biểu. Bởi chỉ có trên cơ sở lựa
chọn, cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học, chính xác thì giáo viên
mới có cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em.
Từ Nhận thức  Tình cảm  Niềm tin  Hành động. Ở đây chúng ta
cần khẳng định rằng những nội dung kiến thức lịch sử địa phương được cung
cấp cho các em ở trường phổ thông đều phải là những kiến thức phản ánh sự tồn
tại, phát triển của xã hội, lịch sử và con người ở địa phương đó. Điều này sẽ tạo
nên trong đầu các em bức tranh chân thực về lịch sử, con người trên mảnh đất
q hương mình trong q khứ. Nó có khả năng giúp các em hình thành thế giới
quan khoa học, trong đó có sự thống nhất giữa niềm tin và hoạt động thực tiễn.
Bên cạnh việc lựa chọn nội dung kiến thức chính xác thì tính khoa học
cịn thể hiện ở việc lựa chọn những nội dung cơ bản. Sự kiện cơ bản trong dạy
học lịch sử địa phương là những sự kiện tiêu biểu nhất, cơ bản nhất của lịch sử
địa phương mình. Khơng phải sự kiện nào được nói đến cũng mang ra dạy cho
học sinh mà người giáo viên phải biết lựa chọn những sự kiện nào tiêu biểu, có
ảnh hưởng tới tiến trình lịch sử địa phương đó. Ở đây chúng ta cần khẳng định
rằng những nội dung kiến thức lịch sử địa phương được cung cấp cho các em ở
trường phổ thông đều phải là những kiến thức phản ánh sự tồn tại, phát triển của
xã hội, lịch sử và con người ở địa phương đó. Điều này sẽ tạo nên trong đầu các
em bức tranh chân thực về lịch sử, con người trên mảnh đất q hương mình
trong q khứ. Nó có khả năng giúp các em hình thành thế giới quan khoa học,
trong đó có sự thống nhất giữa niềm tin và hoạt động thực tiễn.
Để làm được như trên, người giáo viên phải có một vốn hiểu biết tồn
diện, hệ thống và sâu sắc về lịch sử địa phương mình. Phải không ngừng tiếp
thu, cập nhật kiến thức đồng thời rèn luyện khả năng sư phạm.
Khơng những vậy tính khoa học của nội dung bài học còn được thể hiện ở
việc đánh giá, giải thích để tìm ra bản chất mối quan hệ nhân quả, sự phát triển
hợp quy luật của các sự kiện, hiện tượng lịch sử, khi giải thích, đánh giá phải
đảm bảo nguyên tắc của phương pháp luận sử học: quan điểm lịch sử kết hợp
thống nhất với quan điểm giai cấp, tránh “hiện đại hóa”, xuyên tạc, bóp méo sự

9


thật lịch sử. Nghĩa là khi xem xét, đánh giá một sự kiện nào phải thống nhất giữa
tính đúng và tính khoa học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, vừa đảm
bảo việc cung cấp cho học sinh kiến thức khoa học vừa có tác dụng giáo dục đối
với học sinh.
1.3. Đảm bảo tính sư phạm
Ngồi u cầu đảm bảo tính tồn diện, tính khoa học thì để thực hiện tốt
công tác giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy
học lịch sử địa phương ở trường THPT phải đảm bảo tính sư phạm. Từ đặc điểm
nhận thức và tâm sinh lý của học sinh THPT nên khi tiến hành giáo dục truyền
thống yêu quê hương, đất nước trong dạy học lịch sử địa phương, giáo viên cần
lựa chọn nội dung kiến thức lịch sử địa phương cho phù hợp với yêu cầu giáo
dục, giáo dưỡng và kỹ năng giáo viên cần tìm hiểu và phân loại kiến thức cho
phù hợp với các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc.
Khi dạy lịch sử địa phương dù là trong bài nội khóa hay hoạt động ngoại
khóa, giáo viên cũng phải chú ý đến thời gian học tập, giáo viên phải có kế
hoạch sư phạm cụ thể, làm chủ kiến thức để cung cấp cho học sinh phù hợp với
thời gian.
1.4. Đảm bảo sự thống nhất giữa nội dung kiến thức lịch sử địa phương với
mục đích giáo dục của nhà trường
Vì giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy
học lịch sử địa phương được thực hiện thông qua các hoạt động của nhà trường
trên cơ sở cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con
người ở địa phương, giúp các em hiểu biết về lịch sử đấu tranh anh dũng của
nhân dân địa phương trong lịch sử đấu tranh của cả nước, hiểu biết về những di
tích văn hóa, nghệ thuật và những kinh nghiệm lao động của nhân dân địa
phương, từ đó các em có nhận thức đúng đắn về cuộc sống của nhân dân địa
phương trong quá khứ và hiện tại. Trên cơ sở những hiểu biết đố xây dựng cho

các em niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất, lao động cần cù, thông
minh sáng tạo của địa phương, tự hào về những cảnh trí thiên nhiên bình dị, về
phong cách sinh hoạt văn hóa, mang bản sắc địa phương độc đáo. Chính niềm tự
hào đó làm cho các em thêm gắn bó với quê hương, có ý thức giữ gìn và phát
huy những truyền thống tốt đẹp vốn có của quê hương, đất nước.
Trong dạy học lịch sử nhất là lịch sử địa phương có nhiều ưu thế để tiến
hành giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh. Truyền thống
đó được thể hiện trong nội dung, trong từng mục, từng ý của mỗi bài học lịch sử.
Tùy thuộc vào nội dung cụ thể của từng bài học mà ta có thể giáo dục học sinh,
ở bài này có thể là tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất chống ngoại xâm, bài
kia là truyền thống lao động cần cù, bài khác lại là truyền thống yêu quê hương,
đất nước…
Trên đây là một số yêu cầu mang tính nguyên tắc khi giáo viên tiến hành
10


giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch
sử địa phương ở trường phổ thông. Thực hiện đúng lời dạy của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng: “Lịch sử đâu có phải là một chuỗi sự kiện để người viết sử ghi lại,
rồi người lịch sử đọc lại, người học lịch sử lại học thuộc lòng”, “dạy Sử là dạy
yêu nước”.
2. Một số biện pháp cụ thể
2.1. Giáo dục lịng u q hương thơng qua các nhân vật lịch sử điển hình
của địa phương
Lịng u quê hương đất nước được hình thành qua một thời gian lâu dài
của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Việc giáo dục lòng yêu quê
hương đất nước cho học sinh cũng phải bắt đầu bằng những câu chuyện kể lịch
sử đơn giản từ thời tiểu học như: chuyện kể về cuộc đời Bác Hồ, về những tấm
gương anh hùng: Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Trần Quốc Toản...
Ở bậc Trung học phổ thông, trong hầu hết các bài lịch sử dân tộc, giáo

viên đều có thể khai thác, lồng ghép việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước
cho học sinh. Bằng các sự kiện lịch sử chân thực, sinh động, những tấm gương
anh dũng tuyệt vời của các anh hùng qua các giai đoạn lịch sử, những trận đánh
quyết tử, những chiến thắng vẻ vang, những đóng góp vật chất lẫn tinh thần của
những người đi trước để khơi dậy trong các em sự rung cảm mạnh mẽ về quá
khứ, từ đó các em hiểu được rằng, để có được cuộc sống thanh bình, hạnh phúc
như ngày hơm nay, đã có biết bao người ngã xuống trên mảnh đất này, giành
giật từng tấc đất cho quê hương. Trong qua trình giảng dạy đối với những bài có
liên quan đến các nhân vật lịch sử ở địa phương giáo viên dành thời gian để
trình bày về các nhân vật lịch sử ở địa phương để qua đó giáo dục lịng u q
hương đất nước cho các em.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, học sinh trong việc dạy và học
lịch sử địa phương, Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An đã biên soạn cuốn Một số
chuyên đề lịch sử địa phương Nghệ An gồm 4 chuyên đề, trong đó chuyên đề 2
đã giới thiệu đầy đủ về tiểu sử và những đóng góp của Hồng đế Mai Thúc
Loan; Cương quốc Cơng Nguyễn Xí và Nguyễn Xn Ơn. Song trong q trình
giảng dạy những bài lịch sử dân tộc, chúng tôi đã cố gắng lồng vào để giới thiệu
thêm nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu khác của Nghệ An để tăng thêm tính sinh
động của giờ học và giúp học sinh hiểu lịch sử địa phương sâu sắc hơn, từ đó
tăng thêm hiệu quả của việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước.
Những năm gần đây, chúng tôi đã sử dụng các phương án sau để giáo dục
lòng yêu quê hương thơng qua các nhân vật lịch sử điển hình của địa phương.
2.1.1. Phân cơng cho các nhóm học sinh tìm hiểu và sưu tầm các tư liệu liên
quan nhân vật lịch sử mà các em sắp được học
Sử dụng phương án này, sẽ phát huy được khả năng nghiên cứu, tập hợp
tư liệu góp phần hình thành kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh. Qua đó, các
11


em không những tiếp nhận thông tin một cách chủ động mà cịn rèn luyện được

kĩ năng làm việc nhóm - đây là kĩ năng hết sức quan trọng vừa mang lại hiệu
quả công việc, tiết kiệm thời gian công sức, bổ sung những khiếm khuyết cho
nhau vừa rèn cho các em tính kỉ luật và ý thức trách nhiệm.
Khi thực hiện phân cơng cho các nhóm học sinh, giáo viên cần lưu ý:
- Tùy theo số lượng công việc để chia nhóm học sinh bao nhiêu em một
nhóm (thường từ 5 đến 8 em).
- Trong một nhóm nên có cả học sinh nam và nữ.
- Học lực của các nhóm nên đồng đều nhau. Mỗi nhóm nên có cả học sinh
giỏi, khá và trung bình, bởi mỗi học sinh có những thế mạnh riêng, điều này sẽ
tạo điều kiện để các thành viên giúp đỡ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau.
- Để tránh mất thời gian của học sinh và nâng cao hiệu quả công việc, khi
giao học sinh tìm hiểu nhân vật lịch sử nào giáo viên nên định hướng, giới thiệu
cho học sinh nguồn tài liệu (từ sách, báo hay mạng internet, nếu từ sách, báo thì
cần hướng dẫn học sinh tìm ở đâu…).
- Giáo viên cần định hướng cho học sinh tìm hiểu, sưu tập những gì về
nhân vật lịch sử được giao. Chẳng hạn: yêu cầu tìm hiểu về tiểu sử, sự nghiệp,
những cống hiến cho đất nước, quê hương, mẫu chuyện, những lời đánh giá
nhận xét và tranh ảnh…
- Cử nhóm trưởng của các nhóm và u cầu nhóm trưởng phân cơng
nhiệm vụ cho các thành viên (thư kí, người thuyết trình…).
- Gợi ý cho học sinh cách trình bày sản phẩm: bằng sơ đồ tư duy,
powerpoint…
- Để công việc được giao đảm bảo tiến độ, giáo viên cần ấn định thời gian
cho các nhóm.
Sau khi học sinh báo cáo hay thuyết trình, giáo viên cần mời các nhóm
khác nhận xét sau đó giáo viên đánh giá để rút kinh nghiệm cho lần sau.
Giới thiệu một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914) (chương trình Lịch sử lớp 11Ban cơ bản), giáo viên có thể giao nhiệm vụ và hướng dẫn cho một nhóm học
sinh tìm hiểu về nhà Chí sĩ Đặng Thái Thân.

Để tìm hiểu về Chí sĩ Đặng Thái Thân, tơi giao cho nhóm gồm 5 học
sinh, trong đó có 2 học sinh nam, 3 học sinh nữ, 2 em có học lực loại giỏi, 3
em loại khá. Cơng việc được giao là tìm những nét chính về tiểu sử; những
cống hiến cho lịch sử dân tộc, cho quê hương; tinh thần chiến đấu kiên cường
của Đặng Thái Thân, những nhận xét của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng
về Đặng Thái Thân. Do tài liệu về Đặng Thái Thân chưa phong phú, nên tôi
12


hướng dẫn học sinh tìm hiểu tại Thư viện tỉnh và khai thác trên các bài báo của
Đảng và địa phương.
Mục 1: Phan Bội Châu và xu hướng bạo động cùng với việc giới thiệu về
Phan Bội Châu, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày phần việc đã được giao
chuẩn bị trước về Đặng Thái Thân, giáo viên nhận xét đánh giá về sản phẩm của
học sinh, sau đó giáo viên đưa hình ảnh Đặng Thái Thân và chốt lại:
Đặng Thái Thân (hiệu là Ngư Hải), sinh năm 1873 tại làng Mỹ Chiêm
(nay là xóm Phong Thái xã Nghi Phong, huyện Nghi Lộc) trong một gia đình
nhà Nho làm nghề bốc thuốc chữa bệnh. Ngay từ nhỏ, Đặng Thái Thân đã nổi
tiếng thông minh, hiếu học. Với học vấn uyên bác, ông từng thi đỗ đầu xứ nên
gọi là “đầu xứ Đặng”. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, Đặng Thái Thân đã
sớm hình thành lịng căm thù bọn thực dân, phong kiến bù nhìn và khát vọng
cứu nước, cứu dân. Ngay từ rất sớm, Đặng Thái Thân đã được tiếp xúc và trở
thành người bạn thân thiết của chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu. Từ năm 1900 trở
đi, chính Đặng Thái Thân là người đã tận tình giúp đỡ cho cụ Phan vào Nam ra
Bắc tìm bạn đồng chí, tuyên truyền vận động yêu nước, gây dựng cơ sở quần
chúng, tạo nguồn vật chất cho việc lớn sau này. Tháng 4 năm 1904, Đặng Thái
Thân cùng với Phan Bội Châu và một số nhà yêu nước khác lập ra Hội Duy Tân,
đề xướng phong trào Đông Du. Tháng 12 năm 1904, trong một cuộc họp tại
Quảng Nam, Hội Duy Tân đã phân công Đặng Thái Thân nhận trọng trách lo
chuẩn bị lực lượng trong nước. Ông đã phải lặn lộn khắp nơi để gây dựng lực

lượng, giúp đỡ phong trào. Bên cạnh đó, ơng cịn tích cực vận động, lôi kéo
những phần tử trong hàng ngũ địch. Chính ơng là người đã trực tiếp vận động,
tun truyền một Chánh suất đội phụ trách đội lính tập trong thành Nghệ An
đem cả khí giới về với Hội Duy Tân. Ngày 1/3/1910, trong lúc về làng Phan
Thôn (nay là xã Nghi Kim, TP Vinh) để hoạt động, do có kẻ chỉ điểm, Đặng
Thái Thân đã bị giặc Pháp bao vây. Trước tình thế nguy cấp, để bảo vệ tài liệu
mật và kiên quyết không để giặc bắt, Đặng Thái Thân đã bắn chết tên tay sai,
hủy tài liệu mật và anh dũng tự sát. Lúc này, Đặng Thái Thân mới 37 tuổi. Cái
chết oanh liệt của Đặng Thái Thân là một tổn thất to lớn cho tổ chức, cho phong
trào, để lại lịng xót thương vơ hạn cho đồng chí, đồng bào.
Phan Bội Châu ghi về ơng: “Đặng quân vốn người hăng hái gan dạ, nhân
phẩm lại cao, trải mười năm vừa là thầy vừa là bạn tôi” (Ngục Trung Thư).
Huỳnh Thúc Kháng đề cao ông: “Người khảng khái, trầm tĩnh, học vấn
uyên bác, đởm thức hơn người; cái năng lực gánh nặng đi đường xa không lộ ra
ngồi, khơng phải là người đồng chí tâm giao thì không ai biết là người thế nào.
Cụ Sào Nam ở ngoài, sau Tây Hồ và Tiểu La bị đày, mà trong khoảng vài năm
phong trào Đơng học cịn ảnh hưởng lừng lẫy khơng dứt, chính nhờ sức Ngư
Hải. Trong miền Nam thì có Sơn Tẩu (Đỗ Đăng Tuyển) và Nam Xương (Thái
Phiên). Từ khi Ngư Hải mất, cụ Sào Nam như mất cánh tay, cái dây liên lạc
trong ngoài bị đứt đoạn” (Thi tù tùng thoại).
13


Như vậy, việc giới thiệu về Chí sĩ Đặng Thái Thân không những giúp học
sinh hiểu biết thêm về một nhân vật lịch sử của địa phương mà còn giúp học
sinh hiểu được tình đồng chí giữa Phan Bội Châu và Đặng Thái Thân, hiểu thêm
về hy sinh của các ơng vì sự nghiệp cứu nước cứu dân, qua đó tăng thêm tính
giáo dục cho học sinh.
Bài 15: Phong trào dân chủ 1936-1939 (chương trình Lịch sử 12- Ban cơ
bản). Mục II Phong trào dân chủ 1936 -1939, mục 1: Hội nghị Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 7/1936.
Giáo viên đưa ra các câu hỏi định hướng để học sinh tìm hiểu:
1. Em hãy trình bày những nét cơ bản về thân thế và sự nghiệp của đồng
chí Lê Hồng Phong.
2. Cơng lao của đồng chí Lê Hồng Phong đối với cách mạng Việt Nam.
Sau khi các nhóm trình bày sản phẩm của mình, giáo viên trình chiếu
hình ảnh đồng chí Lê Hồng Phong - người chiến sĩ cộng sản tiêu biểu cho chủ
nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, nguyên là Tổng Bí thư của Đảng Cộng
sản Việt Nam, người học trò gần gũi và xuất sắc của Bác Hồ và chốt lại những
ý cơ bản: Đồng chí có tên thật là Lê Huy Dỗn, sinh ngày 6/9/1902, trong một
gia đình nơng dân ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên,
tỉnh Nghệ An, (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An).
Đồng chí Lê Hồng Phong mang sẵn trong mình lịng yêu nước, chí căm thù
giặc và sớm giác ngộ rồi dấn thân vào con đường cách mạng cứu nước, cứu
dân. Được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đào tạo, dẫn dắt, Lê Hồng Phong đã được
học tập, rèn luyện rất toàn diện, bài bản cả về chính trị và quân sự, được Quốc
tế Cộng sản tin cậy. Đồng chí có cơng lao to lớn trong việc khôi phục lại cơ
quan lãnh đạo và các tổ chức cơ sở Đảng sau cao trào cách mạng 1930-1931,
đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh.
Sau khi về nước, trực tiếp cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào cách
mạng, khôi phục tổ chức Đảng, triển khai chủ trương chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược khi tình hình thay đổi, đồng chí bị địch bắt, rồi đày ra Nhà tù Côn
Đảo, tra tấn, hành hạ dã man cho đến lúc đồng chí hy sinh ngày 6/9/1942 khi
trịn 40 tuổi.
Với 40 tuổi đời, gần 20 năm hoạt động cách mạng, Tổng Bí thư Lê Hồng
Phong cùng các đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ
và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp vẻ
vang của Đảng và của dân tộc ta, để lại tấm gương sáng chói về đạo đức cách
mạng, suốt đời phấn đấu hy sinh cho độc lập dân tộc, tận trung với Đảng, tận
hiếu với dân, son sắt, thủy chung với bạn bè, đồng chí, lạc quan tin tưởng vào

thắng lợi vẻ vang của cách mạng.
14


2.1.2. Sử dụng các đoạn phim tài liệu lịch sử để giới thiệu nhân vật lịch sử
Dựa trên cơ sở lý thuyết của khoa học thần kinh nhận thức, Jean Marc
Dénommé và Madeleine Roy (2000) đã đưa ra một cách tiếp cận cơ bản - cách
tiếp cận “Sư phạm tương tác”, trong đó chú trọng vào việc nghiên cứu sự tham
gia của hệ thống thần kinh vào việc học. Theo quan điểm “Sư phạm tương tác”
mỗi người có một “bộ máy học” bao gồm hệ thần kinh và các giác quan. Trong
đó các giác quan được coi là cổng vào của tri thức. Càng nhiều giác quan tham
gia vào quá trình học tập thì thơng tin thu được càng nhiều. Vùng limbic có vai
trị là “trung tâm hứng thú”, có thể chấp nhận hoặc loại bỏ thông tin mới. Do vậy
để giúp học sinh học tập một cách hiệu quả giáo viên sử dụng các đồ dùng trực
quan nhằm kích thích đa giác quan của học sinh và làm cho giờ học trở nên sinh
động, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, học sinh
không thể trực tiếp quan sát những sự kiện, hiện tượng đó, vì vậy việc nhận thức
lịch sử là rất khó khăn. Tuy nhiên, học sinh có thể hình dung được q khứ lịch
sử qua các đoạn phim tư liệu - là loại phim được xây dựng dựa trên hình ảnh
hoặc những thước phim ghi lại diễn biến sự kiện lịch sử tại thời điểm mà nó diễn
ra. Do vậy, nó đảm bảo tính chính xác, chân thực của quá khứ. Âm thanh, hình
ảnh sinh động của phim tư liệu lịch sử là phương tiện tác động đến thị giác,
thính giác giúp cho q trình thu nhận thơng tin của “bộ máy học” dễ dàng hơn.
Đây là một biện pháp hay, giúp các em được tiếp cận phương pháp dạy
học mới hấp dẫn hơn phương pháp đọc - chép truyền thống, có được những biểu
hiện lịch sử chân thực, chính xác trong bối cảnh thời gian, không gian xác định
ở những điều kiện cụ thể, qua đó giúp các em khơi phục được bức tranh quá khứ
đúng như nó đã tồn tại, khắc phục hiện tượng “hiện đại hóa” lịch sử. Trên cơ sở
đó, học sinh hiểu sâu sắc bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử và vận dụng vào

cuộc sống.
Khi tiến hành biện pháp này giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học giáo viên lựa chọn biện pháp sử
dụng phim tài liệu lịch sử phù hợp nhằm đạt được hiệu quả dạy học.
- Nội dung của phim phải bám sát nội dung bài học, thông tin do đoạn
phim cung cấp phải đảm bảo độ chính xác, chân thực.
- Thời lượng mỗi đoạn phim tuỳ theo dung lượng của bài học, các đoạn
phim không nên quá dài.
- Số lần sử dụng phim cho một tiết học không nên quá ba lần vì giáo cịn
phải kết hợp sử dụng các phương pháp khác. Hơn nữa nếu số lần xem phim quá
nhiều dễ làm cho học sinh không tập trung vào nội dung bài học.
- Các phương tiện kĩ thuật cần thiết để thực hiện giờ dạy có sử dụng phim
tài liệu lịch sử là: máy vi tính, máy chiếu (Projector), màn chiếu. Trong trường
15


hợp khơng có các thiết bị trên chúng ta có thể sử dụng đầu đọc đĩa CD, màn
hình vơ tuyến cỡ lớn là có thể thực hiện được bài dạy.
- Điều chỉnh ánh sáng trong phòng học, sắp đặt vị trí của máy chiếu, màn
chiếu, loa sao cho hợp lí, đảm bảo mọi học sinh trong lớp đều quan sát được
phim và nghe rõ được âm thanh.
- Giáo viên phải định hướng nhiệm vụ học tập rõ ràng cho học sinh trước
khi xem phim nếu không giờ học sẽ biến thành giờ xem phim giải trí.
Giáo viên có thể tìm kiếm tư liệu phim lịch sử trên internet hoặc các đĩa
tư liệu dạy học lịch sử do nhà xuất bản giáo dục phát hành đảm bảo tính chính
xác và khoa học. Sau đó giáo viên lưu file, sắp xếp theo bài học, khối học cho
phù hợp để phục vụ nội dung giảng dạy.
Việc sử dụng đoạn phim tài liệu khoa học trong dạy học lịch sử không chỉ
làm phong phú thêm bài giảng, hạn chế tình trạng “thầy đọc - trị chép” mà cịn
giúp học sinh có cảm giác đang sống cùng và tham gia vào các sự kiện, hiện

tượng lịch sử đó. Qua đó, hình thành ở các em lòng yêu quê hương đất nước,
niềm tự hào dân tộc, sự biết ơn đối với những người có cơng với đất nước, lòng
căm thù sâu sắc đối với quân xâm lược…
2.1.3. Sử dụng phương pháp đóng vai nhân vật lịch sử ở địa phương
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, “làm thử” một
số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định hay một nhân vật nào đó.
Đây là phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng
cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát
được, giúp các em hiểu rõ thêm về nhân vật mà các em sắm vai.
Phương pháp đóng vai có thể góp phần tạo ra những thay đổi tích cực
trong cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh. Phương pháp này đã thể
hiện được những ưu điểm nổi bật trong việc phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học, gắn lí thuyết với thực tế, nâng cao khả năng thực hành
cho người học và đáp ứng được các mục tiêu giáo dục mà Unessco đã đề ra, đó
là “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”,
phương pháp đóng vai cũng đáp ứng được tinh thần chỉ đạo mà nghị quyết
Trung ương II (khóa VIII) đã chỉ rõ “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục
và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen nền nếp tư
duy sáng tạo cho người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
hiện đại vào quá trình dạy học”.
a. Một số yêu cầu khi vận dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Lịch
sử ở trường phổ thông
* Đảm bảo mục tiêu giáo dục:
- Về kiến thức: phương pháp đóng vai hay bất kì một phương pháp dạy
học nào phải đảm bảo yêu cầu cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ
16


thông, cơ bản và hiện đại, sát với thực tế đất nước trên cơ sở đó sẽ là nền tảng để
học sinh đi sâu tự nghiên cứu, tự khám phá ở bậc học cao hơn, phù hợp với năng

lực và sở thích của từng cá nhân.
- Về kĩ năng: Mỗi phương pháp dạy học phải đảm bảo rèn cho HS các kĩ
năng tư duy như so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, đánh giá, khái qt hóa,
trừu tượng hóa và các thao tác tư duy gồm tính quyết đốn, độc lập, mềm dẻo...
phương pháp đóng vai là một phương pháp dạy học tích cực, càng có điều kiện
giúp học sinh phát triển trí tuệ, phát huy các kĩ năng và thao tác tư duy thơng
qua hoạt động nhóm, hoạt động “đóng vai”, ứng xử tình huống... Việc hình
thành và phát triển cho học sinh những kĩ năng và thao tác tư duy có vai trị rất
quan trọng vì đây chính là phương tiện giúp học sinh tự mình khám phá tri thức
khi rời nhà trường.
Bên cạnh yêu cầu cung cấp kiến thức, phát triển trí tuệ thì phương pháp
đóng vai phải đảm bảo yêu cầu giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho
người học. Đặc biệt lịch sử là mơn học có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục
đạo đức cho học sinh, đó là tình u quê hương, đất nước; tự hào, biết ơn về
truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo về đất nước của cha ơng;
trân trọng những giá trị văn hóa của đất nước... trên cơ sở đó có ý thức, trách
nhiệm xây dựng, bảo vệ, gìn giữ những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của
tổ tiên để lại.
* Đảm bảo tính kế thừa và phát triển: Kế thừa những nội dung bài giảng
đã học của học sinh, lấy những nội dung kiến thức mà các em đã được học làm
nền tảng, làm cơ sở để tổ chức hoạt động.
* Đảm bảo tính khả thi:
- Khả thi về “kịch bản”: Kịch bản phải được xây dựng căn cứ vào mục
tiêu, nội dung của bài học nhằm đảm bảo tính đúng lúc, đúng chỗ của việc sử
dụng phương pháp dạy học; kịch bản phải có kịch tính để gây hứng thú, gây sự
chú ý và mang tính thuyết phục cao về tư tưởng và hành vi; kịch bản phải có
tính tích cực, mang lại hiệu quả giáo dục cao; kịch bản phải tôn trọng sự thật
lịch sử. Đồng thời, giáo viên không thể bỏ qua khâu duyệt kịch bản trước khi để
học sinh “diễn” trước lớp.
- Khả thi về thời gian: Thời gian luôn là một yếu tố gây trở ngại với giáo

viên khi vận dụng phương pháp đóng vai, đặc biệt là vận dụng phương pháp
đóng vai trong giờ nội khóa. Do vậy, việc lựa chọn nội dung phù hợp để vận
dụng phương pháp đóng vai là vơ cùng quan trọng; khả thi về điều kiện vật chất,
phương tiện hỗ trợ dạy học: phương pháp sẽ phát huy tối đa hiệu quả của nó nếu
có sự chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ dạy học. Đặc biệt với
các chương trình ngoại khóa ngồi phạm vi lớp học cần thiết phải có sự chuẩn bị
kĩ lưỡng, đầu tư chu đáo.
17


* Đảm bảo khai thác kiến thức cơ bản, trọng tâm.
Kiến thức cơ bản, trọng tâm là những kiến thức đã được chọn lọc từ khối
lượng tri thức đồ sộ của khoa học bộ mơn và đưa vào chương trình, sách giáo
khoa. Chương trình là pháp lệnh phải tuân theo.
* Đảm bảo phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh.
Hoạt động đóng vai phải phát huy được tính tập thể, tinh thần đoàn kết,
khả năng hợp tác và làm việc theo nhóm của học sinh. Nhất là đóng vai trong
bài học nội khóa và hoạt động ngoại khóa, học sinh thường phải làm việc theo
nhóm, địi hỏi sự tự giác và tích cực của tất cả các thành viên. Bên cạnh đó mỗi
học sinh cần phát huy tinh thần độc lập của bản thân, chủ động tham gia vào
hoạt động chung của nhóm, của cả lớp.
* Nguyên tắc tự nguyện của học sinh:
Nguyên tắc tự nguyện chính là sự tôn trọng của giáo viên đối với học
sinh, chỉ có tơn trọng học sinh mới có thể đối thoại được với các em. Bất kỳ một
phương pháp dạy học nào cũng cần tuân thủ nguyên tắc này, đặc biệt là phương
pháp đóng vai. Phương pháp đóng vai có những đặc thù riêng khác với phương
pháp dạy học truyền thống, địi hỏi sự tự nguyện rất cao từ phía người học.
b. Các phương án đóng vai.
Thơng thường chúng tơi sử dụng hai phương án đóng vai trong dạy học
lịch sử là: Đóng vai nhân vật và đóng vai tình huống.

Đóng vai nhân vật là người học được cung cấp thông tin về nhân vật sẽ
đóng, các em có thể tìm hiểu về nhân vật thơng qua sách, báo, tạp chí, sách lịch
sử, hay phim ảnh. Đặc biệt với các danh nhân, danh tướng thì học sinh càng dễ
dàng tìm nguồn tham khảo hơn, nhất là qua phim ảnh vì những nhân vật này
thường được dựng thành phim. Bên cạnh đó cịn một nguồn tham khảo rất giá trị
đó là các tượng đài. Mỗi vai diễn sẽ có một đặc thù tính cách riêng và khó khăn
nhất là khi thể hiện cái “thần” của nhân vật lịch sử bởi đó là những con người đã
sống cách đây hàng trăm, hàng ngàn năm nên cách đi đứng, ăn nói cũng khác
biệt rất nhiều so với thời đại mà học sinh đang sống.
Ví dụ, khi đóng vai nhân vật Quang Trung, học sinh tham khảo từ bộ tiểu
thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí của Ngơ gia văn phái, có viết: “Nguyễn
Huệ có một con mắt nhỏ, nhưng cái trịng rất lạ, ban đêm ngồi khơng có đèn, thì
ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu… là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh
và có tài cầm quân. Xem hắn ra bắc vào nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có
thể lường biết…vẻ mặt rực rỡ, nghiêm nghị”. Cái khó của học sinh khi đóng vai
là thể hiện được vẻ mặt “rực rỡ”, tức ánh hào quang rạng rỡ của người chiến
thắng và vẻ mặt “nghiêm nghị”, tức cái uy vũ của vua Quang Trung khiến cho
kẻ thù phải khiếp sợ. Vì vậy để có được ngoại hình và thần thái giống như nhân
vật lịch sử đòi hỏi học sinh phải tìm hiểu rất kĩ và thực sự say mê với vai diễn
18


của mình. Chính trong q trình nhập vai đã khơng ít học sinh bộc lộ được tài
năng diễn xuất và cũng từ đó các em có định hướng nghề nghiệp cho bản thân.
Nếu như trong đóng vai thể hiện hình tượng nhân vật, học sinh đã được
giáo viên cung cấp thơng tin về nhân vật hoặc có thể tìm hiểu về nhân vật từ
nhiều nguồn tham khảo khác nhau thì đóng vai tình huống người học phải tự
hình dung về nhân vật sẽ đóng thơng qua các dữ liệu của tình. Cịn đóng vai tình
huống học sinh khơng bị đi vào lối mịn, khơng phải gị vai diễn theo bất kì một
khn mẫu nào mà ngược lại các em được thỏa sức để trí tưởng tượng của mình

bay bổng và sáng tạo.
Ví dụ: Em hãy tưởng tượng mình là một người dân tham gia cuộc biểu
tình của nơng dân huyện Hưng Nguyên ngày 12/9/1930 kể lại diễn biến của
cuộc biểu tình để các bạn thấy được khơng khí sục sơi cách mạng cao trào cách
mạng 1930 - 1931.
Muốn thể hiện tốt vai diễn địi hỏi học sinh phải có kiến thức của bài học,
phải tự mình tưởng tượng, sáng tạo để làm cho nhân vật của mình thực sự sinh
động. Thông qua vai diễn tự tưởng tượng học sinh thể hiện được nhận thức, thái
độ của mình trong các tình huống cụ thể và học sinh phải có cách ứng xử sao
cho phù hợp với tình huống đó. Đồng thời học sinh được bộc lộ khả năng tự
nhận thức, khả năng giao tiếp, tự giải quyết vấn đề, được rèn luyện khả năng
thực hành và qua đó cũng thúc đẩy sự thay đổi nhận thức, hành vi thái độ của
học sinh theo hướng tích cực.
c. Quy trình vận dụng
Bước 1. Giáo viên căn cứ vào nội dung, mục tiêu cụ thể của bài học, nêu
ra tình huống đóng vai.
Bước 2. Giáo viên chia nhóm và giao tình huống cụ thể (có thể học sinh
tự chọn tình huống), quy định rõ thời gian chuẩn bị “kịch bản” và thời gian thể
hiện vai diễn theo kịch bản của các nhóm.
Bước 3. Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản”, phân cơng vai diễn,
tập dượt diễn xuất trong nhóm.
Bước 4. Các nhóm thơng qua “kịch bản” với giáo viên.
Bước 5. Các nhóm được phân cơng lên đóng vai theo “kịch bản” đã xây
dựng.
Bước 6. Nhận xét, đánh giá.
+ Đại diện nhóm tự nhận xét, đánh giá.
+ Các nhóm cịn lại nhận xét, bổ sung, đặt câu hỏi, phản biện, tranh luận...
+ GV tổng kết, đánh giá. Giáo viên có thể phỏng vấn học sinh đóng vai
một số câu hỏi như:
19



Vì sao em lại ứng xử như vậy?
Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử? Khi nhận được cách
ứng xử (đúng hoặc sai)
Lớp thảo luận, nhận xét:
Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp?
Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?
Từ đó, giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
Bước 7. Kết luận và rút ra bài học nhận thức, kỹ năng.
Bước 8. Giáo viên cho điểm các nhóm (giáo viên cũng có thể cho học
sinh đánh giá chéo giữa các nhóm).
Phương pháp đóng vai có nhiều ưu điểm: như gây hứng thú, tạo khơng
khí học tập sôi nổi và tranh luận; giúp học sinh thể hiện mình trước đám đơng;
tích cực chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức và liên hệ với thực tế; để
lại ấn tượng sâu hơn với bài học; phát huy khả năng sáng tạo và diễn xuất; hầu
hết học sinh đều tỏ ra rất thích khi được đóng vai trong khi học mơn lịch sử. Có
thể nói, việc học sinh rất hứng thú với đóng vai là một thuận lợi rất lớn với giáo
viên khi vận dụng phương pháp này trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực hóa hiện nay vì học sinh sẽ hưởng ứng và tích cực tham gia
hợp tác với giáo viên và hợp tác các bạn trong nhóm, trong lớp. Khi học sinh
tham gia đóng vai nhân vật lịch sử của địa phương chắc chắn các em sẽ có ấn
tượng mạnh về nhân vật đó, nảy sinh tình cảm, sự khâm phục biết ơn đối với
nhân vật lịch sử đã có cơng lao đối với Tổ quốc, điều này sẽ góp phần khơng
nhỏ vào việc hình thành tình cảm yêu quê hương đất nước.
2.2. Sử dụng thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương để làm phong phú
bài học đồng thời giáo dục tình yêu quê hương cho học sinh
Việc đưa những chất liệu thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương vào
bài giảng lịch sử dân tộc sẽ là phương tiện làm phong phú sự hiểu biết của học
sinh về quê hương, tự hào với những truyền thống tốt đẹp của quê hương: anh

hùng, bất khuất trong đấu tranh; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, đồn
kết, tương thân tương ái... Từ đó giáo dục cho các em lịng u q hương. Điều
này có vai trị khơng nhỏ trong giáo dục tư tưởng - chính trị, đạo đức cho học
sinh, góp phần hình thành lịng u nước chân chính kết hợp với tinh thần quốc
tế vô sản cho thế hệ trẻ.
Tài liệu lịch sử địa phương được sử dụng trong dạy học lịch sử dân tộc
trên lớp đòi hỏi giáo viên phải nắm được các giai đoạn phát triển nhiều mặt của
lịch sử địa phương tương ứng với các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc,
tức là có sự phù hợp giữa tài liệu lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc. Phải tôn
trọng sự thực lịch sử và việc nhận thức đúng lịch sử trong quá khứ để rút ra bài
20


học bổ ích cho hiện tại, phục vụ cho cơng cuộc đấu tranh cách mạng và lao động
sáng tạo xây dựng đất nước ở địa phương. Có như vậy, tài liệu lịch sử đại
phương mới trở thành nguồn nhận thức sinh động, hấp dẫn, tạo hứng thú học tập
cho các em.
Việc lồng thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương vào bài học lịch sử
dân tộc phù hợp không chỉ cung cấp, mở rộng kiến thức cho học sinh, giúp các
em hình dung về các sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách dễ dàng hơn, để bài
học lịch sử dân tộc được sâu sắc hơn đối với các em, mà những tài liệu này còn
gây ấn tượng mạnh mẽ cho học sinh, các em càng thêm tự hào về q hương
mình đã hết lịng, hết sức vì cách mạng, vì thắng lợi chung của cả dân tộc. Đồng
thời các em cũng hiểu sâu sắc hơn về quê hương trong một thời kỳ lịch sử nhất
định, hiểu được nhân dân Nghệ An đã góp phần vơ cùng quan trọng trong quá
trình phát triển của cách mạng Việt Nam như thế nào. Từ đó, bồi dưỡng niềm tự
hào về quê hương; bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước, ý chí đấu tranh,
tinh thần đồn kết dân tộc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng nói chung và của
quân dân tỉnh Nghệ An nói riêng, giúp các em suy nghĩ về vị trí, ý thức trách
nhiệm của mình đối với quê hương hôm nay.

Khi dạy bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X
- XV, phần 1 (II) Giáo dục, giáo viên cần liên hệ với giáo dục Nghệ An. Ngoài
việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu các thành tích nổi bật của học trị Nghệ An,
giáo viên có thể đưa hình ảnh “Con cá gỗ” và đọc bài thơ “Sự tích cá gỗ” [xem
Phụ lục] để học sinh thấy được những học trò xứ Nghệ từ một vùng quê "nghèo
rớt mồng tơi", đã phải "gồng mình đi lên như thế nào" để "vượt khó, vượt khổ".
Trong cái "gian lao" ấy, tâm hồn và ý thức của họ thật lớn, trong cái sự "nghèo
túng" ấy, người Xứ Nghệ đã biết "ước mơ", biết "khao khát" từ những việc
tưởng như rất nhỏ hàng ngày, ẩn chìm và hiển hiện trong mỗi bữa cơm ăn, trong
nỗi lo thường nhật, nhưng là khát vọng để vươn tới, để cố gắng, hình ảnh "cá
gỗ" hay “dân cá gỗ” mãi là niềm tự hào, là biểu hiện sinh động cho tinh thần
ham học của học trò xứ Nghệ. Qua đó, học sinh sẽ hiểu hơn về truyền thống “đất
học” của q hương mình và ni dưỡng trong tâm hồn học sinh ý thức về việc
học tập, phấn đấu trở thành người có ích cho q hương đất nước.
Khi dạy bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 - 1935”, trong mục II “Phong trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh”, 1 “Phong trào cách mạng 1930 - 1931”, khi nói đến cuộc đấu tranh 1/5/1930, để
giúp học sinh hiểu rõ được ý chí đấu tranh quật cường, tinh thần đồn kết, u
nước của nhân dân tỉnh nhà, giáo viên có thể sử dụng đoạn tư liệu sau đây:
“Sáng ngày mồng 1 tháng 5, tại thành phố Vinh - Bến Thủy và các huyện
Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Thanh Chương đã nổ ra biểu tình lớn.
Tại thành phố Vinh - Bến Thủy, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ ủy Trung
kỳ, Đảng bộ Vinh vận động 1.200 nông dân các làng ngoại ô như Lộc Đa, Đức
Thịnh, Yên Dũng (Hưng Nguyên), An Hậu, Đức Hậu (Nghi Lộc) kéo vào thành
21


phố phối hợp với công nhân các nhà máy biểu tình, đưa u sách đến tên Cơng
sứ và Tổng đốc Nghệ An. Khi nhận được tin về cuộc biểu tình, tên Cơng sứ
Pháp ở Nghệ An huy động lính đến canh gác, bảo vệ các nhà máy và sai viên tri
phủ Hưng Ngun đưa lính đến ngăn cản đồn biểu tình của nơng dân đang trên
đường hàng tỉnh Cửa Hội - Vinh kéo vào thành phố. Theo lệnh của tên công sứ

Nghệ An, bọn giám binh, chánh mật thám, chánh cảnh sát thành phố huy động
10 chiếc ô tô chở đầy lính khố xanh, cảnh sát đến đàn áp quần chúng biểu tình.
Gạt lưỡi lê, báng súng của kẻ thù, đồn biểu tình của cơng nhân, nơng dân vẫn
xiết chặt hàng ngũ, vừa tiến bước, vừa hát vang bài ca quốc tế:
“Hỡi ai nô lệ trên đời,
Hỡi ai cực khổ đồng thời đứng lên,
Bất bình này chịu sao yên,
Phá cho tan nát một phen cho rồi”
Khí thế hiên ngang của đồn biểu tình đã lơi cuốn thêm nhiều bà con nông
dân các huyện Nghi Xuân, Can Lộc đang trên đường đi chợ Vinh cùng tham gia
đấu tranh. Không ngăn cản được bước tiến của đồn biểu tình, đế quốc Pháp xua
lính xuống ngã ba Bến Thủy lập thành hàng rào chặn ngang trước cổng các nhà
máy. Đồn biểu tình mỗi lúc một đông thêm. Từ trong nhà máy công nhân ùa ra,
ở ngồi nhà máy đồn biểu tình ào ạt sát vào hàng rào lính. Tên giám binh Pháp
luống cuống hơ lính bắn. Hàng loạt súng nổ lên trời. Tên giám binh dùng báng
súng đánh lính. Đồng chí Nguyễn Đơn Nhỗn, một đảng viên cộng sản, xơng lên
tát vào mặt tên giám binh và cướp súng của hắn đập xuống nền đường làm khẩu
súng gãy đôi. Bọn chánh cảnh sát, chánh mật thám và chủ nhà máy diêm bắn xả
vào đồn biểu tình làm 6 người chết, 10 người bị thương. Đồng chí Nguyễn Đơn
Nhỗn anh dũng hi sinh. Đồn biểu tình tiếp tục xơng lên xung đột với kẻ thù.
Gần một trăm người đã bị chúng bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh. Mặc dù bị
địch khủng bố, nhưng các cán bộ, đảng viên vẫn ở lại cùng nhân dân lượm xác
những người đã hi sinh đưa về mai táng và dìu dắt những người bị thương về
nhà cứu chữa”.
Qua những đoạn tư liệu cụ thể, sinh động như thế sẽ tạo được cảm xúc
thực cho học sinh, làm cho các em không chỉ hiểu rõ hơn truyền thống bất khuất
của quê hương mà còn giáo dục cho các em lòng căm thù sâu sắc bọn xâm lược
Pháp và tay sai. Cũng qua đó học sinh sẽ nhận thấy rằng, những thành quả cách
mạng có được ngày hơm nay không hề dễ dàng, mà phải đánh đổi bằng xương
máu của biết bao nhiêu người. Đồng thời giáo dục cho các em lịng khâm phục,

kính u và biết ơn các chiến sỹ cộng sản, những người con kiên trung của Đảng
đi đầu trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Khi dạy bài 16 “Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng
Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời”, trong mục III “Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền”, 1 - “Khởi nghĩa từng phần (từ tháng
22


×